Khởi tố hình sự ngay nhà xe Thành Bưởi vì hành vi trốn thuế
Khởi tố hình sự ngay đối với hành vi trốn thuế của Nhà xe Thành Bưởi và rút giấy phép hoạt động. Trước đó, sáng ngày 30/9, vụ tài xế xe khách Thành Bưởi chạy xe quá tốc độ gây ra tai nạn đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai đã khiến 5 người tử vong, 4 người bị thương. Mới đây, trên trang Thông tin Chính phủ vừa đưa tin “Cần rút giấy phép hoạt động của nhà xe Thành Bưởi; khởi tố hình sự ngay hành vi trốn thuế”. Cụ thể, Phó Ban Dân nguyện (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) Lưu Bình Nhưỡng nhấn mạnh: "Việc trốn thuế này theo như báo chí nói, tôi đề nghị cũng làm rõ, là có thể trốn thuế, trốn phí đến hàng nghìn tỷ đồng... Chúng ta biết rằng, con số một nghìn tỷ đồng bằng thu nhập quốc dân của một tỉnh nghèo ở phía bắc. Ví dụ như Bắc Kạn, đây là một khoản ngân sách vô cùng to lớn của toàn thể gần 1 triệu dân trong một năm". Ông Lưu Bình Nhưỡng cho biết: "Hình thức bên ngoài mà người dân nhìn thấy là sự vi phạm của tài xế lái xe. Cụ thể, tài xế bị thu bằng vẫn được giao xe để chạy bình thường và chạy vào khung giờ rất nguy hiểm, dễ bị ngủ gật và gây tai nạn. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, vụ vừa qua là ở Định Quán, tôi được biết một vụ nữa trên địa bàn huyện Trảng Bom và Tòa án Trảng Bom cũng vừa xét xử. Trong đó, người ta cố tình đưa vụ việc hướng sang một hướng khác khi lái xe đâm vào một xe đỗ ven đường nhưng lại truy tố một lái xe khác. Địa bàn tỉnh Đồng Nai là cung đường khá nguy hiểm, là nơi trung chuyển giữa nhiều địa bàn lớn và có hoạt động vận tải mạnh. Tuy nhiên, không đơn giản là vi phạm của lái xe, về sâu xa, đây chính là vi phạm của nhà xe. Tôi xin liệt kê mấy vi phạm có khả năng cần phải xem xét điều tra, làm kỹ. Thứ nhất là vi phạm của việc lập bến trái phép. Báo chí nêu vấn đề này rất trầm trọng. Nhà xe này đã lập nhiều bến trong đó có bến công khai, bến trá hình, bến có quyết định nhưng cũng có bến không có quyết định. Đơn cử như bến ở thành phố Đà Lạt hoạt động công khai mặc dù không đủ diện tích để bố trí làm một bến xe. Hay như nhà xe lập bến ở 66-68 Lê Hồng Phong (TPHCM), nhưng lại trung chuyển khách ra 48C đường song hành Xa lộ Hà Nội. Báo chí và các cơ quan, ban, ngành cũng đã có sự thanh tra kiểm tra. Thứ hai là kinh doanh trái pháp luật. Ví dụ, nhà xe đăng ký chỉ một tuyến duy nhất đi Cần Thơ, còn lại các tuyến khác đăng ký du lịch, hợp đồng. Nhưng bản chất của hàng trăm, hàng nghìn chuyến đi Đà Lạt là chạy xe khách liên tỉnh. Rõ ràng, có sự đánh tráo khái niệm, lấp liếm giữa xe hợp đồng và xe khách liên tỉnh; gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh, không chỉ gây thiệt hại cho Nhà nước mà còn gây thiệt hại cho cả những nhà xe khác. Rõ ràng đây là sự trá hình rất nguy hiểm và pháp luật rất nghiêm cấm việc này. Thứ ba là trốn thuế và trốn phí. Mỗi lần vào bến, phải có lệ phí và kinh doanh phải nộp thuế. Nếu bán vé mà không xuất hóa đơn, không xuất vé, chỉ thu tiền thì đương nhiên là trốn thuế. Và hành vi trốn thuế là hành vi cực kỳ nghiêm trọng. Đặc biệt với những người kinh doanh lộ liễu như thế này thì hành vi trốn thuế tôi cho rằng là hành vi rất nguy hiểm. Và việc trốn thuế này theo như báo chí nói, tôi đề nghị cũng làm rõ, là có thể trốn thuế, trốn phí đến hàng nghìn tỷ đồng. Điều này làm thiệt hại cho ngân sách của TPHCM và ngân sách nhà nước. Chúng ta biết rằng, con số một nghìn tỷ đồng bằng thu nhập quốc dân của một tỉnh nghèo ở phía bắc. Ví dụ như Bắc Kạn, đây là một khoản ngân sách vô cùng to lớn của toàn thể gần 1 triệu dân trong một năm. Thứ tư là có dấu hiệu hối lộ. Muốn tồn tại vi phạm suốt thời gian dài thì có khả năng có bảo kê, "chống lưng", bao che và có hối lộ. Nếu cơ quan chức năng làm rõ hành vi hối lộ thì phải xử lý không chỉ người hối lộ mà cả người nhận hối lộ. Thứ năm là gây tai nạn đặc biệt nghiêm trọng, dẫn đến chết người. Không những vậy, sai phạm này đã gây ra tâm lý hoảng loạn, hoang mang cho những người khác sử dụng dịch vụ xe khách đi trên những tuyến đường đó. Tôi cho rằng nếu không xử lý nghiêm thì dẫn đến khá nhiều hệ lụy khác nhau về mặt kinh tế, an ninh, xã hội." Theo Chính phủ Xem bài viết liên quan: Giao xe cho người đang bị tước bằng lái điều khiển thì chủ xe có bị phạt? Đang bị tước bằng lái xe nhưng vẫn lái thì bị xử phạt về lỗi gì? Thủ tướng điện về khắc phục hậu quả vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai (1) Như thế nào là trốn thuế? Căn cứ tại Điều 143 Luật Quản lý Thuế nêu rõ hành vi trốn thuế là một trong các hành vi sau: - Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của Luật này. - Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp. - Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán. - Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp, sử dụng không hợp pháp hóa đơn để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế không phải nộp. - Sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế không phải nộp. - Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan. - Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. - Cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa nhằm mục đích trốn thuế. - Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. - Người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong thời gian ngừng, tạm ngừng hoạt động kinh doanh nhưng không thông báo với cơ quan quản lý thuế. - Người nộp thuế không bị xử phạt về hành vi trốn thuế mà bị xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 141 của Luật Quản lý Thuế đối với trường hợp sau đây: + Không nộp hồ sơ đăng ký thuế, không nộp hồ sơ khai thuế, nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày nhưng không phát sinh số tiền thuế phải nộp; + Nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày có phát sinh số tiền thuế phải nộp và người nộp thuế đã nộp đủ số tiền thuế, tiền chậm nộp vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế hoặc trước thời điểm cơ quan thuế lập biên bản về hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế. Hành vi trốn thuế như thế nào sẽ bị phạt hành chính? Mức xử phạt là bao nhiêu? Căn cứ tại Điều 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt hành vi trốn thuế như sau: - Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế, trừ trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 4 và khoản 5 Điều 13 Nghị định 125/2020/NĐ-CP; + Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp, không khai, khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, được miễn, giảm