DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Trao đổi về vấn đề xác định quan hệ tranh chấp

 

Chào mọi người!

 mình có vấn đề vướng mắc cần trao đổi mong mọi người cho ý kiến về vấn đề: xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết thuộc tòa án nào? Anh chị có đồng ý với ý kiến kháng nghị của viện kiểm sát không ạ?vì hiện nay vấn đề này còn nhiều rắc rối minh xxin đưa tình huống cụ thể:

 

Nguyên đơn: Công ty TNHH thương mại A, có trụ sở tại ……. Trần Hưng Đạo, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Nguyễn Văn C đại diện theo Giấy uỷ quyền ngày 25/3/2008 và ngày 28/4/2008 của Giám đốc Công ty;

Bị Đơn: Doanh nghiệp tư nhân B, có trụ sở tại Quốc lộ ……, ấp Cầu, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh; do bà D đại diện theo Giấy uỷ quyền ngày 08/10/2008 của Chủ Doanh nghiệp tư nhân B - bà X).

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2008, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn - Công ty A xuất trình, thì thấy:

Ngày 20/3/2006, Công ty A ký Hợp đồng số 34/HĐĐN-06 mua khoai mì lát của Doanh nghiệp tư nhân B số lượng 3.000 tấn, đơn giá 1,73 triệu đồng/1tấn, tổng giá trị hợp đồng là 5,19 tỷ đồng (BL 45).

Ngày 09/5/2006, Công ty A tiếp tục ký Hợp đồng số 35/HĐĐN-06, mua khoai mì lát của Doanh nghiệp tư nhân B, số lượng 2.000 tấn, đơn giá 1,73 triệu đồng/tấn, tổng giá trị hợp đồng là 3,46 tỷ đồng (BL48).

Tổng giá trị hai hợp đồng là 8,65 tỷ đồng.

Công ty A đã thanh toán cho Doanh nghiệp tư nhân B bằng chuyển khoản 7 lần (từ ngày 22/3/2006) với tổng số tiền là 8 tỷ đồng (BL109 đến 112, 118, 121).

Sau khi nhận tiền, Doanh nghiệp tư nhân B đã giao cho Công ty A 5.000 tấn khoai mì lát khô vào kho trữ hàng tại Campuchia do Doanh nghiệp tư nhân B thuê; Doanh nghiệp tư nhân B cam kết sẽ giao hàng tại cảng Việt Nam theo đúng thoả thuận trong hợp đồng.

Ngày 04/6/2006, hai bên lập Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân B đồng ý mua lại số lượng (5.000 tấn mì lát) mà Công ty A đã ứng tiền để Doanh nghiệp tư nhân B mua trữ với điều kiện: Doanh nghiệp tư nhân B sẽ trả lại tiền của Công ty A đã ứng tổng cộng là 8 tỷ đồng và tiền lãi là 160 đồng/1kg, tổng cộng 8,8 tỷ đồng; thời hạn thanh toán chậm chất là ngày 15/8/2006; nếu quá thời hạn trên mà không thanh toán thì Doanh nghiệp tư nhân B phải chịu lãi suất chậm thanh toán 1,1%/tháng (kể từ ngày 16/6/2006) và phải chịu phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán là 5%/tháng (kể từ ngày 16/8/2006); cộng hai khoản là 6,1% /tháng trên số tiền còn nợ (BL50).

Ngày 05/6/2006, Doanh nghiệp tư nhân B (bên A) và Công ty A (bên B) ký Bên bản thanh lý hợp đồng số 38/BBTLHĐ/2006 với nội dung chính (tóm tắt): “..Hai bên thống nhất chấm dứt Hợp đồng mua bán số 34/HĐĐN-06 ngày 20/3/2006 để được thay thế bằng một nghĩa vụ dân sự khác, cụ thể: bên A xác nhận đã nhận đủ số tiền ứng trước mua hàng của bên B… với số lượng giá trị của 3.000 tấn khai mì lát khô; Nay bên A không muốn thực hiện tiếp tục Hợp đồng số 34/HĐĐN-06..nên xin thanh lý hợp đồng và cam kết sẽ trả cho bên B số tiền đã thực nhận là 4,8 tỷ đồng và cộng với số tiền lãi mỗi kg khoai mì lát là 160 đồng/kg, tương tự số tiền là 480 triệu đồng; tổng cộng bên A phải thanh toán cho bên B số tiền là 5,28 tỷ đồng..”(BL 53).

