DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Thăng trầm nghề luật sư ở Việt Nam

Nghề luật sư đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu, những luật sư hành nghề đầu tiên là người có quốc tịch Pháp hoạt động ở Nam kỳ. Với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư.

Nghề luật sư đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu, những luật sư hành nghề đầu tiên là người có quốc tịch Pháp hoạt động ở Nam kỳ. Với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư.

Trải qua nhiều thăng trầm, nổi trôi theo vận nước, nghề luật sư Việt Nam đã sản sinh ra nhiều thế hệ luật sư không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có nhiều đóng góp cho cách mạng nhằm giải phóng cho dân tộc.

 

Nghề luật sư nước ta Thời kỳ  Pháp thuộc: Sự xâm lăng của người Pháp trên đất nước ta bắt đầu từ năm 1858. Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26 tháng 11 năm 1876, toàn quyền Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ tại toà án cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp. Sau khi thiết lập bộ máy cai trị ở nước ta và toàn cõi Đông dương, thực dân Pháp chia ra 5 xứ để cai trị: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao miên. Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Đoàn luật sư Sài Gòn và Hà Nội, gồm các luật sư đã tốt nghiệp trường Luật ở Pháp có quốc tịch Pháp. Tiếp đến sắc lệnh ngày 30 tháng 01 năm 1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng nghề luật sư không hạn chế chỉ người Pháp và người Việt mang quốc tịch Pháp, mà còn có cả người Việt mang quốc tịch Việt.

Thăng trầm nghề luật sư ở Việt Nam

Ngày 25 tháng 5 năm 1930, toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẳng. Sắc lệnh này lại mở rộng thêm cho các luật sư không chỉ biện hộ cho thân chủ có quốc tịch Pháp mà cho cả thân chủ không phải là quốc tịch Pháp; không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả toà Nam án. Người Việt Nam đầu tiên làm luật sư là ông Phan Văn Trường, tốt nghiệp trường Đại học Luật ở Pháp và làm luật sư tại Paris.

Phan Văn Trường (1876 - 1933), Người Việt Nam đầu tiên làm luật sư
Phan Văn Trường (1876 - 1933), Người Việt Nam đầu tiên làm luật sư

Cùng với văn học, nghệ thuật, giai đoan 1930 - 1945 cũng là thời kỳ bùng nổ nghề luật sư ở Việt Nam khi các luật sư trở về sau khi du học tại Pháp cùng với một số lượng đông đảo những người được đào ngành Luật tại Trường Đại học Đông Dương, Hà Nội. Có thể kể đến những tên tuổi luật sư vang danh như: Phan Văn Trường (1876 - 1933), Phan Anh ( 1912 - 1990), Vũ Trọng Khánh (1912 - 1996), Nguyễn Manh Tường (1909-1997), Nguyễn Hữu Thọ, Trương Đình Dzu (1917-1991)…

Thời kỳ độc lập sau năm 1945: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời; Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp. Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL về tổ chức các Đoàn luật sư trong nước. Điều thứ 1 của Sắc lệnh ghi nhận: “Các tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ.. Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 quy định những tổ chức ấy vẫn tạm thi hành với các điều sửa đổi sau này”. Những điều sửa đổi bao gồm: điều 5 (Sắc lệnh 25/5/1930) thay bằng điều 3 (Sắc lệnh 46/SL) với những quy định chặt chẽ để được liệt danh vào bảng luật sư tại Tòa Thượng thẩm Hà Nội hay Sài Gòn, đó là: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nam, nữ; có bằng cử nhân luật; đã làm tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một Văn phòng luật sư thực thụ trong nước; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng nhận đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư thực thụ. Điều 4 của Sắc lệnh quy định về bầu Hội đồng luật sư, hoặc Ban luật sư thực thụ tùy theo địa hạt có mười văn phòng trở lên hay dưới mười văn phòng. Điều 5 của Sắc lệnh quy định những luật sư đã tập sự được mười tám tháng thì Hội đồng luật sư có thể cho phép tạm quản lý một văn phòng.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam bị chia cắt hai miền với hai chế độ khác nhau: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam còn trong vòng kiềm tỏa của đế quốc Mỹ. Ở miền Bắc, ngày 31 tháng 12 năm 1958, Quốc hội thông qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp thứ hai), trong đó điều 101 quy định: “Việc xét xử tại các Tòa án nhân dân đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt do luật định. Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo”. Ở miền Nam, trường Đại học Luật khoa Huế, Đà Lạt, Sài Gòn đào tạo nhiều cử nhân Luật, một số sinh viên tốt nghiệp cử nhân Luật được đào tạo để trở thành Luật sư và đã hành nghề. Trong các tòa Vi cảnh, tòa Sơ thẩm, tòa Đại hình, tòa Thượng thẩm đều có công tố viện và có luật sư tranh luận, bào chữa bảo vệ thân chủ. Luật sư có quyền tham gia trong giai đoạn điều tra, giai đoạn tranh tụng trước tòa.

