Thủ tục cần thực hiện để tiến hành giao kết một hợp đồng thương mại được quy định như thế nào?
Các giai đoạn để tiến hành giao kết/ xác lập một hợp đồng thương mại theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành? Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015). Về nguyên tắc áp dụng, hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng được xác lập (giao kết) theo hai giai đoạn là (i) đề nghị giao kết hợp đồng; và (ii) chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Giai đoạn 1: Đề nghị giao kết hợp đồng Đề nghị giao kết hợp đồng là một hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể, nhằm bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với một hoặc nhiều chủ thể khác theo các điều kiện đã xác định. Theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Nói cách khác, đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên đưa ra ý định muốn thiết lập hợp đồng với các bên còn lại. Đây là bước quan trọng trong quá trình ký kết hợp đồng. Bên đề nghị có thể gửi đề nghị đến một hoặc nhiều chủ thể mà mình mong muốn giao kết. Bên đề nghị cũng có thể quy định thời gian cụ thể mà đề nghị có hiệu lực để bên nhận biết. Trong trường hợp không có quy định rõ về thời gian hiệu lực, đề nghị sẽ có hiệu lực từ thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Các căn cứ xác định bên nhận đã nhận được đề nghị bao gồm: (i) đề nghị được gửi đến nơi cư trú (nếu bên được đề nghị là cá nhân) hoặc trụ sở (nếu là pháp nhân); (ii) đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; hoặc (iii) bên được đề nghị biết được đề nghị thông qua các phương thức khác. Trong thời gian chờ phản hồi từ bên nhận, bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu trong đề nghị đã nêu rõ quyền này hoặc nếu bên nhận nhận được thông báo rút lại trước hoặc cùng lúc với đề nghị. Khi đó, đề nghị sẽ không còn giá trị pháp lý. Đề nghị giao kết hợp đồng sẽ mất hiệu lực trong các trường hợp: (i) bên nhận từ chối đề nghị; (ii) hết thời hạn trả lời; (iii) thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv) thông báo hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; hoặc (v) theo thỏa thuận giữa hai bên trong thời gian chờ phản hồi. Giai đoạn 2: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Để một hợp đồng thương mại được thành lập, bên được đề nghị phải chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị mà bên kia đưa ra. Điều này có nghĩa là không được có bất kỳ sự thay đổi, bổ sung nào so với đề nghị ban đầu. Nếu bên được đề nghị đưa ra điều kiện hoặc sửa đổi, về bản chất, họ đã đưa ra một đề nghị mới. Thời hạn trả lời chấp nhận: Có thời hạn: Nếu bên đề nghị đã đặt ra thời hạn cụ thể để nhận câu trả lời, thì bên được đề nghị phải trả lời trong khoảng thời gian đó. Nếu quá thời hạn, câu trả lời sẽ được coi như một đề nghị mới. Không có thời hạn: Nếu không có thời hạn cụ thể, bên được đề nghị nên trả lời sớm nhất có thể. Tuy nhiên, nếu vì lý do bất khả kháng mà việc trả lời chậm trễ, và bên đề nghị biết hoặc phải biết điều này, thì câu trả lời vẫn có hiệu lực. Giao dịch trực tiếp: Trong trường hợp giao dịch trực tiếp (qua điện thoại, trực tiếp), bên được đề nghị nên trả lời ngay. Nếu có thỏa thuận về thời gian trả lời, bên đề nghị có quyền rút lại đề nghị trước hoặc cùng lúc với thời điểm nhận được câu trả lời. Sự im lặng không phải là sự chấp nhận: Theo nguyên tắc chung, sự im lặng của bên được đề nghị không được hiểu là sự chấp nhận. Để một hợp đồng được thành lập, sự đồng ý của các bên phải được thể hiện một cách rõ ràng, chẳng hạn như bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, nếu có thỏa thuận trước hoặc theo thói quen giao dịch giữa các bên, sự im lặng có thể được coi là sự chấp nhận. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Tìm hiểu quy định pháp luật về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực?
Đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi nào? Những trường hợp được xác định là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng? Thời điểm để một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực pháp luật? Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Điều 386. Đề nghị giao kết hợp đồng 1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị). 2. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”. Kể từ khi đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực, không chỉ bên đề nghị bị ràng buộc bởi nội dung mà họ đưa ra, mà cả hai bên (bên đề nghị và bên được đề nghị) đều phải có trách nhiệm bảo mật và cung cấp thông tin chính xác cho đối phương. Thêm vào đó, theo khoản 2 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015, trong thời gian chờ phản hồi từ bên được đề nghị, bên đề nghị không được phép giao kết hợp đồng với bên thứ ba. Nếu hành động này vi phạm và gây ra thiệt hại, bên đề nghị sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này cho thấy việc đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực dẫn đến nhiều nghĩa vụ pháp lý đối với các bên liên quan. Pháp luật quy định hai cách để xác định thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực: Theo thời điểm do bên đề nghị ấn định: Bên đề nghị có quyền xác định thời điểm đề nghị có hiệu lực, vì đề nghị là sự thể hiện ý chí của một bên mong muốn thiết lập hợp đồng với bên còn lại. Pháp luật không quy định thời hạn cố định, mà trao quyền này cho bên đề nghị để tạo sự linh hoạt trong quá trình đàm phán và ký kết, phù hợp với mục tiêu và lợi ích của họ. Mỗi trường hợp hợp đồng có đặc điểm và mục tiêu khác nhau, vì vậy việc để bên đề nghị tự quyết định thời điểm có hiệu lực giúp tối ưu hóa quá trình giao kết hợp đồng. Kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị: Trong trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực, pháp luật sẽ tính thời điểm có hiệu lực từ lúc bên được đề nghị nhận được đề nghị. Cách xác định này giúp tránh những khó khăn trong việc chứng minh thời điểm bên được đề nghị đã hiểu rõ nội dung đề nghị, bởi điều đó có thể gây ra sự từ chối hoặc tranh cãi. Thời điểm nhận được đề nghị dễ dàng được xác định qua các phương thức giao nhận và tạo điều kiện cho bên được đề nghị truy cập thông tin, đưa ra quyết định về việc ký kết. Quy định này hợp lý và giúp tránh các tranh chấp pháp lý trong quá trình giao kết. Những trường hợp được xác định là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng? Khi bên đề nghị không ấn định thời hạn có hiệu lực của đề nghị, việc xác định thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị trở nên quan trọng. Pháp luật đã quy định rõ ràng các trường hợp sau: - Đề nghị được gửi đến địa chỉ liên lạc: Đối với đề nghị được gửi qua đường bưu điện hoặc chuyển phát nhanh, thời điểm đề nghị có hiệu lực là khi văn bản đến địa chỉ liên lạc của bên được đề nghị. Việc có chứng từ giao nhận sẽ giúp xác minh chính xác thời điểm này. - Đề nghị được gửi qua hệ thống thông tin: Với các đề nghị được gửi qua email, mạng xã hội, hoặc các hệ thống thông tin khác, thời điểm đề nghị có hiệu lực là khi thông tin được đưa vào hệ thống của bên được đề nghị. - Các hình thức khác: Trong trường hợp đề nghị được trao đổi trực tiếp hoặc qua điện thoại, thời điểm bên được đề nghị nhận biết được nội dung của đề nghị chính là thời điểm có hiệu lực. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thực hiện có phải bồi thường thiệt hại không?