thuế, trừ hành vi quy định tại Điều 16 Nghị định 125/2020/NĐ-CP; + Không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp người nộp thuế đã khai thuế đối với giá trị hàng hóa, dịch vụ đã bán, đã cung ứng vào kỳ tính thuế tương ứng; lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ sai về số lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ để khai thuế thấp hơn thực tế và bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế; + Sử dụng hóa đơn không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hóa đơn để khai thuế làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm; + Sử dụng chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp chứng từ; sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, giảm, số tiền thuế được hoàn; lập thủ tục, hồ sơ hủy vật tư, hàng hóa không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm; + Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng, khai thuế với cơ quan thuế; + Người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong thời gian xin ngừng, tạm ngừng hoạt động kinh doanh nhưng không thông báo với cơ quan thuế, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 10 Nghị định 125/2020/NĐ-CP. - Phạt tiền 1,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 mà không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. - Phạt tiền 2 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 mà có một tình tiết tăng nặng. - Phạt tiền 2,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 có hai tình tiết tăng nặng. - Phạt tiền 3 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 có từ ba tình tiết tăng nặng trở lên. Ngoài ra, còn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như sau: - Buộc nộp đủ số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước đối với các hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 17. Trường hợp hành vi trốn thuế theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 ,4, 5 Điều 17 đã quá thời hiệu xử phạt thì người nộp thuế không bị xử phạt về hành vi trốn thuế nhưng người nộp thuế phải nộp đủ số tiền thuế trốn, tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước theo thời hạn quy định tại khoản 6 Điều 8 Nghị định 125/2020/NĐ-CP. - Buộc điều chỉnh lại số lỗ, số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ trên hồ sơ thuế (nếu có) đối với hành vi quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 17. Tội trốn thuế có bị xử lý hình sự không? Căn cứ tại Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015, điểm a, điểm b khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tội trốn thuế: - Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: + Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; + Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; + Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; + Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; + Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; + Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; + Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; + Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; + Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: + Có tổ chức; + Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: + Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; + Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; + Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm." Theo khoản 2 Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015 quy định pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Đang bị tước bằng lái xe nhưng vẫn lái thì bị xử phạt về lỗi gì?
Vừa qua, sáng ngày 30/9, vụ tài xế xe khách Thành Bưởi chạy xe quá tốc độ gây ra tai nạn đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai đã khiến 5 người tử vong, 4 người bị thương. Cụ thể, sáng 2/10, Công an huyện Định Quán quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam Hoàng Văn Tính (37 tuổi, quê quán Thừa Thiên Huế) về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Tính là tài xế của hãng xe Thành Bưởi, liên quan vụ tai nạn giữa 2 xe khách trên quốc lộ 20 làm 5 người tử vong, 4 người bị thương. Theo điều tra ban đầu, khoảng 2h30 ngày 30/9, tại quốc lộ 20 (bên phải tuyến thuộc xã Phú Lợi, trái tuyến thuộc xã Phú Vinh), huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, xe khách giường nằm thuộc Công ty TNHH Thành Bưởi lưu thông hướng Dầu Giây - Đà Lạt va chạm vào đuôi xe tải lưu thông cùng chiều. Sau đó xe khách Thành Bưởi tiếp tục lao sang bên trái đường, tông ô tô 16 chỗ của nhà xe Hải Đăng lưu thông hướng ngược lại. Hậu quả vụ tai nạn làm 5 người chết, 4 người bị thương. Theo cơ quan chức năng, tài xế Tính lúc gây tai nạn đang bị Công an tỉnh Lâm Đồng tước bằng lái 3 tháng. Trước sự việc trên, nhiều người dân bức xúc vì lỗi chạy quá tốc độ của tài xế lái xe Thành Bưởi, càng bức xúc hơn khi người này hiện đang bị tước bằng lái 3 tháng mà vẫn điều khiển xe tham gia giao thông rồi gây tai nạn. Điều này là vi phạm pháp luật và cần được xử phạt một cách thích đáng. Vậy hành vi bị tước bằng lái xe nhưng vẫn chạy thì mức phạt thế nào? Tước quyền sử dụng giấy phép lái xe thì có được tham gia giao thông không? Căn cứ theo Điều 25 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 có quy định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Đồng thời, căn cứ khoản 4 Điều 81 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về việc cá nhân tham gia giao thông khi đang bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe: Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, nếu cá nhân, tổ chức vẫn tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì bị xử phạt như hành vi không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Như vậy, trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép thì cá nhân không được điều khiển xe ghi trong giấy phép lái xe, nếu cá nhân vẫn tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép thì bị xử phạt như hành vi không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Mức phạt đối với người điều khiển xe không có giấy phép là bao nhiêu? Theo quy định tại Nghị định 100/2019/NĐ-CP người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy nếu không có Giấy phép lái xe (bằng lái xe) thì bị xử phạt như sau: Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa thì: - Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô. - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe mô tô ba bánh. *Đối với người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.
