DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung vợ chồng

Việc xác định và phân loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng luôn là đề tài gây tranh cãi; vấn đề trên không chỉ phát sinh khi có tranh chấp về ly hôn mà còn có thể xuất phát từ nguyên nhân khác.

Bản án phúc thẩm 38/2018/DS-PT ngày 26/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau là một ví dụ điển hình, tóm tắt nội dung bản án như sau:

“Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc T; Bị đơn: Bà Huỳnh Bích T.

Nguyên đơn và bị đơn đăng ký kết hôn năm 1984. Năm 1987, nguyên đơn nhận chuyển nhượng đất từ bà 7 Giang, được cấp GCNQSDĐ đứng tên sở hữu của cả hai vợ chồng.

Khi bị đơn kê khai phần đất trên để đảm bảo cho việc thi hành án để giải quyết nợ của bị đơn thì nguyên đơn không đồng ý vì cho rằng mảnh đất trên thuộc quyền sở hữu riêng của nguyên đơn, do cha mẹ nguyên đơn cho tiền để mua.

Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất trên thuộc sở hữu của riêng ông. Bị đơn đồng ý với quan điểm của nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.  Sau đó, nguyên đơn kháng cáo.”

Căn cứ vào nội dung bản án có thể thấy, nguyên đơn và bị đơn kết hôn năm 1984, đến năm 1987 nguyên đơn mới được nhận chuyển nhượng mảnh đất trên. Như vậy, phần đất này được nhận chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn. Sau đó, nguyên đơn và bị đơn cùng đứng tên trong đơn đề nghị xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần nêu trên và cùng quản lý sử dụng phần đất này.

Khi Cơ quan Thi hành án dân sự xác minh điều kiện thi hành án của bị đơn để giải quyết nợ, bị đơn cũng kê khai phần đất này là tài sản chung của vợ chồng. Đến khi Cơ quan Thi hành án dân sự có Quyết định cưỡng chế kê biên phần đất này để thi hành án đối với số tiền bị đơn phải trả cho chủ nợ thì nguyên đơn mới có yêu cầu xác định phần đất này là tài sản riêng của bị đơn.

Mặc dù, bị đơn thống nhất với trình bày và yêu cầu của nguyên đơn, nhưng xét thấy yêu cầu của nguyên đơn và sự thống nhất của bị đơn là có dấu hiệu thông đồng nhau nhằm để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của bị đơn.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố giữ nguyên bản án sơ thẩm, không công nhận yêu cầu khởi hiện của nguyên đơn.

Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung vợ chồng đối với quyền sử dụng đất như sau:

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

“…

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

…”

  •  17521
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…