Trong thực tế, không ít trường hợp một bên đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thực hiện, gây thiệt hại cho bên kia. Vậy, bên đề nghị có phải bồi thường thiệt hại hay không? (1) Đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thực hiện có phải bồi thường thiệt hại không? Hoạt động giao kết hợp đồng là một phần thiết yếu trong nền kinh tế thị trường, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ thương mại và đảm bảo sự an toàn, tin cậy cho các giao dịch. Khoản 1 Điều 386 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng” Như vậy, tuy chưa giao kết hợp đồng, nhưng đã có một lời đề nghị giao kết hợp đồng thì bên đưa ra lời đề nghị đó có trách nhiệm chịu sự ràng buộc lời về đề nghị của mình đối với bên được đề nghị. Ví dụ: A và B muốn giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào thứ hai, do A chưa đủ tiền nên B đề nghị sẽ thực hiện việc chuyển nhượng vào thứ sáu để A có thời gian chuẩn bị tiền, A đồng ý và không ký hợp đồng đặt cọc. Vào thứ ba, B được C trả giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất cao hơn nên đã đồng ý chuyển nhượng cho C. Trong thời gian đó, A đã đi huy động vốn, mượn tiền ngân hàng, người quen và phát sinh lãi, tuy nhiên khi A đủ tiền thì B thông báo đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho C, nên A phải trả tiền lại cho những người cho vay, đóng tiền lãi và mất uy tín, khó vay tiền về sau. Trong trường hợp này, khoản 2 Điều 386 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định như sau: “Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.” Như vậy, theo quy định trên, B phải bồi thường cho A vì A đã có thiệt hại phát sinh trong thời gian chờ ngày giao kết hợp đồng (tiền lãi, uy tín,...) Tuy nhiên, nếu việc giao kết hợp đồng với bên thứ ba của bên đề nghị không gây thiệt hại cho bên được đề nghị thì bên đề nghị không phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại. Việc chứng minh có thiệt hại là trách nhiệm của bên được đề nghị. (2) Trường hợp nào được thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng? Theo quy định tại Điều 389 Bộ Luật Dân sự 2015, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp sau đây: - Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị - Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 388 Bộ Luật Dân sự 2015, các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng: - Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân - Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị - Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác Như vậy, pháp luật cho phép bên đề nghị thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng lúc với thời điểm bên được đề nghị nhận được lời đề nghị đó hoặc khi một sự kiện, điều kiện xảy ra mà bên đề nghị đã có thỏa thuận trước với bên được đề nghị về việc thay đổi, rút lại đề nghị khi có sự kiện, điều kiện đó phát sinh.
[nội dung] Ngày 20/9/2016, Công ty xi măng X gửi công văn có đủ nội dung giao kết hợp đồng và chữ ký giám đốc công ty đến Công ty xây dựng Y để chào hàng với giá 5000 đ/kg và yêu cầu Công ty Y trả lời trước ngày 1/10/2016. Nhận được công văn này, Giám đôc Công ty Y gửi văn bản số 01 trả lời công ty X như sau: "Công ty chúng tôi đồng ý mua xi măng của quý công ty, nhưng mức giá là hơi cao, đề nghị công ty giảm xuống còn 4000 đ/kg. Công ty X nhận được công văn 01 vào ngày 25/9/2016. Một ngày sau khi gửi công văn số 01, Giám đốc Công ty y lại gửi công văn số 02 tới Công ty Y với nội dung: "Chúng tôi đồng ý mua xi măng với mức giá 5000 đ/kg". Công ty X nhận được công văn 02 ngày 30/9/2016. Ngày 1/10/2016, nhân viên công ty Y đến nhận hàng như trong đề nghị nhưng không được nhận hàng vì công ty X đã bán hết số xi măng cho Công ty Z với giá 7000 đ/kg. Công ty Y khởi kiện Công ty X với lý do Công ty X đã không thực hiện hợp đồng. Anh / chị hãy cho ý kiến? Em xin chào các anh / chị. Trên đây là một bài tập trong bộ môn pháp luật em đang học. Với tình huống này, em áp dụng điều 392 Bộ luật Dân sự 2015, việc Công ty Y yêu cầu sửa đổi đề nghị từ phía Công ty tức là công ty Y đưa ra một đề nghị mới và trở thành bên đề nghị. Tuy nhiên sau đó công ty này lại gửi thêm công văn khác tới công ty X, trong khi chưa có phản hồi từ công ty X về đề nghị trước đó. Hơn nữa 2 công văn này đều không nêu được thời hạn trả lời của bên được đề nghị lúc này là công ty X. Do đó, công ty X hoàn toàn có quyền không trả lời và giao kết hợp đồng với công ty Z. Em vẫn cảm thấy lời giải trên chưa thật sự thuyết phục, mong anh chị góp ý thêm cho bài làm chính xác. Em cảm ơn các anh / chị ạ!
