28 hành vi được xem là lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tham nhũng, tiêu cực trong tố tụng, thi hành án
Ngày 27/10/2023 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 132-QĐ/TW năm 2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Theo đó, những hành được xem là hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án bao gồm: (1) Lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, ban hành các văn bản trái chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (2) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, nhiệm vụ, công vụ trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (3) Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý để xảy ra hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (4) Bao che, dung túng, tiếp tay, xử lý không đúng quy định đối với hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (5) Can thiệp, cản trở, tác động trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan, hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán của cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng và các cơ quan chức năng, hoạt động giám sát của cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (6) Chỉ đạo, ép buộc cấp dưới che giấu, không báo cáo, báo cáo sai sự thật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định, quy trình nghiệp vụ dẫn đến sai lệch kết quả thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (7) Cố ý không tiếp nhận, giải quyết hoặc tiếp nhận, giải quyết không đúng quy định của pháp luật đối với nguồn tin về tội phạm, việc khởi kiện giải quyết vụ án hành chính, vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự, việc phá sản, thi hành án. (8) Che giấu, làm sai lệch, sót, lọt nguồn tin về tội phạm hoặc làm sai lệch hồ sơ, tài liệu, tiêu huỷ chứng cứ, vật chứng trái pháp luật. (9) Ban hành quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can hoặc không ban hành quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can trái pháp luật; không truy tố người có tội hoặc truy tố người không có tội hoặc ban hành bản án, quyết định trái pháp luật. (10) Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp tư pháp, thay đổi tội danh, hình phạt, miễn, giảm hình phạt, miễn, giảm trách nhiệm hình sự, dân sự, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án, vụ việc, chuyển vụ án, nhập hoặc tách vụ án trái pháp luật. (11) Nhục hình, bức cung, mớm cung hoặc chỉ đạo, tổ chức thông cung đối với người bị buộc tội; truy ép, gợi ý cho đương sự, người tham gia tố tụng khác cung cấp tài liệu, khai báo, trình bày không khách quan, trung thực. (12) Trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giám định, định giá tài sản không đúng quy định của pháp luật; cố ý né tránh, kéo dài thời gian cung cấp tài liệu theo yêu cầu giám định, định giá hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; kết luận giám định, định giá tài sản không đúng sự thật hoặc từ chối kết luận giám định, định giá tài sản trái pháp luật. (13) Lợi dụng quyền trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu hoặc quyền trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, quyền huỷ án điều tra lại, quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, quyền yêu cầu giải thích bản án để kéo dài quá trình giải quyết vụ án, vụ việc, thi hành án vì vụ lợi. (14) Đề nghị, quyết định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo, xét và đề nghị đặc xá trái pháp luật. (15) Cố ý thi hành án trái nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc không ra quyết định thi hành án, trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án trái pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp khẩn cấp tạm thời, cưỡng chế thi hành án, câu kết, thông đồng với đơn vị thẩm định giá, bán đấu giá tài sản để hạn chế người mua, dìm giá, hạ giá tài sản thi hành án trái pháp luật. (16) Cố ý vi phạm các quy định về niêm phong, mở niêm phong, kê biên tài sản, phong toả tài khoản, về thu giữ, bảo quản, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ, tài sản thi hành án. (17) Cản trở trái pháp luật hoạt động của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; hoạt động tự bào chữa, nhờ người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của bị hại, người được thi hành án, đương sự, người bị buộc tội, người chấp hành án, người phải thi hành án theo quy định của pháp luật. (18) Tư vấn, liên hệ, tiếp xúc, giải quyết không đúng quy định về chế độ thăm, gặp, liên lạc đối với người bị buộc tội, phạm nhân; gây phiền hà, sách nhiễu đối với người bị buộc tội, người chấp hành án, người phải thi hành án, bị hại, người được thi hành án, đương sự hoặc người thân thích của họ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. (19) Lợi dụng công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác để trục lợi hoặc động cơ cá nhân khác; chỉ đạo hoặc cung cấp, tiết lộ thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ án, vụ việc trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. (20) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền để chiếm đoạt tài sản; lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn hoặc giả mạo trong công tác để trục lợi trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (21) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền để áp đặt, hợp thức hoá các hành vi, quyết định trái pháp luật của mình hoặc để giải quyết việc cá nhân mình trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (22) Nhận quà (lợi ích vật chất, phi vật chất) dưới mọi hình thức để làm trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tặng quà (trực tiếp hoặc gián tiếp dưới mọi hình thức) để tác động, gây ảnh hưởng đến người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan làm sai lệch kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (23) Cố ý để người có quan hệ gia đình và người thân thích khác lợi dụng vị trí công tác, chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi hoặc tham gia bào chữa, tư vấn pháp lý trong vụ án, vụ việc mà mình chỉ đạo giải quyết hoặc trực tiếp giải quyết. (24) Cố ý không giải quyết, không thực hiện hoặc giải quyết, thực hiện không đúng quy định hoặc cản trở việc giải quyết đối với các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, yêu cầu trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (25) Tiết lộ thông tin, đe doạ, trả thù, trù dập người kiến nghị, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan thuộc phạm vi được giao quản lý, phụ trách. (26) Đe doạ, trả thù, trù dập, mua chuộc người tố giác tội phạm, người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực liên quan đến bản thân mình hoặc người có quan hệ gia đình trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc, thi hành án. (27) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền trong việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; sử dụng trái pháp luật các thông tin, tài liệu thu thập được từ các biện pháp nghiệp vụ. (28) Các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực khác trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xem thêm Quy định 132-QĐ/TW năm 2023 có hiệu lực từ ngày 27/10/2023.