Thủ tướng điện khắc phục hậu quả vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 902/CĐ-TTg ngày 30/9/2023 về khắc phục hậu quả vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng tại tỉnh Đồng Nai. Cụ thể, theo báo cáo nhanh của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 30/9/2023, tại km48 Quốc lộ 20 thuộc địa phận xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai đã xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng giữa xe ô tô khách giường nằm mang biển kiểm soát 50F-004.83 và xe ô tô khách 16 chỗ ngồi mang biển kiểm soát 86B-015.75; hậu quả, làm 04 người tử vong và nhiều người bị thương. Ngay khi nhận được thông tin vụ tai nạn, Thủ tướng Chính phủ đã gửi lời thăm hỏi, chia buồn sâu sắc tới thân nhân, gia đình các nạn nhân tử vong, động viên, thăm hỏi các nạn nhân bị thương trong vụ tai nạn, đồng thời phân công đồng chí Phó Chủ tịch Chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia trực tiếp tới hiện trường để phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các cơ quan có liên quan chỉ đạo khắc phục hậu quả và thăm hỏi các nạn nhân trong vụ tai nạn. Để kịp thời khắc phục hậu quả, ngăn chặn các vụ tai nạn giao thông tương tự, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: (1) Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng Ban An toàn giao thông tỉnh Đồng Nai chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng của tỉnh: - Tập trung tối đa lực lượng y bác sĩ, thuốc men, thiết bị, vật tư y tế để cứu chữa các nạn nhân bị thương; tạo điều kiện thuận lợi để gia đình nhanh chóng tiếp cận các nạn nhân trong vụ tai nạn, làm các thủ tục liên quan đến nạn nhân tử vong; tổ chức thăm hỏi, hỗ trợ động viên gia đình các nạn nhân tử vong và các nạn nhân bị thương trong vụ tai nạn. - Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai trực tiếp chủ trì tổ chức hội nghị với các cơ quan, lực lượng chức năng đánh giá nguyên nhân, triển khai các giải pháp khắc phục tồn tại, bất cập, đồng thời xem xét xử lý nghiêm trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 10/CT-TTg ngày 19/4/2023 về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong tình hình mới. - Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận kiểm tra toàn diện về việc chấp hành các quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh có phương tiện và người liên quan trong vụ tai nạn; xử lý nghiêm theo đúng quy định pháp luật đối với các hành vi vi phạm. (2) Bộ Công an chỉ đạo Công an tỉnh Đồng Nai và Công an các đơn vị có liên quan khẩn trương điều tra, làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn và xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định, gây ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng nêu trên; xác định làm rõ nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông và các nguyên nhân có liên quan đến trách nhiệm của các tập thể, cá nhân trong công tác quản lý nhà nước liên quan đến vụ tai nạn giao thông nêu trên để phục vụ công tác phòng ngừa tai nạn giao thông tương tự trong thời gian tới. (3) Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành rà soát và tăng cường tổ chức giao thông để nâng cao an toàn của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông trên tuyến Quốc lộ 20; chú trọng bổ sung các kết cấu hộ lan, hốc cứu nạn trên tại các đoạn đèo dốc trên các tuyến quốc lộ trong cả nước. (4) Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia khẩn trương phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các địa phương có liên quan khắc phục hậu quả, thăm hỏi động viên nạn nhân vụ tai nạn giao thông; tham gia buổi làm việc với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các bộ, ngành, cơ quan có liên quan trong việc phân tích nguyên nhân và đề xuất giải pháp phòng ngừa tai nạn giao thông trong thời gian tới. (5) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 10/CT-TTg ngày 19/4/2023 về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong tình hình mới; chủ động có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, hiệu quả để đẩy lùi, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm tốt nhất an toàn tính mạng, sức khỏe và tài sản cho Nhân dân. Xem chi tiết tại Công điện 902/CĐ-TTg ngày 30/9/2023. Xem và tải Công điện 902/CĐ-TTg https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/10/02/cong-dien-902-cd-ttg-2023-khac-phuc-hau-qua-vu-tngt-dac-biet-nghiem-trong-tinh-dong-nai.pdf
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc đề nghị 04 địa phương sát sao trong giải ngân vốn đầu tư công
Ngày 18/04/2023, Bộ Tài chính đã ban hành Công văn 3780/BTC-ĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo Quyết định 235/QĐ-TTg đối với 04 địa phương: Đắk Nông, Gia Lai, Đồng Nai, Bình Dương. Theo đó, về kế hoạch vốn năm 2023 được Thủ tướng chính phủ giao cho 04 địa phương là trên trên 31,4 nghìn tỷ đồng, tổng số vốn đã phân bổ chi tiết của 04 địa phương là trên 41,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, đối với vốn ngân sách trung ương: Thủ tướng Chính phủ giao trên 9,3 nghìn tỷ đồng, 04 địa phương phân bổ 8,73 nghìn tỷ đồng, đạt 93,31 % kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao; có 03 địa phương Đắk Nông, Gia Lai, Đồng Nai chưa phân bổ hết kế hoạch vốn ngân sách trung ương năm 2023. Đối với vốn ngân sách địa phương: Thủ tướng Chính phủ giao gần 22,1 nghìn tỷ đồng, địa phương phân bổ trên 33 nghìn tỷ đồng, cao hơn số vốn kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao khoảng 10,9 nghìn tỷ đồng, tăng 149,39%. Tuy nhiên, tỉnh Gia Lai mới phân bổ vốn ngân sách địa phương đạt 91,35% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Về tình hình giải ngân của 04 địa phương tính đến ngày 31/3/2023 Tính đến ngày 31/3/2023, 04 địa phương đã giải ngân được 2.791 tỷ đồng, đạt 8,78% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; ước 04 tháng năm 2023 giải ngân được 4,2 nghìn tỷ đồng, đạt 13,5% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cụ thể như sau: Tỉnh Đắk Nông đạt 12,07%, ước 4 tháng đạt 18,61%. Tỉnh Gia Lai đạt 4,36%, ước 4 tháng đạt 13,82%. Tỉnh Đồng Nai đạt 8,95%, ước 4 tháng đạt 12,57%. Tỉnh Bình Dương đạt 9,37%, ước 4 tháng đạt 14,64%. Ngoài ra, các địa phương đều có các dự án