Cùng ngày 05/6/2006, Doanh nghiệp tư nhân B cũng ký Bên bản thanh lý Hợp đồng số 39/BBTLHĐ/2006 với nội dung tương tự như Biên bản thanh lý hợp đồng số 38 nói trên; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân B xác nhận đã nhận đủ 3,2 tỷ đồng trị giá của 2.000 tấn khoai mì lát, nhưng chưa giao khoai mì lát khô cho Công ty A và cam kết sẽ hoàn trả cho Công ty A số tiền 3,2 tỷ đồng; cộng với số tiền lãi mỗi kg khoai mì lát là 160đồng/kg, tương tự số tiền là 320 triệu đồng; tổng cộng là 3,52 tỷ đồng (BL55).

Sau khi ký biên bản thoả thuận mua lại khoai mì lát, Doanh nghiệp tư nhân B mới trả cho Công ty A 800 triệu đồng vào các ngày 11/7/2006 (500 triệu đồng), ngày 12/8/2006 (100 triệu đồng), và ngày 30/8/2006 (200 triệu đồng) bao gồm 447.425.125 đồng tiền lãi và 352.574.875 đồng tiền phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

Ngày 30/8/2006, Công ty A và Doanh nghiệp tư nhân B lập Phụ lục Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân B xác nhận còn nợ Công ty A 8.447.425.125 đồng và cam kết đến ngày 30/9/2006 mà chưa thanh toán hết thì Doanh nghiệp tư nhân B phải chịu thêm 5%/tháng trên tổng số tiền còn nợ, cộng với 6,1%/tháng đã thoả thuận ngày 04/6/2006 là 11,1%/tháng (BL57); Doanh nghiệp tư nhân B đề nghị Công ty A tính lãi + phạt vi phạm theo Biên bản thoả thuận bán khoai mì lát ngày 04/6/2006 là 6,1%/tháng.

Sau đó, Công ty A và Doanh nghiệp tư nhân B đã nhiều lần đối chiếu công nợ và ngày 14/9/2007, hai bên lập Biên bản thoả thuận giải quyết công nợ; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân B xác nhận tính đến ngày 14/9/2007 còn nợ Công ty A 41.475.062.625 đồng (gốc, lãi +phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán (16,1%/tháng) nhưng xin Công ty A chốt công nợ lại còn 30 tỷ đồng và chịu lãi suất chậm thanh toán từ 01/7/2007 là 1,5%/tháng; đồng thời tự nguyện giao 5 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính) cho Công ty A để thế chấp đảm bảo thanh toán số nợ 29.572.235.740 đồng (BL68,78).

Ngày 05/12/2007, Công ty A và Doanh nghiệp tư nhân B lập Biên bản làm việc; theo đó, Doanh nghiệp tư nhân B xác nhận nợ quá hạn chưa thanh toán gồm nợ gốc 29.574.453.657 đồng và lãi quá hạn là 2.040.135.597 đồng; tổng cộng 31.614.589.254 đồng (BL76).

Do Doanh nghiệp tư nhân B nhiều lần xác nhận công nợ nhưng đến nay chưa trả, nên ngày 25/3/2008 Công ty A khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh yêu cầu buộc Doanh nghiệp tư nhân B trả 29.572.235.740 đồng và lãi suất nợ quá hạn là 150% căn cứ theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định đến khi Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương trả hết nợ (BL01, 169).