Bộ Công an triển khai 05 biện pháp phòng ngừa tội phạm giết người
Thời gian gần đây, tình trạng tội phạm giết người với tính chất côn đồ, dã man có những diễn biến phức tạp trên địa bàn các tỉnh, thành trong cả nước. Trước tình hình trên, Trung tướng Tô Ân Xô, Người phát ngôn Bộ Công an đã thông tin về một số giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa những vụ án giết người nghiêm trọng trong thời gian tới như sau: Một số vụ giết người đặc biệt nghiêm trọng gần đây Theo Người phát ngôn Bộ Công an, thời gian qua tại một vài địa phương đã xảy ra một số vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng gây xôn xao dư luận, như: - Vụ Giáp Thị Huyền Trang (sinh năm 1996, quê Bắc Giang) bắt cóc và giết bé gái ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội để đòi tiền chuộc 1,5 tỷ đồng. - Vụ đối tượng Tạ Duy Khanh (sinh năm 1985, quê Thái Bình) sát hại, phân mảnh thi thể nạn nhân phi tang ở sông Hồng. - Vụ nghi phạm Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm 1986, quê Thái Nguyên) sát hại bạn gái tại cửa hàng thời trang ở Bắc Ninh rồi tự tử. - Vụ Giàng A Lư (sinh năm 1995, ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La) dùng dao đâm vợ tử vong. - Vụ Sùng A Sú (sinh năm 1990, ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai) giết vợ rồi tự tử. Xác định tội phạm giết người là loại tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, sự bình yên cuộc sống của nhân dân. Bộ Công an đặc biệt quan tâm triển khai các biện pháp phòng ngừa, để kịp thời ngăn chặn từ sớm, không để xảy ra các vụ thảm án, các vụ án giết người nghiêm trọng; đồng thời triển khai quyết liệt các biện pháp tấn công, truy bắt, xử lý nghiêm minh để tạo sức trấn áp răn đe. 05 biện pháp nâng cao phòng ngừa tội phạm giết người Thời gian tới, để tiếp tục đấu tranh, phòng chống có hiệu quả hơn với tội phạm giết người, Bộ Công an sẽ đẩy mạnh các biện pháp sau: - Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng giáo dục học đường theo hướng cân bằng, coi trọng đồng bộ giữa giáo dục văn hóa và xây dựng nền tảng đạo đức. - Tăng cường năng lực cho lực lượng Công an cấp xã để chủ động nắm tình hình kịp thời, phát hiện, giải quyết sớm các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nhất là mâu thuẫn về tranh chấp đất đai, vay mượn tài sản... Phát huy vai trò các tổ hòa giải, các tổ chính trị - xã hội; không để xảy ra các mâu thuẫn bức xúc, kèo dài dẫn đến giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. - Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đối tượng ở địa bàn dân cư, nhất là người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy tại cộng đồng. Phối hợp các đơn vị chức năng đưa người mắc bệnh tâm thần vào các cơ sở điều trị, phối hợp quản lý chặt chẽ người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. - Phối hợp các ban ngành ở địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, nhất là pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình, phòng, chống bạo lực học đường. Chú trọng truyền thông trên các cổng thông tin đại chúng, trang mạng xã hội, hệ thống thông tin cơ sở; huy động sự tham gia của các doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, người có uy tín trong cộng đồng dân cư... để phối hợp tuyên truyền phòng ngừa tội phạm giết người. - Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý các vụ án giết người, nhất là các vụ án được dư luận xã hội quan tâm, không để tồn đọng các vụ án giết người không rõ thủ phạm. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an
Vụ bán giấy chứng nhận khám bệnh để trục lợi bảo hiểm xử lý thế nào?
Vừa mới đây Công an TP. Biên Hòa (Đồng Nai) vừa mở rộng điều tra và khám xét hàng loạt các phòng khám y tế trên địa bàn. Qua đó, xác minh làm rõ hành vi nhận làm giấy chứng nhận không đủ điều kiện để nghỉ việc hưởng BHXH. Theo thông tin từ Công an thành phố cho biết chuyên án có quy mô rất lớn, ước lượng có vài chục ngàn người mua giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội để trục lợi bảo hiểm xã hội lên đến hàng trăm tỉ đồng. 1. Cơ sở khám bệnh làm giả giấy khám bệnh bị xử lý ra sao? Căn Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức sẽ bị xử lý như sau: Khung thứ nhất: Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng - 02 năm. Khung thứ hai: Bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm - Có tổ chức. - Phạm tội 02 lần trở lên. - Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác. - Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. - Thu lợi bất chính từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. - Tái phạm nguy hiểm. Khung thứ ba: Bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm - Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên. - Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. 2. Phạm tội trục lợi BHXH có thể bị xử lý bao nhiêu năm tù? Bên cạnh việc cơ sở khám bệnh này làm giả giấy tờ thì còn phạm tội trục lợi BHXH cho người lao động nghỉ việc theo đó, tại Điều 214 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội gian lận BHXH, BHTN như sau: Khung 1: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 20 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, thì bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng - 02 năm: - Lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ BHXH, hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp lừa dối cơ quan BHXH. - Dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội hưởng các chế độ BHXH, BHTN. Khung 2: Bị phạt tiền từ 100 triệu đồng - 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm - 05 năm - Có tổ chức. - Có tính chất chuyên nghiệp. - Chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN từ 100 triệu đồng - dưới 500 triệu đồng. - Gây thiệt hại từ 200 triệu đồng - dưới 500 triệu đồng. - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. - Tái phạm nguy hiểm. Khung 3: Bị phạt tù từ 05 năm - 10 năm - Chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN 500 triệu đồng trở lên. - Gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, trường hợp cơ sở khám chữa bệnh làm giả giấy khám bệnh để trục lợi BHXH cho NLĐ thì người thực hiện có thể đối mặt với 2 tội hình sự với tội làm giả giấy khám bệnh cao nhất lên đến 7 năm tù và trục lợi BHXH cao nhất là 10 năm tù.
Việc nhận biết giọng nói trong tố tụng hình sự được thực hiện như thế nào?
