Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về tầm quan trọng của chứng cứ do luật sư tự thu thập. Ảnh minh họa: HTD
Luật sư Trương Xuân Tám (ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn Luật sư Việt Nam) cũng cho biết nhiều vụ khi luật sư xuất trình chứng cứ tại phiên tòa thì chủ tọa bực bội thắc mắc: “Sao ngay từ khi điều tra, luật sư không nêu vấn đề này ra đi?”. Điều đó cho thấy thực tế một số cán bộ tố tụng vẫn có tâm lý “ngán ngại” thay vì hoan nghênh các chứng cứ mới có thể “đả phá” hồ sơ buộc tội và xác định lại bản chất của vụ án.
Hạn chế do đâu?
Khoản 2 Điều 65 BLTTHS quy định những người tham gia tố tụng (trong đó có luật sư), cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Khoản 2 Điều 58 cụ thể hóa quyền của luật sư là được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân…
Tuy nhiên, thực tế chỉ có những chứng cứ về các tình tiết giảm nhẹ có xác nhận đầy đủ thì tòa mới chấp nhận. Còn những chứng cứ liên quan đến việc định tội hoặc định khung hình phạt, hầu như các tòa ít để ý. Nhiều luật sư mất công sức tìm kiếm chứng cứ mới để đưa ra tòa rồi cũng chỉ nhận được cái lắc đầu.
Nhiều ý kiến cho rằng có thực tế này là bởi Điều 64 BLTTHS quy định chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà cơ quan tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội... Do đó, các tài liệu, đồ vật do luật sư tự thu thập không được xem xét nghiêm túc.
Theo luật sư Trương Xuân Tám, nếu luật cho luật sư quyền tìm, cung cấp chứng cứ thì tòa phải có nghĩa vụ tiếp nhận, xem xét. Đặc biệt, luật sư phải có quyền xuất trình chứng cứ ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, thậm chí cả ở giai đoạn thi hành án.
Luật sư Trần Công Ly Tao (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM) thì cho rằng luật hiện nay có lỗ hổng là chưa quy định cụ thể về tầm quan trọng của chứng cứ do luật sư thu thập. Các cơ quan tố tụng lại không linh hoạt, hầu như chỉ tin vào hồ sơ của cơ quan điều tra, nếu thấy bất ổn thì trả hồ sơ điều tra bổ sung chứ ít khi ra quyết định ngay. Các thẩm phán thường có tâm lý nghi ngờ với chứng cứ và mục đích đi tìm chứng cứ của luật sư dù có khi nó rất đáng tin cậy. Vì vậy, BLTTHS cần cụ thể hóa quy định về trách nhiệm xem xét chứng cứ do luật sư thu thập của cơ quan tố tụng.
|