chưa giải ngân hoặc số vốn đã giải ngân rất thấp (dưới 5% kế hoạch vốn năm 2023). Cụ thể: tỉnh Đắk Nông 36 dự án; tỉnh Gia Lai 21 dự án; tỉnh Đồng Nai 09 dự án; tỉnh Bình Dương 21 dự án. Bộ trưởng yêu cầu siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong công tác giải ngân vốn đầu tư công Trên cơ sở báo cáo về tình hình thực hiện vốn đầu tư công năm 2023 của 04 địa phương và tổng hợp những vướng mắc, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc - Tổ trưởng Tổ công tác số 05 đã ký Công văn 3781/BTC-ĐT ngày 18/4/2023 gửi các địa phương chỉ đạo triển khai các giải pháp. Cụ thể, đề nghị Lãnh đạo các địa phương phải đúng nguyên tắc, tiêu chí theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, rà soát những dự án đã được giao kế hoạch không có khả năng giải ngân (nhất là các dự án đến nay có số giải ngân bằng 0) để phân bổ đủ kế hoạch vốn cho các dự án đã được phê duyệt quyết toán, dự án đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng, dự án chuyển tiếp hoàn thành trong năm 2023 còn thiếu vốn, mới xem xét bố trí kế hoạch vốn cho dự án khởi công mới đảm bảo đúng quy định về nguyên tắc phân bổ vốn; Khẩn trương phân bổ chi tiết hết số vốn kế hoạch năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho các dự án để không ảnh hưởng đến công tác giải ngân vốn; Khẩn trương triển khai các giải pháp để đẩy nhanh công tác hoàn thiện thủ tục đầu tư, phê duyệt dự án đầu tư để phân bổ chi tiết toàn bộ kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ giao theo đúng quy định; Nhập đủ, kịp thời kế hoạch vốn của từng dự án trên Hệ thống Thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (Tabmis) đối với số phân bổ chi tiết đủ điều kiện thanh toán theo quy định. Đề nghị các địa phương: Thực hiện kiểm tra, giám sát, đôn đốc các chủ đầu tư, ban quản lý dự án thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn của các dự án ngay từ những tháng đầu năm; kịp thời, chủ động tháo gỡ ngay các vướng mắc, khó khăn trong tổ chức thi công và giải ngân của từng dự án, cụ thể: - Chỉ đạo tập trung đẩy mạnh giải ngân các dự án đầu tư có khả năng giải ngân cao, các dự án đã hoàn tất các thủ tục đầu tư, công tác đấu thầu, phê duyệt hợp đồng; - Phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ có liên quan để giải quyết các vướng mắc phát sinh hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét xử lý các vướng mắc vượt thẩm quyền của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương. Bộ trưởng cũng đề nghị các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án: Phối hợp chặt chẽ với các nhà thầu, đơn vị cung ứng vật tư, vật liệu để giải quyết các khó khăn, vướng mắc về nguồn cung nhằm đảm bảo điều kiện thi công, đẩy nhanh tiến độ triển khai các gói thầu. Trường hợp cần tăng mức tạm ứng vốn để đáp ứng nhu cầu cung ứng vật tư, vật liệu, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án báo cáo người quyết định đầu tư để xem xét, quyết định theo thẩm quyền phù hợp với quy định về nguyên tắc tạm ứng vốn, bảo lãnh tạm ứng, mức vốn tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng và chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn tạm ứng đúng mục đích, có hiệu quả. Phối hợp với nhà thầu để hoàn thiện hồ sơ tạm ứng, thanh toán gửi Kho bạc Nhà nước kiểm soát chi ngay sau khi đủ điều kiện tạm ứng vốn hoặc có khối lượng hoàn thành. Đối với các dự án ODA và vay ưu đãi nước ngoài, các đơn vị khẩn trương gửi hồ sơ rút vốn tới Bộ Tài chính (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại) để thực hiện giải ngân theo quy định đối với các khối lượng đã được kiểm soát chi, không để tồn đọng, đặc biệt là các khoản hoàn chứng từ tài khoản đặc biệt… Đối với cơ quan kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, Bộ trưởng yêu cầu đẩy mạnh việc thanh toán nhanh qua cổng dịch vụ công trực tuyến, giảm thời gian giải ngân vốn cho đơn vị thụ hưởng, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của đơn vị; Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc “thanh toán trước, kiểm soát sau” cho từng lần giải ngân cho đến khi giá trị giải ngân đạt 80% giá trị hợp đồng thì mới chuyển sang hình thức “kiểm soát trước, thanh toán sau” theo quy định, các khoản chi tạm ứng vốn hoặc thực hiện theo hình thức “thanh toán trước, kiểm soát sau” đảm bảo thời hạn kiểm soát, thanh toán tại Kho bạc Nhà nước là trong vòng 01 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ. Nguồn: Cổng Thông tin Bộ Tài chính
Đồng Nai khuyến cáo người dân không ra khỏi nhà nếu không cần thiết
Chiều 3-8, UBND tỉnh Đồng Nai có công văn 9026/UBND-KGVX về việc tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh có chỉ đạo như sau: - Khuyến cáo người dân không ra khỏi nhà nếu không cần thiết và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo hướng dẫn của ngành y tế. - Không tập trung quá 30 người tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện; giữ khoảng cách tối thiểu 01 mét khi tiếp xúc. - Thường xuyên rà soát, cập nhật phương án phòng, chống dịch trên địa bàn; đảm bảo cơ sở vật chất, nhân lực đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch. - Các cơ sở kinh doanh thương mại dịch vụ được hoạt động phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn phòng, chống dịch như: Trang bị phòng hộ cho nhân viên, đo thân nhiệt khách đến; bố trí đầy đủ dụng cụ, phương tiện, vật tư để rửa tay, sát khuẩn tại cơ sở và bảo đảm khoảng cách khi tiếp xúc. Nhà máy, cơ sở sản xuất tiếp tục hoạt động và phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch cho công nhân, người lao động theo hướng dẫn của ngành y tế. Xem chi tiết công văn tại file đính kèm:
Khởi tố hình sự ngay nhà xe Thành Bưởi vì hành vi trốn thuế