Nhận biết giọng nói là hoạt động điều tra viên tiến hành khi cần xác nhận người qua giọng nói của họ, được quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. 1. Nhận biết giọng nói là gì? Nhận biết giọng nói là việc tổ chức cho một người nghe để xác nhận một giọng nói hiện tại với một giọng nói mà họ đã biết trước đây trong mối quan hệ với sự kiện trong điều tra, nhằm xác định xem có phải là đồng nhất hay không. Để việc nhận biết giọng nói được chính xác, khách quan, số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau. Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Việc nhận biết giọng nói phải có sự tham gia của giám định viên về âm thanh; người được yêu cầu nhận biết giọng nói; người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm; người chứng kiến. Nếu người được yêu cầu nhận biết giọng nói là người làm chứng, bị hại thì trước khi tiến hành, điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích này phải ghi vào biên bản. Để có tài liệu đối chiếu, điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói. Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó. Việc nhận biết giọng nói phải lập biên bản theo thủ tục chung. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khoẻ của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thực hiện nhận biết giọng nói. 2. Khi nào cần tiến hành nhận biết giọng nói? Nhận biết giọng nói là hoạt động điều tra viên tiến hành khi cần xác định người qua giọng nói của họ. Khoản 1 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về trường hợp Điều tra viên có thể tiến hành nhận biết giọng nói, cụ thể như sau: Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau. Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Như vậy, trong quá trình điều tra, nếu nhận thấy có sự cần thiết Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. 3. Những người nào phải tham gia việc nhận biết giọng nói? Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì phải ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì ngoài việc phải có Kiểm sát viên có mặt để thực hiện việc kiểm sát quy trình nhận biết giọng nói thì quy trình nhận biết giọng nói cần phải có mặt của những người sau: - Giám định viên về âm thanh - Người được yêu cầu nhận biết giọng nói - Người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp nhận biết giọng nói được thực hiện qua các phương tiện ghi âm - Người chứng kiến. Nhận biết giọng nói là thủ tục áp dụng biện pháp điều tra hình sự nhằm mục đích thực hiện việc thu thập, bổ sung tài liệu, chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm thông qua việc tiến hành nhận biết giọng nói.
Cần cung cấp tài liệu gì khi điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại?
Liên quan đến việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, Điều 8 Thông tư 37/2019/TT-BTC quy định cụ thể các loại thông tin, tài liệu mà Cơ quan điều tra có nghĩa vụ cung cấp bản công khai khi các bên liên quan có yêu cầu bao gồm: "Điều 8. Các loại thông tin công khai trong vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại Trong trường hợp các bên liên quan có yêu cầu, Cơ quan điều tra cung cấp bản công khai của các loại thông tin, tài liệu sau đây: 1. Hồ sơ yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại do Bên yêu cầu cung cấp và các phụ lục kèm theo; 2. Tài liệu do bên liên quan cung cấp để đăng ký tham gia vụ việc; 3. Bản trả lời câu hỏi và bản trả lời câu hỏi bổ sung do bên liên quan cung cấp trong quá trình điều tra vụ việc; 4. Tài liệu do bên liên quan cung cấp cho Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm: những tài liệu để tổ chức các buổi tham vấn; các ý kiến đối với Hồ sơ yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại do bên liên quan cung cấp; 5. Biên bản họp hoặc bản tóm tắt phiên tham vấn công khai liên quan đến vụ việc điều tra do Cơ quan điều tra lập; 6. Các thông báo của Cơ quan điều tra và Bộ Công Thương, bao gồm thông báo về nhận Hồ sơ yêu cầu điều tra, rà soát áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, kết luận sơ bộ, kết luận cuối cùng, đơn đăng ký bên liên quan và gửi bản câu hỏi, phiên tham vấn công khai, giới hạn phạm vi điều tra mẫu, chấp thuận hoặc không chấp thuận đề xuất cam kết; 7. Các thông tin khác liên quan đến vụ việc điều tra phòng vệ thương mại do Cơ quan điều tra xem xét công khai trong quá trình điều tra." Có thể thấy, pháp luật hiện hành có những quy định cụ thể trong việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhằm đảm bảo cho công tác quản lý thương mại được thực hiện một cách có hiệu quả.
Hướng dẫn liên ngành về quá trình giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ và tạm dừng giải quyết
Giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, tạm dừng giải quyết - Minh họa Ngày 18/5/2021, Văn phòng cơ quan CSĐT Bộ Công an và Vụ Thực hành quyền công tố & Kiểm sát điều tra án ma túy thuộc VKSNDTC ra Hướng dẫn 2010/HDLN v/v giải đáp vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, vụ việc tạm dừng giải quyết. Một số nội dung đáng chú ý được giải đáp: *Về các vướng mắc trong việc giải quyết vụ việc tạm đình chỉ, tạm dừng giải quyết (1) Đề nghị hướng dẫ giải quyết đối với những tố giác, tin báo về tội phạm đã tạm dừng giải quyết theo Quy trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong CAND ban hành kèm theo Quyết định 1319/QĐ-BCA-C41 ngày 20/3/2015 của Bộ trường BCA. Giải đáp: Khoản 6 Điều 5 Thông tư liên tịch 01/2020/TTLT quy định cụ thể: “Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã tạm dừng giải quyết trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì cơ quan có thẩm quyền điều tra, chủ động trao đổi, thống nhất bằng văn bản với Viện kiểm sát rà soát, phân loại, xử lý như sau: a) Đối với những vụ việc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự b) Đối với những vụ việc còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố”. Như vậy, những vụ việc đã tạm dừng giải quyết theo Quyết định 