Đại diện Doanh nghiệp tư nhân B trình bày:

Doanh nghiệp tư nhân B thừa nhận vào các ngày 20/3/2006 và 09/5/2006, Doanh nghiệp tư nhân B có ký hai hợp đồng số 34, 35 với Công ty A. Theo đó Doanh nghiệp tư nhân B sẽ bán cho Công ty A 5.000 tấn khoai mì lát khô. Doanh nghiệp tư nhân B đã nhận 8 tỷ đồng.

Ngày 04/6/2006, Doanh nghiệp tư nhân B có đủ hàng để giao nhưng do quá trình thu mua, thời hạn kéo dài, khoai mì đổi màu, Công ty A không nhận vì cho rằng chất lượng hàng không đạt, nên hai bên thoả thuận Doanh nghiệp tư nhân B mua lại số khoai mì nói trên với giá 8 tỷ đồng và chịu lãi 160 đồng/1kg; tổng cộng Doanh nghiệp tư nhân B phải trả Công ty A 8,8 tỷ đồng. Doanh nghiệp tư nhân B đã trả 800 triệu đồng, cụ thể: ngày 11/7/2006 trả 500 triệu đồng, ngày 12/8/2006 trả 100 triệu đồng; ngày 30/8/2006 trả 200 triệu đồng; còn 8 tỷ đồng tiền vốn hẹn đến ngày 30/9/2006 trả.

Ngày 15/01/2007, kho hàng của Doanh nghiệp tư nhân B bị cháy làm thiệt hại trên 10 tỷ đồng nên Doanh nghiệp tư nhân B gặp khó khăn trong việc thanh toán cho Công ty B.

 

Do chưa có tiền thanh lý hợp đồng, phía Công ty A tự ý đưa ra mức lãi và phạt lên đến 16,1%/tháng và ép buộc phải ký vào giấy nhận nợ nên Doanh nghiệp tư nhân B đã ký nhiều biên bản nhận nợ. Đến ngày 05/12/2007, Doanh nghiệp tư nhân B ký nhận nợ lần cuối cùng là 31.790.153.420 đồng, trong đó số tiền lãi và phạt vi phạm là 23.790.153.420 đồng. Với lãi suất và phạt vi phạm do Công ty A tính 16,1%/tháng là quá cao, nên Doanh nghiệp tư nhân B không đồng ý với mức lãi suất và phạt vi phạm này.

Doanh nghiệp tư nhân B yêu cầu Toà án xem xét cho Doanh nghiệp tư nhân B được trả số nợ gốc cho Công ty A là 8 tỷ đồng và tính lãi cho phù hợp (BL165,154).

Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số …/KDTM-ST ngày ……, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định (tóm tắt): “- Chấp nhận một phận yêu cầu của Công ty TNHH thương mại A, buộc Doanh nghiệp tư nhân B trả tiền mua bán hàng hoá còn nợ gốc và tiền lãi theo hợp đồng là 10.237.670.000 đồng…

- Các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số …../QĐ-BPKCTT ngày …/2008 và ……../2008/QĐ-BPKCTT ngày …..2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh tiếp tục có hiệu lực thi hành đến khi Doanh nghiệp tư nhân B thi hành xong bản án này;

- Ngân hàng Công thương Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tây Ninh hoàn trả cho Công ty TNHH thương mại A số tiền 68.200.000 đồng theo Phiếu thu số 0058 ngày 28/5/2008 và phiếu thu số 0019 ngày 10/6/2008…”.

Ngày 21/7/2008, Doanh nghiệp tư nhân B có đơn kháng cáo.

Ngày 28/7/2008, Công ty A có đơn kháng cáo.

Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số …./2008/KDTM-PT ngày …../2008, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định (tóm tắt): “ Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn - Công ty TNHH thương mại A, sửa bản án sơ thẩm…; chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty TNHH thương A buộc Doanh nghiệp tư nhân B trả tiền mua bán hàng hoá theo hợp đồng; Doanh nghiệp tư nhân B do bà X là chủ phải trả cho Công ty TNHH thương mại A số tiền nợ của 4538 tấn khoai mì là 16.336.800.000 đồng…

- Các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số ……./2008/QĐ-BPKCTT ngày …… và …../QĐ-BPKCTT ngày ……2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi Doanh nghiệp tư nhân B thi hành xong bản án này;

- Ngân hàng Công thương Việt Nam - chi nhánh tỉnh Tây Ninh hoàn trả cho Công ty TNHH thương mại Đại Nam số tiền 68.200.000 đồng theo Phiếu thu số 0058 ngày 28/5/2008 và Phiếu thu số 0019 ngày 10/6/2008..”.

Ngày 28/10/2008, Doanh nghiệp tư nhân B có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 03/KN-VKSTC-V12 ngày ……../2009, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số …../2008/KDTM-PT ngày …../2008 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số …../2008/KDTM-ST ngày ……./2008 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số …./2008/KDTM-PT ngày ……..2008 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do (tóm tắt):

- “Việc Doanh nghiệp tư nhân B ký hợp đồng mua bán khoai mì lát cho Công ty TNHH thương mại A là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Sau khi ký hợp đồng Công ty TNHH thương mại A đã hoàn thành nghĩa vụ chuyển tiền, nhưng khi kiểm tra hàng hoá thấy hàng không đảm bảo chất lượng nên ngày 4/6/2006, hai bên lập biên bản xác nhận: .. Doanh nghiệp tư nhân B đồng ý mua lại và có trách nhiệm trả tiền cho Công ty TNHH thương mại A theo thoả thuận về gốc, lợi nhuận, thời hạn thanh toán và trách nhiệm chậm trả.

Ngày 5/6/2006 hai bên đã thống nhất thanh lý hợp đồng mua bán khoai mì và được thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác là nghĩa vụ trả tiền, như vây là hợp đồng đã chấm dứt. Doanh nghiệp tư nhân B trả lại Công ty TNHH thương mại B số tiền mua khoai mì lát mà Công ty TNHH thương mại A đã chuyển cho Doanh nghiệp tư nhân B, cộng lãi là 160đồng/kg, tổng cộng hai khoản tiền là 8,8 tỷ đồng, Doanh nghiệp tư nhân Bđã trả cho Công ty TNHH thương mại A 800 triệu đồng, sau đó không trả tiếp và hai bên đã tiến hành lập nhiều biên bản thoả thuận về việc thanh toán gốc và tiền phạt, tiền lãi theo nguyên tắc gốc cộng lãi và phạt.

Do Doanh nghiệp tư nhân B vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên Công ty A khởi kiện ra Toà án, yêu cầu Toà án buộc Doanh nghiệp tư nhân B phải thực hiện nghĩa vụ dân sự là trả tiền, chứ không yêu cầu Toà án buộc Doanh nghiệp tư nhân B phải thực hiện hợp đồng kinh doanh, thương mại. Vì vậy tranh chấp này là tranh chấp dân sự chứ không phải tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại. Việc Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định tranh chấp là tranh chấp kinh doanh, thương mại để thụ lý giải quyết theo các quy định của pháp luật về mua bán hàng hoá (Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự) dẫn đến việc áp dụng pháp luật về nội dung (Điều 428, 438 Bộ luật dân sự) là không chính xác, mà tranh chấp này là tranh chấp dân sự, vì vậy Toà án nhân dân thụ lý theo quy định tại Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự, phán quyết của Toà án phải căn cứ vào Điều 290 và Điều 305 Bộ luật dân sự thì mới đúng pháp luật.

- “… bản án phúc thẩm căn cứ vào giấy báo giá khoai mì lát là 360đ/kg (bản phô tô không có công chứng) do Công ty A cung cấp làm chứng cứ để ra quyết định là chưa đúng tại điểm 2.1 mục II Nghị quyết số 04/2005/HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng cứ chứng minh”; Toà án cấp phúc thẩm quy giá trị của khoai mì lát ra tiền để buộc Doanh nghiệp tư nhân B phải trả cho Công ty B là vi phạm nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự”.

 

  •  4098
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…