Khởi tố hình sự ngay đối với hành vi trốn thuế của Nhà xe Thành Bưởi và rút giấy phép hoạt động. Trước đó, sáng ngày 30/9, vụ tài xế xe khách Thành Bưởi chạy xe quá tốc độ gây ra tai nạn đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai đã khiến 5 người tử vong, 4 người bị thương. Mới đây, trên trang Thông tin Chính phủ vừa đưa tin “Cần rút giấy phép hoạt động của nhà xe Thành Bưởi; khởi tố hình sự ngay hành vi trốn thuế”. Cụ thể, Phó Ban Dân nguyện (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) Lưu Bình Nhưỡng nhấn mạnh: "Việc trốn thuế này theo như báo chí nói, tôi đề nghị cũng làm rõ, là có thể trốn thuế, trốn phí đến hàng nghìn tỷ đồng... Chúng ta biết rằng, con số một nghìn tỷ đồng bằng thu nhập quốc dân của một tỉnh nghèo ở phía bắc. Ví dụ như Bắc Kạn, đây là một khoản ngân sách vô cùng to lớn của toàn thể gần 1 triệu dân trong một năm". Ông Lưu Bình Nhưỡng cho biết: "Hình thức bên ngoài mà người dân nhìn thấy là sự vi phạm của tài xế lái xe. Cụ thể, tài xế bị thu bằng vẫn được giao xe để chạy bình thường và chạy vào khung giờ rất nguy hiểm, dễ bị ngủ gật và gây tai nạn. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, vụ vừa qua là ở Định Quán, tôi được biết một vụ nữa trên địa bàn huyện Trảng Bom và Tòa án Trảng Bom cũng vừa xét xử. Trong đó, người ta cố tình đưa vụ việc hướng sang một hướng khác khi lái xe đâm vào một xe đỗ ven đường nhưng lại truy tố một lái xe khác. Địa bàn tỉnh Đồng Nai là cung đường khá nguy hiểm, là nơi trung chuyển giữa nhiều địa bàn lớn và có hoạt động vận tải mạnh. Tuy nhiên, không đơn giản là vi phạm của lái xe, về sâu xa, đây chính là vi phạm của nhà xe. Tôi xin liệt kê mấy vi phạm có khả năng cần phải xem xét điều tra, làm kỹ. Thứ nhất là vi phạm của việc lập bến trái phép. Báo chí nêu vấn đề này rất trầm trọng. Nhà xe này đã lập nhiều bến trong đó có bến công khai, bến trá hình, bến có quyết định nhưng cũng có bến không có quyết định. Đơn cử như bến ở thành phố Đà Lạt hoạt động công khai mặc dù không đủ diện tích để bố trí làm một bến xe. Hay như nhà xe lập bến ở 66-68 Lê Hồng Phong (TPHCM), nhưng lại trung chuyển khách ra 48C đường song hành Xa lộ Hà Nội. Báo chí và các cơ quan, ban, ngành cũng đã có sự thanh tra kiểm tra. Thứ hai là kinh doanh trái pháp luật. Ví dụ, nhà xe đăng ký chỉ một tuyến duy nhất đi Cần Thơ, còn lại các tuyến khác đăng ký du lịch, hợp đồng. Nhưng bản chất của hàng trăm, hàng nghìn chuyến đi Đà Lạt là chạy xe khách liên tỉnh. Rõ ràng, có sự đánh tráo khái niệm, lấp liếm giữa xe hợp đồng và xe khách liên tỉnh; gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh, không chỉ gây thiệt hại cho Nhà nước mà còn gây thiệt hại cho cả những nhà xe khác. Rõ ràng đây là sự trá hình rất nguy hiểm và pháp luật rất nghiêm cấm việc này. Thứ ba là trốn thuế và trốn phí. Mỗi lần vào bến, phải có lệ phí và kinh doanh phải nộp thuế. Nếu bán vé mà không xuất hóa đơn, không xuất vé, chỉ thu tiền thì đương nhiên là trốn thuế. Và hành vi trốn thuế là hành vi cực kỳ nghiêm trọng. Đặc biệt với những người kinh doanh lộ liễu như thế này thì hành vi trốn thuế tôi cho rằng là hành vi rất nguy hiểm. Và việc trốn thuế này theo như báo chí nói, tôi đề nghị cũng làm rõ, là có thể trốn thuế, trốn phí đến hàng nghìn tỷ đồng. Điều này làm thiệt hại cho ngân sách của TPHCM và ngân sách nhà nước. Chúng ta biết rằng, con số một nghìn tỷ đồng bằng thu nhập quốc dân của một tỉnh nghèo ở phía bắc. Ví dụ như Bắc Kạn, đây là một khoản ngân sách vô cùng to lớn của toàn thể gần 1 triệu dân trong một năm. Thứ tư là có dấu hiệu hối lộ. Muốn tồn tại vi phạm suốt thời gian dài thì có khả năng có bảo kê, "chống lưng", bao che và có hối lộ. Nếu cơ quan chức năng làm rõ hành vi hối lộ thì phải xử lý không chỉ người hối lộ mà cả người nhận hối lộ. Thứ năm là gây tai nạn đặc biệt nghiêm trọng, dẫn đến chết người. Không những vậy, sai phạm này đã gây ra tâm lý hoảng loạn, hoang mang cho những người khác sử dụng dịch vụ xe khách đi trên những tuyến đường đó. Tôi cho rằng nếu không xử lý nghiêm thì dẫn đến khá nhiều hệ lụy khác nhau về mặt kinh tế, an ninh, xã hội." Theo Chính phủ Xem bài viết liên quan: Giao xe cho người đang bị tước bằng lái điều khiển thì chủ xe có bị phạt? Đang bị tước bằng lái xe nhưng vẫn lái thì bị xử phạt về lỗi gì? Thủ tướng điện về khắc phục hậu quả vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai (1) Như thế nào là trốn thuế? Căn cứ tại Điều 143 Luật Quản lý Thuế nêu rõ hành vi trốn thuế là một trong các hành vi sau: - Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của Luật này. - Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp. - Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán. - Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp, sử dụng không hợp pháp hóa đơn để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế không phải nộp. - Sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế không phải nộp. - Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan. - Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. - Cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa nhằm mục đích trốn thuế. - Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. - Người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong thời gian ngừng, tạm ngừng hoạt động kinh doanh nhưng không thông báo với cơ quan quản lý thuế. - Người nộp thuế không bị xử phạt về hành vi trốn thuế mà bị xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 141 của Luật Quản lý Thuế đối với trường hợp sau đây: + Không nộp hồ sơ đăng ký thuế, không nộp hồ sơ khai thuế, nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày nhưng không phát sinh số tiền thuế phải nộp; + Nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày có phát sinh số tiền thuế phải nộp và người nộp thuế đã nộp đủ số tiền thuế, tiền chậm nộp vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế hoặc trước thời điểm cơ quan thuế lập biên bản về hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế. Hành vi trốn thuế như thế nào sẽ bị phạt hành chính? Mức xử phạt là bao nhiêu? Căn cứ tại Điều 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt hành vi trốn thuế như sau: - Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế, trừ trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 4 và khoản 5 Điều 13 Nghị định 125/2020/NĐ-CP; + Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp, không khai, khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, được miễn, giảm thuế, trừ hành vi quy định tại Điều 16 Nghị định 125/2020/NĐ-CP; + Không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp người nộp thuế đã khai thuế đối với giá trị hàng hóa, dịch vụ đã bán, đã cung ứng vào kỳ tính thuế tương ứng; lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ sai về số lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ để khai thuế thấp hơn thực tế và bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế; + Sử dụng hóa đơn không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hóa đơn để khai thuế làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm; + Sử dụng chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp chứng từ; sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, giảm, số tiền thuế được hoàn; lập thủ tục, hồ sơ hủy vật tư, hàng hóa không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm; + Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng, khai thuế với cơ quan thuế; + Người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong thời gian xin ngừng, tạm ngừng hoạt động kinh doanh nhưng không thông báo với cơ quan thuế, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 10 Nghị định 125/2020/NĐ-CP. - Phạt tiền 1,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 mà không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. - Phạt tiền 2 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 mà có một tình tiết tăng nặng. - Phạt tiền 2,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 có hai tình tiết tăng nặng. - Phạt tiền 3 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 có từ ba tình tiết tăng nặng trở lên. Ngoài ra, còn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như sau: - Buộc nộp đủ số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước đối với các hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 17. Trường hợp hành vi trốn thuế theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 ,4, 5 Điều 17 đã quá thời hiệu xử phạt thì người nộp thuế không bị xử phạt về hành vi trốn thuế nhưng người nộp thuế phải nộp đủ số tiền thuế trốn, tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước theo thời hạn quy định tại khoản 6 Điều 8 Nghị định 125/2020/NĐ-CP. - Buộc điều chỉnh lại số lỗ, số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ trên hồ sơ thuế (nếu có) đối với hành vi quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 17. Tội trốn thuế có bị xử lý hình sự không? Căn cứ tại Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015, điểm a, điểm b khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tội trốn thuế: - Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: + Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; + Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; + Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; + Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; + Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; + Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; + Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; + Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; + Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: + Có tổ chức; + Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: + Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; + Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; + Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm." Theo khoản 2 Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015 quy định pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Đang bị tước bằng lái xe nhưng vẫn lái thì bị xử phạt về lỗi gì?
Vừa qua, sáng ngày 30/9, vụ tài xế xe khách Thành Bưởi chạy xe quá tốc độ gây ra tai nạn đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai đã khiến 5 người tử vong, 4 người bị thương. Cụ thể, sáng 2/10, Công an huyện Định Quán quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam Hoàng Văn Tính (37 tuổi, quê quán Thừa Thiên Huế) về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Tính là tài xế của hãng xe Thành Bưởi, liên quan vụ tai nạn giữa 2 xe khách trên quốc lộ 20 làm 5 người tử vong, 4 người bị thương. Theo điều tra ban đầu, khoảng 2h30 ngày 30/9, tại quốc lộ 20 (bên phải tuyến thuộc xã Phú Lợi, trái tuyến thuộc xã Phú Vinh), huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, xe khách giường nằm thuộc Công ty TNHH Thành Bưởi lưu thông hướng Dầu Giây - Đà Lạt va chạm vào đuôi xe tải lưu thông cùng chiều. Sau đó xe khách Thành Bưởi tiếp tục lao sang bên trái đường, tông ô tô 16 chỗ của nhà xe Hải Đăng lưu thông hướng ngược lại. Hậu quả vụ tai nạn làm 5 người chết, 4 người bị thương. Theo cơ quan chức năng, tài xế Tính lúc gây tai nạn đang bị Công an tỉnh Lâm Đồng tước bằng lái 3 tháng. Trước sự việc trên, nhiều người dân bức xúc vì lỗi chạy quá tốc độ của tài xế lái xe Thành Bưởi, càng bức xúc hơn khi người này hiện đang bị tước bằng lái 3 tháng mà vẫn điều khiển xe tham gia giao thông rồi gây tai nạn. Điều này là vi phạm pháp luật và cần được xử phạt một cách thích đáng. Vậy hành vi bị tước bằng lái xe nhưng vẫn chạy thì mức phạt thế nào? Tước quyền sử dụng giấy phép lái xe thì có được tham gia giao thông không? Căn cứ theo Điều 25 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 có quy định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Đồng thời, căn cứ khoản 4 Điều 81 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về việc cá nhân tham gia giao thông khi đang bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe: Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, nếu cá nhân, tổ chức vẫn tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì bị xử phạt như hành vi không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Như vậy, trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép thì cá nhân không được điều khiển xe ghi trong giấy phép lái xe, nếu cá nhân vẫn tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép thì bị xử phạt như hành vi không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Mức phạt đối với người điều khiển xe không có giấy phép là bao nhiêu? Theo quy định tại Nghị định 100/2019/NĐ-CP người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy nếu không có Giấy phép lái xe (bằng lái xe) thì bị xử phạt như sau: Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa thì: - Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô. - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe mô tô ba bánh. *Đối với người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.
