DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Thẩm quyền thu hồi đất trước năm 1987

Căn cứ mục V Quyết định 201-CP năm 1980 (có hiệu lực từ 01/07/1980 đến 3/7/1991) về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước do Hội Đồng Chính phủ ban hành quy định:

"...
3. Việc thu hồi đất:

a) Cấp nào có quyền giao đất thì cấp ấy có thẩm quyền thu hồi đất. Trường hợp cần thiết thì có thể trưng dụng đất. Trong trường hợp cần thiết, cấp có thẩm quyền có thể ủy nhiệm cho cơ quan quản lý ruộng đất thực hiện việc thu hồi đất sử dụng trái pháp luật.
..."

Theo đó, cấp nào có thẩm quyền giao đất cấp ấy có thẩm quyền thu hồi đất. Thẩm quyền giao đất được quy định tại Khoản 2 Mục V Quyết định này, cụ thể:

Thủ tướng Chính phủ quyết định giao đất đối với:

Đất nông nghiệp, đất thổ cư nông thôn và đô thị trên 2 héc ta hoặc phải di dân trên 20 hộ để lấy đất làm việc khác;

Đất đồi núi, đất hầm mỏ để sử dụng vào các mục đích chuyên dùng từ 10 héc ta trở lên.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao đất đối với:

Đất nông nghiệp, đất thổ cư nông thôn và đô thị từ 2 héc ta trở xuống hoặc phải di dân từ 20 hộ trở xuống;

Đất đồi núi, đất hầm mỏ để sử dụng vào các mục đích chuyên dùng dưới 10 héc ta.

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thực Trung ương căn cứ vào nhiệm vụ thiết kế và quy hoạch đó mà quyết định vào việc giao đất:

- Đối với nông trường, lâm trường, trạm, trại, công trình xây dựng…đã có nhiệm vụ thiết kết (trong đó nói rõ diện tích và vị trí địa điểm đất được sử dụng, được các cấp có thẩm quyền xét duyệt và các công trình theo tuyến (giao thông, thủy lợi…) đã có quy hoạch được cấp có thẩm quyền xét duyệt.

- Giao đất để khai thác nguyên liệu, khoáng sản

Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thực hiện việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp.

Một số trường hợp khác:·

Đối với trường hợp các xã lấy đất nông nghiệp để xây dựng các công trình của xã, của hợp tác xã (kể cả để khai thác đất làm gạch, ngói) hoặc làm nhà cho dân ở, thì Ủy ban nhân dân xã lập kế hoạch hàng năm, nếu diện tích cần thiết chung cho tất cả các công trình trong một năm từ 2 héc ta trở xuống do Ủy ban nhân dân huyện xét và trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chuẩn y, trên 2 héc ta do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xét và đề nghị Thủ tướng Chính phủ chuẩn y.

Trường hợp phải phá rừng để lấy đất, dùng vào mục đích nông nghiệp hay chuyên dùng khác thì phải có thiết kế cụ thể do cơ quan có thẩm quyền duyệt đúng như quy định của pháp lệnh bảo vệ rừng, nghị quyết số 155-CP ngày 3-10-1973 của Hội đồng Chính phủ, chỉ thị số 137/TTg ngày 20-4-1979 của Thủ tướng Chính phủ, nếu phá rừng trên 20 héc ta do Hội đồng Chính phủ cho phép; từ 20 héc ta trở xuống do Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp cho phép.

  •  1545
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…