1319/QĐ-BCA-C41, Cơ quan điều tra cần chủ động trao đổi, thống nhất bằng văn bản với Viện kiểm sát. Đối với vụ việc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ việc còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì Cơ quan điều tra phối hợp với Viện kiểm sát cùng cấp tiến hành rà soát lại căn cứ tạm dừng giải quyết và xử lý như sau: + Những vụ việc có căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ và tiến hành quản lý, theo dõi theo quy định của Thông tư liên tịch 012020/TTLT. + Những vụ việc không có căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra ra Quyết định phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thời hạn giải quyết được tính từ thời điểm ra Quyết định phục hồi. Việc ra Quyết định phân công mới chỉ đặt ra khi những người được phân công trước đây không thể tiếp tục giải quyết (nghỉ hưu, thay đổi vị trí công tác...). (2) Thực tiễn một số tố giác, tin báo về tội phạm hết thời hạn giải quyết nhưng Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để ra Quyết định khởi tố hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cũng không có căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết theo khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự như: người tố giác không đồng ý đi giám định thương tích; người tố giác, người bị tố giác không chấp hành giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, bỏ đi khỏi địa phương... Đề nghị hướng dẫn việc áp dụng căn cứ pháp luật trong Quyết định tạm đình chỉ đối với các tố giác, tin báo về tội phạm tạm đình chỉ việc giải quyết theo Quy định tại điểm b khoản 3 Điều 16 Thông tư 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 của Bộ Công an quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân (trường hợp hết thời hạn giải quyết mà chưa đủ căn cứ để ra một trong ba quyết định khởi tố, không khởi tố hoặc tạm đình chi). Một số trường hợp Viện kiểm sát không đồng ý với quan điểm của Cơ quan điều tra do đây là Thông tư của Bộ Công an, không phải Thông tư liên tịch của liên ngành. Giải đáp: Trường hợp người bị tố giác không ở nơi cư trú, không biết họ ở đâu thì cần có văn bản thông báo truy tìm để phát hiện và triệu tập, lấy lời khai làm rõ những vấn đề có liên quan đến nội dung tố giác. Điều tra viên tiến hành các hoạt động thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật; áp dụng biện pháp cưỡng chế dẫn giải Người làm chứng, Người bị hại, Người bị tố giác theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự, tinh thần chung là phải quyết liệt trong giải quyết vụ việc. Điểm b khoản 3 Điều 16 Thông tư 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân quy định: Trường hợp hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng chưa đủ căn cứ để ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, mà cũng không có những căn cứ để tạm đình chỉ việc giải quyết thì bảo cáo lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp để đề xuất Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có văn bản trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để thống nhất quan điểm giải quyết. Về nguyên tắc, trường hợp hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng chưa đủ căn cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết thì phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo nguyên tắc có lợi cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, trong thực tiễn một số trường hợp nhạy cảm về chính trị, xã hội, nếu ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự ngay sẽ có phản ứng trong dư luận. Trong trường hợp này, liên ngành tố tụng cùng cấp thụ lý giải quyết vụ việc cần họp bàn thống nhất hướng xử lý, nhưng vẫn phải đảm bảo việc tạm đình chỉ phải có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. (Còn nữa) *Ngoài ra Hướng dẫn 2010/HDLN còn giải đáp các vướng mắc trong việc giải quyết vụ án tạm đình chỉ và liên quan đến vụ việc, vụ án tạm đình chỉ. Tải và xem chi tiết văn bản tại file đính kèm.
[CÔNG ĐIỆN HỎA TỐC] Điều tra, xử lý 2 trường hợp nhiễm Covid-19 tại Đà Nẵng, Đắk Lắk
Điều tra, xử lý 2 ca Covid-19 tại Đà Nẵng, Đắk Lắk - Minh họa Ngày 9/5/2021, hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm Việt Nam ghi nhận 2 trường hợp mắc Covid-19 tại Đắk Lắk, trước đó các bệnh nhân này trở về từ Đà Nẵng. Bộ Y tế sau đó ban hành Công điện hỏa tốc 624/CĐ-BYT cho UBND 2 tỉnh này về việc điều tra, xử lý đối với trường hợp nhiễm SARS-CoV-2, chỉ đạo 6 nội dung sau đây: 1. Tiếp tục mở rộng điều tra dịch tễ, lập danh sách tất cả những người tiếp xúc gần và có liên quan với bệnh nhân, thực hiện thần tốc truy vết, cách ly y tế. Lấy mẫu xét nghiệm diện rộng (bao gồm: người thân, bạn bè, người tiếp xúc gần...) để tiến hành xét nghiệm khẳng định. 2. Tổ chức giám sát chặt chẽ hàng ngày tình hình sức khỏe và tổ chức cách ly y tế, lấy mẫu xét nghiệm theo quy định đối với tất cả trường hợp tiếp xúc gần và có liên quan với bệnh nhân, nếu phát hiện bất kỳ trường hợp nào có biểu hiện sốt, ho, hắt hơi, sổ mũi, mệt mỏi, ớn lạnh hoặc khó thở thì lập tức cho cách ly ngay tại cơ sở y tế và lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm. 3. Tiến hành ngay việc xử lý, phun khử trùng triệt để môi trường tại nơi bệnh nhân thường trú; các địa điểm bệnh nhân đã từng đến, ở, làm việc; các phương tiện vận chuyển và các khu vực có liên quan khác theo đúng quy định tại hướng dẫn giám sát và phòng, chống dịch COVID-19. 4. Tăng cường rà soát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy trình, quy định về nhập cảnh, giám sát cách ly y tế, xét nghiệm phòng chống dịch COVID-19, tuyệt đối không đểây lan trong khu vực cách ly, lây ra cộng đồng. 5. Thực hiện đúng chế độ về thông tin, báo cáo bệnh truyền nhiễm theo quy định. 6. Chỉ đạo Sở Y tế báo cáo hàng ngày kết quả giám sát, điều tra, phòng chống dịch COVID-19 về Bộ Y tế theo quy định. Chi tiết Công văn tại file đính kèm dưới đây.
Nhìn lại 2020: 3 vụ rơi lầu đặc biệt dân luật chắc chắn chưa quên!