Thủ tướng điện khắc phục hậu quả vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng ở Đồng Nai
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 902/CĐ-TTg ngày 30/9/2023 về khắc phục hậu quả vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng tại tỉnh Đồng Nai. Cụ thể, theo báo cáo nhanh của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 30/9/2023, tại km48 Quốc lộ 20 thuộc địa phận xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai đã xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng giữa xe ô tô khách giường nằm mang biển kiểm soát 50F-004.83 và xe ô tô khách 16 chỗ ngồi mang biển kiểm soát 86B-015.75; hậu quả, làm 04 người tử vong và nhiều người bị thương. Ngay khi nhận được thông tin vụ tai nạn, Thủ tướng Chính phủ đã gửi lời thăm hỏi, chia buồn sâu sắc tới thân nhân, gia đình các nạn nhân tử vong, động viên, thăm hỏi các nạn nhân bị thương trong vụ tai nạn, đồng thời phân công đồng chí Phó Chủ tịch Chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia trực tiếp tới hiện trường để phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các cơ quan có liên quan chỉ đạo khắc phục hậu quả và thăm hỏi các nạn nhân trong vụ tai nạn. Để kịp thời khắc phục hậu quả, ngăn chặn các vụ tai nạn giao thông tương tự, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: (1) Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng Ban An toàn giao thông tỉnh Đồng Nai chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng của tỉnh: - Tập trung tối đa lực lượng y bác sĩ, thuốc men, thiết bị, vật tư y tế để cứu chữa các nạn nhân bị thương; tạo điều kiện thuận lợi để gia đình nhanh chóng tiếp cận các nạn nhân trong vụ tai nạn, làm các thủ tục liên quan đến nạn nhân tử vong; tổ chức thăm hỏi, hỗ trợ động viên gia đình các nạn nhân tử vong và các nạn nhân bị thương trong vụ tai nạn. - Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai trực tiếp chủ trì tổ chức hội nghị với các cơ quan, lực lượng chức năng đánh giá nguyên nhân, triển khai các giải pháp khắc phục tồn tại, bất cập, đồng thời xem xét xử lý nghiêm trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 10/CT-TTg ngày 19/4/2023 về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong tình hình mới. - Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận kiểm tra toàn diện về việc chấp hành các quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh có phương tiện và người liên quan trong vụ tai nạn; xử lý nghiêm theo đúng quy định pháp luật đối với các hành vi vi phạm. (2) Bộ Công an chỉ đạo Công an tỉnh Đồng Nai và Công an các đơn vị có liên quan khẩn trương điều tra, làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn và xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định, gây ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng nêu trên; xác định làm rõ nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông và các nguyên nhân có liên quan đến trách nhiệm của các tập thể, cá nhân trong công tác quản lý nhà nước liên quan đến vụ tai nạn giao thông nêu trên để phục vụ công tác phòng ngừa tai nạn giao thông tương tự trong thời gian tới. (3) Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành rà soát và tăng cường tổ chức giao thông để nâng cao an toàn của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông trên tuyến Quốc lộ 20; chú trọng bổ sung các kết cấu hộ lan, hốc cứu nạn trên tại các đoạn đèo dốc trên các tuyến quốc lộ trong cả nước. (4) Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia khẩn trương phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các địa phương có liên quan khắc phục hậu quả, thăm hỏi động viên nạn nhân vụ tai nạn giao thông; tham gia buổi làm việc với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và các bộ, ngành, cơ quan có liên quan trong việc phân tích nguyên nhân và đề xuất giải pháp phòng ngừa tai nạn giao thông trong thời gian tới. (5) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 10/CT-TTg ngày 19/4/2023 về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong tình hình mới; chủ động có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, hiệu quả để đẩy lùi, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm tốt nhất an toàn tính mạng, sức khỏe và tài sản cho Nhân dân. Xem chi tiết tại Công điện 902/CĐ-TTg ngày 30/9/2023. Xem và tải Công điện 902/CĐ-TTg https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/10/02/cong-dien-902-cd-ttg-2023-khac-phuc-hau-qua-vu-tngt-dac-biet-nghiem-trong-tinh-dong-nai.pdf
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc đề nghị 04 địa phương sát sao trong giải ngân vốn đầu tư công
Ngày 18/04/2023, Bộ Tài chính đã ban hành Công văn 3780/BTC-ĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo Quyết định 235/QĐ-TTg đối với 04 địa phương: Đắk Nông, Gia Lai, Đồng Nai, Bình Dương. Theo đó, về kế hoạch vốn năm 2023 được Thủ tướng chính phủ giao cho 04 địa phương là trên trên 31,4 nghìn tỷ đồng, tổng số vốn đã phân bổ chi tiết của 04 địa phương là trên 41,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, đối với vốn ngân sách trung ương: Thủ tướng Chính phủ giao trên 9,3 nghìn tỷ đồng, 04 địa phương phân bổ 8,73 nghìn tỷ đồng, đạt 93,31 % kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao; có 03 địa phương Đắk Nông, Gia Lai, Đồng Nai chưa phân bổ hết kế hoạch vốn ngân sách trung ương năm 2023. Đối với vốn ngân sách địa phương: Thủ tướng Chính phủ giao gần 22,1 nghìn tỷ đồng, địa phương phân bổ trên 33 nghìn tỷ đồng, cao hơn số vốn kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao khoảng 10,9 nghìn tỷ đồng, tăng 149,39%. Tuy nhiên, tỉnh Gia Lai mới phân bổ vốn ngân sách địa phương đạt 91,35% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Về tình hình giải ngân của 04 địa phương tính đến ngày 31/3/2023 Tính đến ngày 31/3/2023, 04 địa phương đã giải ngân được 2.791 tỷ đồng, đạt 8,78% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; ước 04 tháng năm 2023 giải ngân được 4,2 