Thủ tục cần thực hiện để tiến hành giao kết một hợp đồng thương mại được quy định như thế nào?
Các giai đoạn để tiến hành giao kết/ xác lập một hợp đồng thương mại theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành? Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015). Về nguyên tắc áp dụng, hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng được xác lập (giao kết) theo hai giai đoạn là (i) đề nghị giao kết hợp đồng; và (ii) chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Giai đoạn 1: Đề nghị giao kết hợp đồng Đề nghị giao kết hợp đồng là một hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể, nhằm bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với một hoặc nhiều chủ thể khác theo các điều kiện đã xác định. Theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Nói cách khác, đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên đưa ra ý định muốn thiết lập hợp đồng với các bên còn lại. Đây là bước quan trọng trong quá trình ký kết hợp đồng. Bên đề nghị có thể gửi đề nghị đến một hoặc nhiều chủ thể mà mình mong muốn giao kết. Bên đề nghị cũng có thể quy định thời gian cụ thể mà đề nghị có hiệu lực để bên nhận biết. Trong trường hợp không có quy định rõ về thời gian hiệu lực, đề nghị sẽ có hiệu lực từ thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Các căn cứ xác định bên nhận đã nhận được đề nghị bao gồm: (i) đề nghị được gửi đến nơi cư trú (nếu bên được đề nghị là cá nhân) hoặc trụ sở (nếu là pháp nhân); (ii) đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; hoặc (iii) bên được đề nghị biết được đề nghị thông qua các phương thức khác. Trong thời gian chờ phản hồi từ bên nhận, bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu trong đề nghị đã nêu rõ quyền này hoặc nếu bên nhận nhận được thông báo rút lại trước hoặc cùng lúc với đề nghị. Khi đó, đề nghị sẽ không còn giá trị pháp lý. Đề nghị giao kết hợp đồng sẽ mất hiệu lực trong các trường hợp: (i) bên nhận từ chối đề nghị; (ii) hết thời hạn trả lời; (iii) thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv) thông báo hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; hoặc (v) theo thỏa thuận giữa hai bên trong thời gian chờ phản hồi. Giai đoạn 2: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Để một hợp đồng thương mại được thành lập, bên được đề nghị phải chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị mà bên kia đưa ra. Điều này có nghĩa là không được có bất kỳ sự thay đổi, bổ sung nào so với đề nghị ban đầu. Nếu bên được đề nghị đưa ra điều kiện hoặc sửa đổi, về bản chất, họ đã đưa ra một đề nghị mới. Thời hạn trả lời chấp nhận: Có thời hạn: Nếu bên đề nghị đã đặt ra thời hạn cụ thể để nhận câu trả lời, thì bên được đề nghị phải trả lời trong khoảng thời gian đó. Nếu quá thời hạn, câu trả lời sẽ được coi như một đề nghị mới. Không có thời hạn: Nếu không có thời hạn cụ thể, bên được đề nghị nên trả lời sớm nhất có thể. Tuy nhiên, nếu vì lý do bất khả kháng mà việc trả lời chậm trễ, và bên đề nghị biết hoặc phải biết điều này, thì câu trả lời vẫn có hiệu lực. Giao dịch trực tiếp: Trong trường hợp giao dịch trực tiếp (qua điện thoại, trực tiếp), bên được đề nghị nên trả lời ngay. Nếu có thỏa thuận về thời gian trả lời, bên đề nghị có quyền rút lại đề nghị trước hoặc cùng lúc với thời điểm nhận được câu trả lời. Sự im lặng không phải là sự chấp nhận: Theo nguyên tắc chung, sự im lặng của bên được đề nghị không được hiểu là sự chấp nhận. Để một hợp đồng được thành lập, sự đồng ý của các bên phải được thể hiện một cách rõ ràng, chẳng hạn như bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, nếu có thỏa thuận trước hoặc theo thói quen giao dịch giữa các bên, sự im lặng có thể được coi là sự chấp nhận. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Tìm hiểu quy định pháp luật về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực?
Đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi nào? Những trường hợp được xác định là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng? Thời điểm để một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực pháp luật? Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Điều 386. Đề nghị giao kết hợp đồng 1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị). 2. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”. Kể từ khi đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực, không chỉ bên đề nghị bị ràng buộc bởi nội dung mà họ đưa ra, mà cả hai bên (bên đề nghị và bên được đề nghị) đều phải có trách nhiệm bảo mật và cung cấp thông tin chính xác cho đối phương. Thêm vào đó, theo khoản 2 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015, trong thời gian chờ phản hồi từ bên được đề nghị, bên đề nghị không được phép giao kết hợp đồng với bên thứ ba. Nếu hành động này vi phạm và gây ra thiệt hại, bên đề nghị sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này cho thấy việc đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực dẫn đến nhiều nghĩa vụ pháp lý đối với các bên liên quan. Pháp luật quy định hai cách để xác định thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực: Theo thời điểm do bên đề nghị ấn định: Bên đề nghị có quyền xác định thời điểm đề nghị có hiệu lực, vì đề nghị là sự thể hiện ý chí của một bên mong muốn thiết lập hợp đồng với bên còn lại. Pháp luật không quy định thời hạn cố định, mà trao quyền này cho bên đề nghị để tạo sự linh hoạt trong quá trình đàm phán và ký kết, phù hợp với mục tiêu và lợi ích của họ. Mỗi trường hợp hợp đồng có đặc điểm và mục tiêu khác nhau, vì vậy việc để bên đề nghị tự quyết định thời điểm có hiệu lực giúp tối ưu hóa quá trình giao kết hợp đồng. Kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị: Trong trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực, pháp luật sẽ tính thời điểm có hiệu lực từ lúc bên được đề nghị nhận được đề nghị. Cách xác định này giúp tránh những khó khăn trong việc chứng minh thời điểm bên được đề nghị đã hiểu rõ nội dung đề nghị, bởi điều đó có thể gây ra sự từ chối hoặc tranh cãi. Thời điểm nhận được đề nghị dễ dàng được xác định qua các phương thức giao nhận và tạo điều kiện cho bên được đề nghị truy cập thông tin, đưa ra quyết định về việc ký kết. Quy định này hợp lý và giúp tránh các tranh chấp pháp lý trong quá trình giao kết. Những trường hợp được xác định là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng? Khi bên đề nghị không ấn định thời hạn có hiệu lực của đề nghị, việc xác định thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị trở nên quan trọng. Pháp luật đã quy định rõ ràng các trường hợp sau: - Đề nghị được gửi đến địa chỉ liên lạc: Đối với đề nghị được gửi qua đường bưu điện hoặc chuyển phát nhanh, thời điểm đề nghị có hiệu lực là khi văn bản đến địa chỉ liên lạc của bên được đề nghị. Việc có chứng từ giao nhận sẽ giúp xác minh chính xác thời điểm này. - Đề nghị được gửi qua hệ thống thông tin: Với các đề nghị được gửi qua email, mạng xã hội, hoặc các hệ thống thông tin khác, thời điểm đề nghị có hiệu lực là khi thông tin được đưa vào hệ thống của bên được đề nghị. - Các hình thức khác: Trong trường hợp đề nghị được trao đổi trực tiếp hoặc qua điện thoại, thời điểm bên được đề nghị nhận biết được nội dung của đề nghị chính là thời điểm có hiệu lực. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thực hiện có phải bồi thường thiệt hại không?
Trong thực tế, không ít trường hợp một bên đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thực hiện, gây thiệt hại cho bên kia. Vậy, bên đề nghị có phải bồi thường thiệt hại hay không? (1) Đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thực hiện có phải bồi thường thiệt hại không? Hoạt động giao kết hợp đồng là một phần thiết yếu trong nền kinh tế thị trường, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ thương mại và đảm bảo sự an toàn, tin cậy cho các giao dịch. Khoản 1 Điều 386 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng” Như vậy, tuy chưa giao kết hợp đồng, nhưng đã có một lời đề nghị giao kết hợp đồng thì bên đưa ra lời đề nghị đó có trách nhiệm chịu sự ràng buộc lời về đề nghị của mình đối với bên được đề nghị. Ví dụ: A và B muốn giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào thứ hai, do A chưa đủ tiền nên B đề nghị sẽ thực hiện việc chuyển nhượng vào thứ sáu để A có thời gian chuẩn bị tiền, A đồng ý và không ký hợp đồng đặt cọc. Vào thứ ba, B được C trả giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất cao hơn nên đã đồng ý chuyển nhượng cho C. Trong thời gian đó, A đã đi huy động vốn, mượn tiền ngân hàng, người quen và phát sinh lãi, tuy nhiên khi A đủ tiền thì B thông báo đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho C, nên A phải trả tiền lại cho những người cho vay, đóng tiền lãi và mất uy tín, khó vay tiền về sau. Trong trường hợp này, khoản 2 Điều 386 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định như sau: “Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.” Như vậy, theo quy định trên, B phải bồi thường cho A vì A đã có thiệt hại phát sinh trong thời gian chờ ngày giao kết hợp đồng (tiền lãi, uy tín,...) Tuy nhiên, nếu việc giao kết hợp đồng với bên thứ ba của bên đề nghị không gây thiệt hại cho bên được đề nghị thì bên đề nghị không phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại. Việc chứng minh có thiệt hại là trách nhiệm của bên được đề nghị. (2) Trường hợp nào được thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng? Theo quy định tại Điều 389 Bộ Luật Dân sự 2015, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp sau đây: - Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị - Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 388 Bộ Luật Dân sự 2015, các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng: - Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân - Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị - Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác Như vậy, pháp luật cho phép bên đề nghị thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng lúc với thời điểm bên được đề nghị nhận được lời đề nghị đó hoặc khi một sự kiện, điều kiện xảy ra mà bên đề nghị đã có thỏa thuận trước với bên được đề nghị về việc thay đổi, rút lại đề nghị khi có sự kiện, điều kiện đó phát sinh.
[nội dung] Ngày 20/9/2016, Công ty xi măng X gửi công văn có đủ nội dung giao kết hợp đồng và chữ ký giám đốc công ty đến Công ty xây dựng Y để chào hàng với giá 5000 đ/kg và yêu cầu Công ty Y trả lời trước ngày 1/10/2016. Nhận được công văn này, Giám đôc Công ty Y gửi văn bản số 01 trả lời công ty X như sau: "Công ty chúng tôi đồng ý mua xi măng của quý công ty, nhưng mức giá là hơi cao, đề nghị công ty giảm xuống còn 4000 đ/kg. Công ty X nhận được công văn 01 vào ngày 25/9/2016. Một ngày sau khi gửi công văn số 01, Giám đốc Công ty y lại gửi công văn số 02 tới Công ty Y với nội dung: "Chúng tôi đồng ý mua xi măng với mức giá 5000 đ/kg". Công ty X nhận được công văn 02 ngày 30/9/2016. Ngày 1/10/2016, nhân viên công ty Y đến nhận hàng như trong đề nghị nhưng không được nhận hàng vì công ty X đã bán hết số xi măng cho Công ty Z với giá 7000 đ/kg. Công ty Y khởi kiện Công ty X với lý do Công ty X đã không thực hiện hợp đồng. Anh / chị hãy cho ý kiến? Em xin chào các anh / chị. Trên đây là một bài tập trong bộ môn pháp luật em đang học. Với tình huống này, em áp dụng điều 392 Bộ luật Dân sự 2015, việc Công ty Y yêu cầu sửa đổi đề nghị từ phía Công ty tức là công ty Y đưa ra một đề nghị mới và trở thành bên đề nghị. Tuy nhiên sau đó công ty này lại gửi thêm công văn khác tới công ty X, trong khi chưa có phản hồi từ công ty X về đề nghị trước đó. Hơn nữa 2 công văn này đều không nêu được thời hạn trả lời của bên được đề nghị lúc này là công ty X. Do đó, công ty X hoàn toàn có quyền không trả lời và giao kết hợp đồng với công ty Z. Em vẫn cảm thấy lời giải trên chưa thật sự thuyết phục, mong anh chị góp ý thêm cho bài làm chính xác. Em cảm ơn các anh / chị ạ!