Mới đây, lại thêm một vụ án nạn nhân rơi từ lầu cao xuống tử vong, lần này là một Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự ở Quận 8. Nhìn lại năm 2020, có ba vụ án cũng liên quan đến những cái chết từ trên cao, nhưng nội dung lại làm dân luật phải xôn xao bàn tán! 1. Vụ án Lương Hữu Phước Ông Lương Hữu Phước tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước Đây là một trong những vụ án tốn nhiều giấy mực của các nhà báo nhất năm vừa qua, bắt nguồn từ sự việc bị cáo Lương Hữu Phước tự tử sau khi bị tuyên án 3 năm tù giam về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Nội dung vụ án này được tóm lược như sau: Một ngày đầu năm 2017, ông Phước điều khiển xe máy chở ông Trần Hữu Quý, khi sang đường thì va chạm với anh Lâm Tươi, vụ tai nạn khiến ông Quý tử vong sau đó. Lần sơ thẩm đầu tiên, Tòa tuyên ông Phước 3 năm tù, ông kháng cáo được, được Tòa Phúc thẩm chấp nhận đơn, hủy án sơ thẩm điều tra lại Lần sơ thẩm thứ 2, Tòa vẫn tuyên 3 năm tù, ông lại kháng cáo nhưng ở lần xét xử Phúc thẩm sáng ngày 29/5/2020, Tòa tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm. Chiều cùng ngày ông đến TAND nhảy lầu tự tự. Ngày 12/6/2020, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP. HCM mở phiên giám đốc thẩm xem xét lại vụ án của ông, tuyên hủy án sơ thẩm, phúc thẩm, điều tra lại từ đầu. Quyết định đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ bị can đối với ông Phước được thượng tá Vũ Văn Hải (Phó thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Đồng Xoài) ký ngày 2/12 với lý do "thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết". Được biết, cuộc đời của ông Phước là một chuỗi những bi kịch. Con gái đầu tiên của ông mất năm 13 tuổi vì bị người khác hiếp, giết, ông phải bỏ xứ đi nơi khác. Sau này gia đình ông tích cóp nhiều năm để có tiền mua đất thì lại bị thu hồi giải tỏa, và cuối cùng là vụ việc ông và người bạn thân gặp tai nạn, bị thương nặng và ông trở thành bị cáo. 2. Vụ án Tiến sĩ – Luật sư Bùi Quang Tín rơi từ tầng 14 tử vong Tiến sĩ, Luật sư Bùi Quang Tín Vụ án này được tóm lược lại như sau: Ngày 5/4, ông Trần Việt Dũng (Viện trưởng Viện đào tạo Quốc tế - Trường Đại học Ngân Hàng TPHCM) mời ông Tín và một số đồng nghiệp công tác tại Đại học Ngân hàng đến nhà riêng tại chung cư New Sài Gòn ăn trưa. Trong số những người đến nhậu, có 6 người ra về trước, chỉ còn ông Tín và ông Nguyễn Đức Trung, sau đó ông Dũng đã đi ra ngoài có việc trước, để hai người bạn nằm nghỉ lại nhà mình. Trong lúc ngủ, ông Trung thấy ông Tín tự đi ra ngoài nên đi theo và ngăn không cho ông Tín tự đi về, tuy nhiên ông Tín đã ra đến thang máy và cương quyết rời khỏi chung cư. Khi ông Trung đang quay lại phòng thì nghe thấy tiếng động, tuy nhiên ông không nhìn thấy bạn mình đâu và cũng không thấy ở dưới lan can giếng trời có gì khả nghi. Tuy nhiên, lúc 17 giờ 36 cùng ngày (lúc này ông Dũng trở về chung cư), ông Trung và ông Dũng phát hiện thi thể Luật sư Bùi Quang Tín ở tầng trệt, đã chết. Qua khám nghiệm, kiểm tra hiện trường và lời khai nhân chứng nhìn thấy ông Tín trèo qua lan can giếng trời tầng 14 và rơi xuống. Điều này cũng phù hợp với dấu vết AND của ông Tín tồn tại ở lan can giếng trời ở gần thang máy tầng 14, Block D2. Kết quả giám định pháp y cũng thể hiện nguyên nhân tử vong của ông Tín là do đa chấn thương. Nạn nhân có nồng độ cồn trong máu là 221mg/100ml, không có độc chất. Qua đó, Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM xác định, nguyên nhân tử vong là do ông Bùi Quang Tín tự rơi từ tầng 14 xuống sân giếng trời khu vực Block D2 Chung cư New Sài Gòn. Vụ việc không có dấu hiệu tội phạm. Căn cứ khoản 1, Điều 157 Bộ Luật Tố tụng hình sự, Cơ quan này ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thông báo được gửi đến các cơ quan chức năng và những người liên quan. Ngày 7-9, VKSND TP HCM cho biết đã có kết luận kiểm sát Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. 3. Nữ luật sư nghi nhảy lầu do trầm cảm Hiện trường nơi nữ luật sư tự tử Ngày 15/11/2020, báo chí đồng loạt đưa tin một nữ luật sư rơi từ tầng cao chung cư Sunview Town, quận Thủ Đức Tp. HCM xuống đất tử vong. Qua công tác khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai các nhân chứng và người thân, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, TP.HCM đã đưa ra nhận định ban đầu về vụ việc. Công tác khám nghiệm hiện trường cho thấy, căn hộ nữ Luật sư tại tầng 18, Block A2 của chung cư không có dấu hiệu bất thường. Tại khu vực cửa sổ phòng ngủ có ghế sắt nên xác định bà T. rơi từ khu vực cửa sổ này. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tìm thấy sổ khám bệnh với bệnh lý rối loạn giấc ngủ. Đồng thời, qua trích camera, lấy lời khai các nhân chứng, Cơ quan điều tra đã đưa ra nhận định ban đầu là bà T. có dấu hiệu trầm cảm, nhảy lầu tự tử. Theo bạn bè bà T., bà T. đã được gia đình phát hiện trầm cảm từ ít ngày trước đó nên nhờ người tới chăm sóc. Tuy nhiên, trưa ngày xảy ra vụ việc bà T. nói với người chăm sóc rằng mình vào phòng để thay đồ, sau đó thì xảy ra vụ việc trên. Ngoài ra, không biết còn vụ án nào mà mình liệt kê thiếu không nhỉ?