nghìn tỷ đồng, đạt 13,5% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cụ thể như sau: Tỉnh Đắk Nông đạt 12,07%, ước 4 tháng đạt 18,61%. Tỉnh Gia Lai đạt 4,36%, ước 4 tháng đạt 13,82%. Tỉnh Đồng Nai đạt 8,95%, ước 4 tháng đạt 12,57%. Tỉnh Bình Dương đạt 9,37%, ước 4 tháng đạt 14,64%. Ngoài ra, các địa phương đều có các dự án chưa giải ngân hoặc số vốn đã giải ngân rất thấp (dưới 5% kế hoạch vốn năm 2023). Cụ thể: tỉnh Đắk Nông 36 dự án; tỉnh Gia Lai 21 dự án; tỉnh Đồng Nai 09 dự án; tỉnh Bình Dương 21 dự án. Bộ trưởng yêu cầu siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong công tác giải ngân vốn đầu tư công Trên cơ sở báo cáo về tình hình thực hiện vốn đầu tư công năm 2023 của 04 địa phương và tổng hợp những vướng mắc, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc - Tổ trưởng Tổ công tác số 05 đã ký Công văn 3781/BTC-ĐT ngày 18/4/2023 gửi các địa phương chỉ đạo triển khai các giải pháp. Cụ thể, đề nghị Lãnh đạo các địa phương phải đúng nguyên tắc, tiêu chí theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, rà soát những dự án đã được giao kế hoạch không có khả năng giải ngân (nhất là các dự án đến nay có số giải ngân bằng 0) để phân bổ đủ kế hoạch vốn cho các dự án đã được phê duyệt quyết toán, dự án đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng, dự án chuyển tiếp hoàn thành trong năm 2023 còn thiếu vốn, mới xem xét bố trí kế hoạch vốn cho dự án khởi công mới đảm bảo đúng quy định về nguyên tắc phân bổ vốn; Khẩn trương phân bổ chi tiết hết số vốn kế hoạch năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho các dự án để không ảnh hưởng đến công tác giải ngân vốn; Khẩn trương triển khai các giải pháp để đẩy nhanh công tác hoàn thiện thủ tục đầu tư, phê duyệt dự án đầu tư để phân bổ chi tiết toàn bộ kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ giao theo đúng quy định; Nhập đủ, kịp thời kế hoạch vốn của từng dự án trên Hệ thống Thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (Tabmis) đối với số phân bổ chi tiết đủ điều kiện thanh toán theo quy định. Đề nghị các địa phương: Thực hiện kiểm tra, giám sát, đôn đốc các chủ đầu tư, ban quản lý dự án thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn của các dự án ngay từ những tháng đầu năm; kịp thời, chủ động tháo gỡ ngay các vướng mắc, khó khăn trong tổ chức thi công và giải ngân của từng dự án, cụ thể: - Chỉ đạo tập trung đẩy mạnh giải ngân các dự án đầu tư có khả năng giải ngân cao, các dự án đã hoàn tất các thủ tục đầu tư, công tác đấu thầu, phê duyệt hợp đồng; - Phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ có liên quan để giải quyết các vướng mắc phát sinh hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét xử lý các vướng mắc vượt thẩm quyền của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương. Bộ trưởng cũng đề nghị các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án: Phối hợp chặt chẽ với các nhà thầu, đơn vị cung ứng vật tư, vật liệu để giải quyết các khó khăn, vướng mắc về nguồn cung nhằm đảm bảo điều kiện thi công, đẩy nhanh tiến độ triển khai các gói thầu. Trường hợp cần tăng mức tạm ứng vốn để đáp ứng nhu cầu cung ứng vật tư, vật liệu, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án báo cáo người quyết định đầu tư để xem xét, quyết định theo thẩm quyền phù hợp với quy định về nguyên tắc tạm ứng vốn, bảo lãnh tạm ứng, mức vốn tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng và chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn tạm ứng đúng mục đích, có hiệu quả. Phối hợp với nhà thầu để hoàn thiện hồ sơ tạm ứng, thanh toán gửi Kho bạc Nhà nước kiểm soát chi ngay sau khi đủ điều kiện tạm ứng vốn hoặc có khối lượng hoàn thành. Đối với các dự án ODA và vay ưu đãi nước ngoài, các đơn vị khẩn trương gửi hồ sơ rút vốn tới Bộ Tài chính (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại) để thực hiện giải ngân theo quy định đối với các khối lượng đã được kiểm soát chi, không để tồn đọng, đặc biệt là các khoản hoàn chứng từ tài khoản đặc biệt… Đối với cơ quan kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, Bộ trưởng yêu cầu đẩy mạnh việc thanh toán nhanh qua cổng dịch vụ công trực tuyến, giảm thời gian giải ngân vốn cho đơn vị thụ hưởng, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của đơn vị; Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc “thanh toán trước, kiểm soát sau” cho từng lần giải ngân cho đến khi giá trị giải ngân đạt 80% giá trị hợp đồng thì mới chuyển sang hình thức “kiểm soát trước, thanh toán sau” theo quy định, các khoản chi tạm ứng vốn hoặc thực hiện theo hình thức “thanh toán trước, kiểm soát sau” đảm bảo thời hạn kiểm soát, thanh toán tại Kho bạc Nhà nước là trong vòng 01 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ. Nguồn: Cổng Thông tin Bộ Tài chính
Đồng Nai khuyến cáo người dân không ra khỏi nhà nếu không cần thiết
Chiều 3-8, UBND tỉnh Đồng Nai có công văn 9026/UBND-KGVX về việc tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh có chỉ đạo như sau: - Khuyến cáo người dân không ra khỏi nhà nếu không cần thiết và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo hướng dẫn của ngành y tế. - Không tập trung quá 30 người tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện; giữ khoảng cách tối thiểu 01 mét khi tiếp xúc. - Thường xuyên rà soát, cập nhật phương án phòng, chống dịch trên địa bàn; đảm bảo cơ sở vật chất, nhân lực đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch. - Các cơ sở kinh doanh thương mại dịch vụ được hoạt động phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn phòng, chống dịch như: Trang bị phòng hộ cho nhân viên, đo thân nhiệt khách đến; bố trí đầy đủ dụng cụ, phương tiện, vật tư để rửa tay, sát khuẩn tại cơ sở và bảo đảm khoảng cách khi tiếp xúc. Nhà máy, cơ sở sản xuất tiếp tục hoạt động và phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch cho công nhân, người lao động theo hướng dẫn của ngành y tế. Xem chi tiết công văn tại file đính kèm: