DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?

TÁI PHẠM HAY TÁI PHẠM NGUY HIỂM

Vụ án 1: Ngày 16/1/2016 Cơ quan công an bắt quả tang N cất giấu trong người một gói nhỏ có cất bột màu trắng, qua giám định đã kết luận số chất bột màu trắng thu giữ của N là 0,19 gam hêrôin. Bản thân N đã có nhiều tiền án cụ thể như sau:

Tại bản án ngày 20/12/2009 N bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (tài sản là trị giá 14.000.000 đồng).

Sau khi mãn hạn tù, ngày 18/2/2012, chưa được xóa án tích N tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp trị giá 10.000.000 đồng. Tại bản án 15/5/2012 N bị Tòa án huyện xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp. Trong bản án này Tòa án không nhận định và áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là Tái phạm theo Điều 48 khoản 1 điểm g BLHS đối với N.

Vụ án đã kết thúc điều tra, Viện kiểm sát truy tố N về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 194 khoản 1 Bộ luật hình sự và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang Tòa án để xét xử.

Tuy nhiên sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Tòa án cho rằng hành vi của N phải bị truy tố theo Điều 194 khoản 2 điểm p (tái phạm nguy hiểm). Bởi lẽ: mặc dù bản án ngày 15/5/2012 không nhận định, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm đối với N,  nhưng căn cứ vào Điều 49 khoản 1 của Bộ luật hình sự thì, N đã có một tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý. Vậy phải xác định trong lần phạm tội ngày 18/2/2012 N đã tái phạm. N đã tái phạm và cả hai bản án chưa được xóa án lại tiếp tục phạm tội do cố ý, vì vậy phải xác định lần phạm tội ngày 16/1/2016 của N là Tái phạm nguy hiểm, đây là tình tiết định khung hình phạt quy định tại Điều 194 khoản 2 điểm p Bộ luật hình sự.

Quan điểm của Viện kiểm sát: mặc dù N đã có hai tiền án chưa được xóa án tích song bản án gần nhất (Bản án ngày 15/5/2012 ), Tòa án không nhận định, không tuyên bố xác định T tái phạm. Theo quy định tại Điều 49 khoản 2 điểm b Bộ luật hình sự thì, chỉ người nào “Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”. Xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm phải căn cứ vào bản án, không phải dựa vào nhận định chủ quan. Do bản án ngày Bản án ngày 15/5/2012 có hiệu lực pháp luật, không bị giám đốc thẩm, tái thẩm nên không không thể thay đổi được. Do đó, hành vi của N năm 2016 chỉ thuộc trường hợp tái phạm.

Tóm lại, xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm ở đây căn cứ vào quy định của BLHS hay căn cứ vào quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật?

Vụ án 2: Tháng 2-1999, A bị xử phạt 5 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, trị giá tài sản là 5 triệu đồng. A đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa thi hành xong khoản tiền bồi thường là 5.000.000 đồng. Tháng 5 năm 2004, A trộm cắp tài sản trị trị giá 5 triệu đồng. Do chưa chấp hành xong phần quyết định về bồi thường của bản án năm 1999, nên với hành vi trộm cắp tài sản lần này A phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” và bị xử phạt 3 năm tù.  Đến tháng 7 năm 2006, A chấp hành xong bản án thứ hai nhưng vẫn chưa thi hành khoản tiền bồi thường 15.000.000 đồng của bản án năm 1999. Tháng 1 năm 2016, A lại trộm cắp tài sản trị giá 6.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án, có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định “tái phạm” hay “tái phạm nguy hiểm” đối với A. Cụ thể:

 Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi “Trộm cắp tài sản” tháng 1-2016 của A thuộc trường hợp “tái phạm”. Vì bản án “Trộm cắp tài sản” năm 2004 tuy xác định hành vi phạm tội của A là “tái phạm” nhưng A chấp hành xong bản án này (bản án năm 2004) vàotháng 7 năm 2006, nên theo quy định tại Điều 64 BLHS thì bản án này đương nhiên được xóa án tích. Còn việc A chưa chấp hành xong phần bồi thường thiệt hại của bản án năm 1999 thì bản án này vẫn còn án tích, chưa được xóa. Do đó, lần phạm tội năm 2016, A chỉ phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”.

Quan điểm thứ hai: Mặc dù A đã chấp hành xong bản án trộm cắp tài sản năm 2004 và về thời gian đủ để xem xét đương nhiên xóa án tích, nhưng do đến nay A vẫn chưa thi hành xong phần bồi thường thiệt hại của bản án thứ nhất năm 1999, cho nên bản án trộm cắp năm 2004 sẽ không thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích. Do vậy, hành vi trộm cắp tháng 1 năm 2016 của A phải được xác định là “tái phạm nguy hiểm” và phải bị xét xử theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS.

Tóm lại, trong vụ án thứ hai này, việc xóa án tích của bản án năm 2004 có phụ thuộc vào việc xóa án tích của bản án năm 1999 không. Trong BLHS năm 1999 cũng như BLHS năm 2015, chỉ quy định việc tính lại thời gian xóa án tích khi phạm tội mới, không có quy định về việc xóa án tích khi chấp hành song song hai bản án như trên.

Mong mọi người cho mình biết căn cứ pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật để xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm trong những trường hợp trên với nhé.

 

 

  •  13229
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…