Thời kỳ sau khi thống nhất đất nước: Năm 1975 đất nước thống nhất, nghề luật sư Việt Nam, vì nhiều lý do nên chưa tổ chức lại nhưng đến ngày 18 tháng 12 năm 1980, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua; quyền tự do dân chủ của công dân được khẳng định trong Hiến pháp, trong đó có điều 133 ghi nhận: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Quyền bào chữa được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị can, bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”.

Tại Hà Nội. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, được sự đồng ý của Bộ Tư Pháp, ngày 30 tháng 4 năm 1984 đã ra Quyết định về tổ chức thành lập Đoàn luật sư Hà Nội. Ngày 18 tháng 12 năm 1987, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Tổ chức Luật sư. Pháp lệnh này là một bước ngoặt quan trọng trong việc tổ chức luật sư phù hợp giai đoạn phát triển kinh tế nhiều thành phần, đổi mới đất nước.

Ngày 15 tháng 4 năm 1992, Quốc hội thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền bào chữa của luật sư được khẳng định. Điều 132: “...Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Ngày 25 tháng 7 năm 2001, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số 37/2001/PL-UBTVQH10. Nội dung Pháp lệnh nổi bật một số điểm quan trọng, trong đó có điều 8, điểm d quy định: không phải là cán bộ, công chức theo quy định pháp luật về cán bộ công chức. Điểm nổi bật khác: luật sư là người có trình độ đại học Luật và tốt nghiệp khóa đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam hoặc nước ngoài được pháp luật Việt Nam công nhận; xác định Đoàn luật sư là tổ chức nghề nghiệp của các luật sư, còn tổ chức hành nghề luật sư là Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh; trong phạm vi toàn quốc sẽ có một tổ chức luật sư do Chính phủ quy định, kết hợp chặt chẽ việc quản lý của nhà nước với việc tư quản của tổ chức luật sư.

Tự do và bình đẳng là lẽ sống của người luật sư


Tự do và bình đẳng là lẽ sống của người luật sư

Đến ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội ban hành Luật luật sư. Với luật này, nghề luật sư được mở rộng hơn, đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử phát triển nghề luật sư. Luật đã thống nhất điều chỉnh thị trường dịch vụ pháp lý, đã thừa nhận nghề luật sư là một nghề luật mang tính chất dịch vụ trong và ngoài tòa án; nó gắn liền với số phận con người, có tính nhân bản sâu sắc và có tính quốc tế.

Từ ngày 10-12/5/2009 tại Hà Nội, lần đầu tiên trong lịch sử đã triệu tập được Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc, tại đây đại hội đã nhất chí bầu Luật sư Lê Thúc Anh làm Chủ tịch liên đoàn luật sư Việt Nam, Luật sư Đỗ Ngọc Thịnh, Luật sư Nguyễn Văn Chiến được đại hội tín nhiệm bầu vào chức danh Tổng thư ký và phó Tổng thư ký. Ngày 12/5/2009, Đại hội chính thức thông qua việc thành lập Liên đoàn luật sư Việt Nam.

Ngày 14 tháng 01 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định Số: 149/QĐ-TTg, lấy ngày 10/10 hằng năm là Ngày truyền thống của luật sư Việt Nam, như vậy sau hơn 100 năm nghề luật mới có ngày lễ của mình.

Tính đến đầu năm 2013, cả nước đã thành lập 63 đoàn luật sư/63 tỉnh (Tỉnh Lai Châu thành lập đoàn cuối cùng), thành phố trực thuộc trung ương với hơn 8000 luật sư và 3000 người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 2.750 tổ chức hành nghề luật sư. Số lượng luật sư đã tăng hơn nhiều lần so với trước khi Pháp lệnh Luật sư có hiệu lực, giải quyết việc làm cho hơn 10.000 người lao động trong cả nước.

Trải qua hơn 100 năm với biết bao thăng trầm của lịch sử, nghề luật sư Việt Nam đã sản sinh ra nhiều thế hệ luật sư không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có nhiều đóng góp cho cách mạng nhằm giải phóng cho dân tộc trước kia và góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân hôm nay.

Luật sư Trương Anh Tú (Đoàn luật sư TP. Hà Nội)

 

  •  7981
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…