Hướng dẫn 10/HD-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố xét xử sơ thẩm án an ninh năm 2021
Hướng dẫn 10/HD-VKSTC Ngày 12/11/2021 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành Hướng dẫn 10/HD-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm an ninh năm 2021. Theo đó, VKSNDTC hướng dẫn một số nội dung trọng tâm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm (THQCT, KSĐT và KSXXST) các vụ án do Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) thụ lý điều tra cụ thể Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm như sau: - Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 và Chỉ thị 05/CT-VKSTC ngày 27/4/2020 của Viện trưởng Viện KSND tối cao. Chỉ đạo các đơn vị áp dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu nghiệp vụ của Ngành, của Quốc hội giao. - Đề cao trách nhiệm, bám sát, nắm chắc quá trình điều tra; chủ động, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra đúng hướng, toàn diện, bảo đảm các quyết định, phê chuẩn của VKS có căn cứ, đúng pháp luật. Phối hợp với Cơ quan ANĐT đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, các vụ án nhạy cảm về chính trị được dư luận xã hội quan tâm. - Kiểm sát viên phải xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, trường hợp vụ án có nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên tham gia, phải phân công nhiệm vụ cụ thể, dự kiến các hoạt động của VKS tác động đến hoạt động điều tra và thời gian thực hiện. - Thực hiện nghiêm quy định tại khoản 5, Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2015, yêu cầu CQĐT chuyển đầy đủ, đúng thời hạn các tài liệu điều tra cho VKS; Kiểm sát viên phải nghiêm túc thực hiện việc đóng dấu bút lục, sao lưu các tài liệu đó theo đúng quy định. Chủ động thực hiện các hoạt động số hóa hồ sơ vụ án. - Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015; không để xảy ra việc lạm dụng biện pháp bắt, giam, giữ. Quản lý chặt chẽ thời hạn điều tra, truy tố, tạm giữ, tạm giam; không để xảy ra việc quá hạn hoặc tạm giữ, tạm giam không có lệnh; tuyệt đối không để xảy ra vi phạm Điều 377 BLHS. - Quá trình giải quyết vụ án, phải làm rõ hành vi, động cơ, mục đích phạm tội; thế lực đứng sau chỉ đạo, cung cấp tiền, phương tiện; chủ động yêu cầu giám định tài liệu, thu thập chứng cứ vật chất (tài liệu, dữ liệu điện tử,...) để chứng minh tội phạm; nghiên cứu kỹ hồ sơ, thống nhất việc khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn (diện, đối tượng,...). - Đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài, cần phối hợp, yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện đúng những quy định tại các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, các quy định của pháp luật Việt Nam về việc giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, không để xảy ra sai sót, vi phạm dẫn đến khiếu kiện Nhà nước Việt Nam. - Truy tố đúng thời hạn, tội danh, khung hình phạt; tránh truy tố oan, sai, bỏ lọt tội phạm; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố đúng pháp luật, không để xảy ra sai sót dẫn đến xâm phạm quyền con người, quyền công dân, nhất là với các đối tượng có nhân thân đặc biệt (người nước ngoài, nhân sỹ, trí thức, chức sắc tôn giáo,...). - Việc xây dựng cáo trạng, văn bản pháp lý khác trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia cần viết ngắn gọn, tránh phân tích dài dòng, hạn chế trích dẫn nguyên văn các nội dung của kết luận giám định, nội dung tài liệu bí mật Nhà nước, tránh việc các đối tượng lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc tại phiên tòa. Thực hiện sơ đồ hóa hành vi phạm tội trong các vụ án nhiều nội dung, nhiều bị can để xây dựng cáo trạng chất lượng hơn. - Tăng cường chỉ đạo công tác THQCT, KSXX sơ thẩm vụ án. Kiểm sát viên được phân công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, quy trình nghiệp vụ; chuẩn bị kỹ dự thảo luận tội, đề cương thẩm vấn, dự kiến tình huống tranh tụng tại phiên tòa xem xét thực hiện việc công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa (nếu thấy phù hợp). Khi xét xử các vụ án về an ninh, Viện kiểm sát chủ động phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án để chuẩn bị tốt Kế hoạch xét xử, lựa chọn thời điểm xét xử, hình thức xử kín hay công khai để đáp ứng yêu cầu pháp luật và chính trị. - Đối với các vụ án do Vụ 1 VKSND tối cao phân công Viện kiểm sát cấp dưới THQCT và KSXX sơ thẩm, phải thực hiện đúng Quyết định số 314/QĐ-VKSTC ngày 05/7/2018 của VKSND tối cao ban hành Quy chế phối hợp giữa VKS cấp trên và VKS cấp dưới trong việc giải quyết vụ án hình sự do VKS cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và truy tố, phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm. - Quản lý và kiểm sát chặt chẽ các vụ án, bị can đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh phải quản lý chặt chẽ, đánh giá từng vụ án, bị can đình chỉ điều tra do không phạm tội, đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự. Phối hợp Điều tra viên xác minh căn cứ tạm đình chỉ, nếu đủ căn cứ phải yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi ngay theo Thông tư liên tịch 01/2020. - Tăng cường kiến nghị khắc phục vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Kiến nghị phòng ngừa thiếu sót sơ hở trong quản lý nhà nước làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an toàn xã hội, những lĩnh vực dễ phát sinh tội phạm tham nhũng. Xem chi tiết tại:
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự: Áp dụng khi nào?
