Các bên có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay không? (Phần 2)
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại được quy định như thế nào? Các bên trong hợp đồng thương mại có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại hay không? Theo quy định tại các Điều 302, 303, 304 Luật Thương mại 2005 thì chế tài bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có thiệt hại thực tế phát sinh. Chế tài này được áp dụng mặc định mà không cần các bên phải thỏa thuận trước trong hợp đồng, theo đó, khi có thiệt hại phát sinh, bên bị vi phạm chỉ cần chứng minh ba nội dung: (i) Có hành vi vi phạm hợp đồng; (ii) Có thiệt hại thực tế phát sinh; và (iii) Mối quan hệ nhân quả giữ hành vi vi phạm và thiệt hại phát sinh thì mặc nhiên áp dụng chế tài này. Trong khi đó, thực tiễn hoạt động thương mại (cả Việt Nam và trên thế giới), đồng thời cũng xuất hiện khá phổ biến trong các công trình khoa học pháp lý, “điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính” song song cùng tồn tại với chế tài bồi thường thiệt hại thực tế nói trên. “Thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại” hay “bồi thường thiệt hại ước tính” hay “bồi thường thiệt hại ấn định trước” (trong tiếng anh gọi là “liquidated damage”) là một chế tài yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bằng tiền (tài sản), được ghi nhận và thừa nhận rộng rãi trong cả hệ thống Thông luật và Dân luật. Thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại là một điều khoản trong hợp đồng mà trong đó các bên thỏa thuận một số tiền bồi thường thỏa đáng đối với những thiệt hại mà một bên có thể nhận được nếu bên kia vi phạm hợp đồng. Vậy với các phân tích trước đó, “liquidated damage” có được thừa nhận trong pháp luật thương mại của Việt Nam hay không? Xoay quanh nội dung câu hỏi trên, cả về mặt thực tiễn giải quyết tranh chấp và khoa học pháp lý, vẫn tồn tại nhiều quan điểm trái chiều. Quan điểm dựa trên cách tiếp cận câu chữ pháp luật khẳng định Luật Thương mại Việt Nam chỉ đề cập và thừa nhận bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc thực tế mà thôi. Quan điểm khác dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng thì cho rằng thỏa thuận này không trái luật. Với quan điểm thứ hai, Điều 11 Luật Thương mại 2005 có quy định: “Điều 11. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại 1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó. 2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”. Như vậy, Luật Thương mại 2005 tôn trọng mọi sự thỏa thuận của các bên, miễn thỏa thuận đó không trái luật và đạo đức xã hội thì sẽ đượ chấp thuận. Đồng thời, Điều 294 Luật Thương mại 2005 có khẳng định lần nữa: “Điều 292. Các loại chế tài trong thương mại 1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng. 2. Phạt vi phạm. 3. Buộc bồi thường thiệt hại. 4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng. 5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng. 6. Huỷ bỏ hợp đồng. 7. Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế”. Như vậy, rõ ràng pháp luật thương mại Việt Nam cho phép các bên được thỏa thuận áp dụng các biện pháp chế tài khác miễn không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế là được. Nên theo quan điểm của người viết, chế tài “Thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại” hay “bồi thường thiệt hại ước tính” hay “bồi thường thiệt hại ấn định trước” “liquidated damage”) nên được tiếp cận theo nghĩa rộng nhất và cho thi hành tại Việt Nam.
Các bên có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay không? (Phần 1)
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại được quy định như thế nào? Các bên trong hợp đồng thương mại có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại hay không? Bồi thường thiệt hại là một chế tài được áp dụng phổ biến và thường xuyên trong hợp đồng thương mại, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào hợp hợp đồng thương mại. Đồng thời, đây là chế tài có mục đích đền bù và đề cao ý thức, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực thi các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, hướng đến việc hợp đồng được thực thi trong thực tế, nếu không thì bên vi phạm phải gánh chịu hậu quả tương ứng (một là thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng, hai là phải bồi thường thiệt hại tương ứng do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng gây ra. Đối với các nước theo truyền thống Thông luật, sẽ được biết đến với nguyên tắc “vi phạm hợp đồng hiệu quả”). Đứng dưới góc độ phân tích luật học, chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản có yếu tố đền bù/khắc phục, việc bồi thường thiệt hại chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm của một bên trong hợp đồng gây ra. Điều 302 Luật Thương mại 2005 có quy định về chế tài bồi thường thiệt hại như sau: “Điều 302. Bồi thường thiệt hại 1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. 2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Theo quy định trên, chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng trong trường hợp phát sinh “những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”, với nội dung trên thì thiệt hại được bồi thường sẽ được xác định dựa trên những thiệt hại thực tế mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm gây ra. Hay nói cách khác, về mặt lý thuyết, bồi thường thiệt hại khi được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời” nhằm bù đắp thiệt hại thực tế mà bên bị vi phạm gánh chịu. Đề làm rõ cho nội dung trách nhiệm trên, Điều 303 Luật Thương mại 2005 có đưa ra quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cụ thể: “Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Như vậy, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là “Có thiệt hại thực tế”. Bên cạnh đó, theo Điều 305 Luật Thương mại 2005, để có thể áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh được tổn thất do hành vi vi phạm gây ra. “Điều 304. Nghĩa vụ chứng minh tổn thất Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Tóm lại, bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại 2005 sẽ được tiếp cận dựa trên nguyên tắc trực tiếp, thực tế và gắn liền với nghĩa vụ chứng minh của bên bị vi phạm. Hay nói cách khác, thiệt hại được bồi thường sẽ dựa trên thiệt hại thực tế phát sinh, nếu thực tế không phát sinh thiệt hại hoặc bên vi phạm không chứng minh được thiệt hại thì sẽ không phát sinh chế tài này.