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Tố tụng Hình sự - Ảnh minh họa Khác với quy định trước đây về Thủ tục rút gọn, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS) quy định thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục này dành cho cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Vậy trong những trường hợp nào thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng? Trước tiên cần nắm được phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 455 BLTTHS: Điều 455. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này. Như vậy có thể thấy thủ tục rút gọn có thể được áp dụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và đặc biệt là cả với xét xử phúc thẩm. Đối với các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm, thủ tục rút gọn được ra quyết định thi hành khi có các căn cứ tại Khoản 1 Điều 456 BLTTHS: 1. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện: a) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; b) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; c) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; d) Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Trong những căn cứ nêu trên, tình tiết “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” được hiểu là những sự việc mà vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp và dễ xác định, vụ án ít bị cáo, các chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ từ đầu. Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm, căn cứ áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Khoản 2 Điều 456 như sau: 2. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện: a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy nêu trên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định này bị hủy bỏ trong trường hợp căn cứ áp dụng Thủ tục rút gọn tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ông Nguyễn Đức Chung liên quan 3 vụ án đang điều tra
Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung. Ảnh: ZING Ông Nguyễn Đức Chung được xác định liên quan đến 3 vụ án mà cơ quan công an đang điều tra. Chiều tối 11-8, Thiếu tướng Tô Ân Xô, Chánh văn phòng Bộ Công an, cho biết Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung được xác định liên quan đến ba vụ án mà cơ quan công an đang điều tra. Theo đó, thứ nhất là vụ buôn lậu, vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, rửa tiền, vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Kỹ thuật Nhật Cường (Công ty Nhật Cường), Sở KH&ĐT Hà Nội và một số đơn vị liên quan. Thứ hai là vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí, xảy ra tại TP Hà Nội. Thứ ba là vụ án chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước vừa được Cơ quan ANĐT Bộ Công an khởi tố mới đây. Trước đó, Bộ Chính trị quyết định đình chỉ sinh hoạt Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội và đình chỉ chức vụ Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đối với ông Nguyễn Đức Chung, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hà Nội để xác minh, điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan của ông Nguyễn Đức Chung trong một số vụ án theo quy định của pháp luật. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tạm đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Đức Chung. Theo quyết định, Thủ tướng tạm đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND TP Hà Nội để xác minh, điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan của ông Nguyễn Đức Chung trong một số vụ án theo quy định của pháp luật. Thời hạn tạm đình chỉ công tác là 90 ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ công tác. Theo PLO
Thẩm quyền điều tra trong hình sự khi quân nhân nghỉ hưu
Tại khoản 4 Điều 40 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 thì quy định đối với sự việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền Điều tra thì cơ quan Điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các hoạt động Điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này; khi đã xác định được thẩm quyền Điều tra thì chuyển vụ án cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại khoản 2 Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thẩm quyền điều tra: - Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. - Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002 thì các Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là: “1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; 2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.” Thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự được hướng dẫn cụ thể thêm tại Mục I Thông tư liên tịch01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA . Như vậy,để biết được cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền điều tra hay không phải căn cứ vào vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự hay không. Trong trường hợp khi quân nhân về hưu sẽ không là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002 nhưng khi hành vi phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội thì vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự và cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền điều tra.
Đình chỉ công tác để điều tra có đóng BH không?
Câu hỏi: Người lao động bị tạm đình chỉ công tác để điều tra có đóng bảo hiểm không? Câu trả lời: Khoản 7 Điều 42 Quyết định 595/2017/QĐ-BHXH có quy định: "Điều 42. Quản lý đối tượng ... 7. Người lao động mà bị tạm giam, tạm giữ hoặc tạm đình chỉ công tác để điều tra, xem xét kết luận có vi phạm hay không vi phạm pháp luật thì người lao động và đơn vị được tạm dừng đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN nhưng vẫn phải đóng BHYT hằng tháng bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng mà người lao động được hưởng theo quy định của pháp luật. Sau thời gian tạm giam, tạm giữ hoặc tạm đình chỉ công tác nếu được cơ quan có thẩm quyền xác định bị oan, sai, không vi phạm pháp luật thì thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN trên tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc và truy đóng BHYT trên số tiền lương được truy lĩnh, không tính lãi đối với số tiền truy đóng; trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định người lao động là có tội thì không thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN và không phải truy đóng BHYT cho thời gian bị tạm giam". Như vậy, theo quy định trên người lao động bị tạm đình chỉ công tác để điều tra, xem xét có vi phạm pháp luật hay không thì người lao động và đơn vị được tạm dừng đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN nhưng vẫn phải đóng BHYT hằng tháng bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng mà người lao động được hưởng theo quy định của pháp luật. Sau thời gian tạm đình chỉ công tác nếu được xác định bị oan, sai, không vi phạm pháp luật thì thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN trên tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc và truy đóng BHYT trên số tiền lương được truy lĩnh, không tính lãi đối với số tiền truy đóng. Còn trường hợp xác định người lao động là có tội thì không thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN và không phải truy đóng BHYT cho thời gian bị tạm giam.
Đang trong thời gian điều tra, truy tố công chức có hưởng lương?
· Về vấn đề hưởng lương: Căn cứ Điều 24 Nghị định 34/2011/NĐ-CP: “Chế độ, chính sách đối với công chức đang trong thời gian tạm giữ, tạm giam và tạm đình chỉ công tác” “1. Trong thời gian tạm giữ, tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc tạm đình chỉ công tác để xem xét xử lý kỷ luật thì công chức được hưởng 50% của mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng, cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề và hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có).” · Vấn đề tham gia BHXH, BHYT, BHTN Theo nội dung được hướng dẫn của công văn 4407/BHXH-BT về việc hướng dẫn giải quyết vướng mắc về thu BHXH, BHYT thì: Công chức đang trong thời gian tạm giam, tạm giữ để điều tra truy tố hoặc tạm đình chỉ công tác để xem xét xử lý kỷ luật thì vẫn phải đóng BHXH. Công chức thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, đóng đủ mức đóng BHXH theo quy định của pháp luật (mức đóng tính theo mức lương theo ngạch bậc và tỷ lệ % đóng BHXH theo quy định). Trường hợp công chức, viên chức bị Tòa án kết án phạt tù giam, hoặc buộc thôi việc, không được truy lĩnh 50% còn lại của mức lương theo ngạch bậc, thì cơ quan BHXH hoàn trả số tiền đã thu BHXH cho đơn vị sử dụng lao động đối với thời gian công chức, viên chức bị tạm giữ, tạm giam, hoặc tạm đình chỉ công tác và không được tính là thời gian tham gia BHXH.