Các bên có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay không? (Phần 2)
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại được quy định như thế nào? Các bên trong hợp đồng thương mại có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại hay không? Theo quy định tại các Điều 302, 303, 304 Luật Thương mại 2005 thì chế tài bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có thiệt hại thực tế phát sinh. Chế tài này được áp dụng mặc định mà không cần các bên phải thỏa thuận trước trong hợp đồng, theo đó, khi có thiệt hại phát sinh, bên bị vi phạm chỉ cần chứng minh ba nội dung: (i) Có hành vi vi phạm hợp đồng; (ii) Có thiệt hại thực tế phát sinh; và (iii) Mối quan hệ nhân quả giữ hành vi vi phạm và thiệt hại phát sinh thì mặc nhiên áp dụng chế tài này. Trong khi đó, thực tiễn hoạt động thương mại (cả Việt Nam và trên thế giới), đồng thời cũng xuất hiện khá phổ biến trong các công trình khoa học pháp lý, “điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính” song song cùng tồn tại với chế tài bồi thường thiệt hại thực tế nói trên. “Thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại” hay “bồi thường thiệt hại ước tính” hay “bồi thường thiệt hại ấn định trước” (trong tiếng anh gọi là “liquidated damage”) là một chế tài yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bằng tiền (tài sản), được ghi nhận và thừa nhận rộng rãi trong cả hệ thống Thông luật và Dân luật. Thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại là một điều khoản trong hợp đồng mà trong đó các bên thỏa thuận một số tiền bồi thường thỏa đáng đối với những thiệt hại mà một bên có thể nhận được nếu bên kia vi phạm hợp đồng. Vậy với các phân tích trước đó, “liquidated damage” có được thừa nhận trong pháp luật thương mại của Việt Nam hay không? Xoay quanh nội dung câu hỏi trên, cả về mặt thực tiễn giải quyết tranh chấp và khoa học pháp lý, vẫn tồn tại nhiều quan điểm trái chiều. Quan điểm dựa trên cách tiếp cận câu chữ pháp luật khẳng định Luật Thương mại Việt Nam chỉ đề cập và thừa nhận bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc thực tế mà thôi. Quan điểm khác dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng thì cho rằng thỏa thuận này không trái luật. Với quan điểm thứ hai, Điều 11 Luật Thương mại 2005 có quy định: “Điều 11. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại 1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó. 2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”. Như vậy, Luật Thương mại 2005 tôn trọng mọi sự thỏa thuận của các bên, miễn thỏa thuận đó không trái luật và đạo đức xã hội thì sẽ đượ chấp thuận. Đồng thời, Điều 294 Luật Thương mại 2005 có khẳng định lần nữa: “Điều 292. Các loại chế tài trong thương mại 1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng. 2. Phạt vi phạm. 3. Buộc bồi thường thiệt hại. 4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng. 5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng. 6. Huỷ bỏ hợp đồng. 7. Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế”. Như vậy, rõ ràng pháp luật thương mại Việt Nam cho phép các bên được thỏa thuận áp dụng các biện pháp chế tài khác miễn không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế là được. Nên theo quan điểm của người viết, chế tài “Thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại” hay “bồi thường thiệt hại ước tính” hay “bồi thường thiệt hại ấn định trước” “liquidated damage”) nên được tiếp cận theo nghĩa rộng nhất và cho thi hành tại Việt Nam.
Các bên có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay không? (Phần 1)
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại được quy định như thế nào? Các bên trong hợp đồng thương mại có được thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại hay không? Bồi thường thiệt hại là một chế tài được áp dụng phổ biến và thường xuyên trong hợp đồng thương mại, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào hợp hợp đồng thương mại. Đồng thời, đây là chế tài có mục đích đền bù và đề cao ý thức, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực thi các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, hướng đến việc hợp đồng được thực thi trong thực tế, nếu không thì bên vi phạm phải gánh chịu hậu quả tương ứng (một là thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng, hai là phải bồi thường thiệt hại tương ứng do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng gây ra. Đối với các nước theo truyền thống Thông luật, sẽ được biết đến với nguyên tắc “vi phạm hợp đồng hiệu quả”). Đứng dưới góc độ phân tích luật học, chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản có yếu tố đền bù/khắc phục, việc bồi thường thiệt hại chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm của một bên trong hợp đồng gây ra. Điều 302 Luật Thương mại 2005 có quy định về chế tài bồi thường thiệt hại như sau: “Điều 302. Bồi thường thiệt hại 1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. 2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Theo quy định trên, chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng trong trường hợp phát sinh “những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”, với nội dung trên thì thiệt hại được bồi thường sẽ được xác định dựa trên những thiệt hại thực tế mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm gây ra. Hay nói cách khác, về mặt lý thuyết, bồi thường thiệt hại khi được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời” nhằm bù đắp thiệt hại thực tế mà bên bị vi phạm gánh chịu. Đề làm rõ cho nội dung trách nhiệm trên, Điều 303 Luật Thương mại 2005 có đưa ra quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cụ thể: “Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Như vậy, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là “Có thiệt hại thực tế”. Bên cạnh đó, theo Điều 305 Luật Thương mại 2005, để có thể áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh được tổn thất do hành vi vi phạm gây ra. “Điều 304. Nghĩa vụ chứng minh tổn thất Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Tóm lại, bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại 2005 sẽ được tiếp cận dựa trên nguyên tắc trực tiếp, thực tế và gắn liền với nghĩa vụ chứng minh của bên bị vi phạm. Hay nói cách khác, thiệt hại được bồi thường sẽ dựa trên thiệt hại thực tế phát sinh, nếu thực tế không phát sinh thiệt hại hoặc bên vi phạm không chứng minh được thiệt hại thì sẽ không phát sinh chế tài này.