Khai báo, điều tra tai nạn lao động
Chào mọi người! Chào Luật sư! Công ty tôi có rất nhiều nhà thầu thực hiện dịch vụ trong nhà máy : - Nhà thầu thuê mặt bằng trong công ty tôi và thực hiện công việc tại đó. Máy móc con người là của nhà thầu ( nhà thầu thường trú ) - Nhà thầu thực hiện công việc sửa chữa , bảo dưỡng , lắp đặt , vệ sinh công nghiệp , nấu ăn ... tại công ty tôi. Khi xảy ra tai nạn lao động thì khai báo , điều tra tai nạn lao động thuộc trách nhiệm của bên nào ? Công ty tôi hay nhà thầu trong 2 trường hợp trên . Mong cộng đồng dân luật trả lời giúp . Xin trân thành cảm ơn !
Vào 20h ngày 20/6, chị T.P.T.L. (SN 1983, ngụ huyện Tân Thạnh) bị một thanh niên là Huỳnh Lý A. (SN 1990, ngụ huyện Tân Thạnh) đột nhập vào nhà và khống chế để hiếp dâm. Vì để bảo vệ 2 đứa con gái của mình ( đứa lớn 7 tuổi và đứa nhỏ chỉ mới 1 tuổi) chị đã đành chịu đựng để tên A. giao cấu với mình. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian chờ đợi, bị gọi lên cơ quan điều tra để tường trình sự việc thì kết luận của cơ quan điều tra lại là "A. không phạm tội hiếp dâm vì không có sự việc phạm tội tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự"! Qúa bức xúc về kết quả điều tra này, chị L. đã làm đơn để xin được đi tù "càng lâu càng tốt"!!! Mình xin dẫn điều luật để các bạn tham khảo: "Điều 111. Tội hiếp dâm 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm." Như vậy, theo mọi người, ở sự việc trên, A. có vi phạm hay không? Có phải tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ Luật hình sự nêu trên hay không? Và cơ sở nào để Cơ quan điều tra ra quyết định như vậy?
28 hành vi được xem là lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tham nhũng, tiêu cực trong tố tụng, thi hành án
Ngày 27/10/2023 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 132-QĐ/TW năm 2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Theo đó, những hành được xem là hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án bao gồm: (1) Lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, ban hành các văn bản trái chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (2) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, nhiệm vụ, công vụ trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (3) Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý để xảy ra hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (4) Bao che, dung túng, tiếp tay, xử lý không đúng quy định đối với hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (5) Can thiệp, cản trở, tác động trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan, hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán của cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng và các cơ quan chức năng, hoạt động giám sát của cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (6) Chỉ đạo, ép buộc cấp dưới che giấu, không báo cáo, báo cáo sai sự thật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định, quy trình nghiệp vụ dẫn đến sai lệch kết quả thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (7) Cố ý không tiếp nhận, giải quyết hoặc tiếp nhận, giải quyết không đúng quy định của pháp luật đối với nguồn tin về tội phạm, việc khởi kiện giải quyết vụ án hành chính, vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự, việc phá sản, thi hành án. (8) Che giấu, làm sai lệch, sót, lọt nguồn tin về tội phạm hoặc làm sai lệch hồ sơ, tài liệu, tiêu huỷ chứng cứ, vật chứng trái pháp luật. (9) Ban hành quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can hoặc không ban hành quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can trái pháp luật; không truy tố người có tội hoặc truy tố người không có tội hoặc ban hành bản án, quyết định trái pháp luật. (10) Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp tư pháp, thay đổi tội danh, hình phạt, miễn, giảm hình phạt, miễn, giảm trách nhiệm hình sự, dân sự, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án, vụ việc, chuyển vụ án, nhập hoặc tách vụ án trái pháp luật. (11) Nhục hình, bức cung, mớm cung hoặc chỉ đạo, tổ chức thông cung đối với người bị buộc tội; truy ép, gợi ý cho đương sự, người tham gia tố tụng khác cung cấp tài liệu, khai báo, trình bày không khách quan, trung thực. (12) Trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giám định, định giá tài sản không đúng quy định của pháp luật; cố ý né tránh, kéo dài thời gian cung cấp tài liệu theo yêu cầu giám định, định giá hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; kết luận giám định, định giá tài sản không đúng sự thật hoặc từ chối kết luận giám định, định giá tài sản trái pháp luật. (13) Lợi dụng quyền trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu hoặc quyền trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, quyền huỷ án điều tra lại, quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, quyền yêu cầu giải thích bản án để kéo dài quá trình giải quyết vụ án, vụ việc, thi hành án vì vụ lợi. (14) Đề nghị, quyết định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo, xét và đề nghị đặc xá trái pháp luật. (15) Cố ý thi hành án trái nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc không ra quyết định thi hành án, trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án trái pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp khẩn cấp tạm thời, cưỡng chế thi hành án, câu kết, thông đồng với đơn vị thẩm định giá, bán đấu giá tài sản để hạn chế người mua, dìm giá, hạ giá tài sản thi hành án trái pháp luật. (16) Cố ý vi phạm các quy định về niêm phong, mở niêm phong, kê biên tài sản, phong toả tài khoản, về thu giữ, bảo quản, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ, tài sản thi hành án. (17) Cản trở trái pháp luật hoạt động của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; hoạt động tự bào chữa, nhờ người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của bị hại, người được thi hành án, đương sự, người bị buộc tội, người chấp hành án, người phải thi hành án theo quy định của pháp luật. (18) Tư vấn, liên hệ, tiếp xúc, giải quyết không đúng quy định về chế độ thăm, gặp, liên lạc đối với người bị buộc tội, phạm nhân; gây phiền hà, sách nhiễu đối với người bị buộc tội, người chấp hành án, người phải thi hành án, bị hại, người được thi hành án, đương sự hoặc người thân thích của họ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. (19) Lợi dụng công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác để trục lợi hoặc động cơ cá nhân khác; chỉ đạo hoặc cung cấp, tiết lộ thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ án, vụ việc trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. (20) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền để chiếm đoạt tài sản; lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn hoặc giả mạo trong công tác để trục lợi trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (21) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền để áp đặt, hợp thức hoá các hành vi, quyết định trái pháp luật của mình hoặc để giải quyết việc cá nhân mình trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (22) Nhận quà (lợi ích vật chất, phi vật chất) dưới mọi hình thức để làm trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tặng quà (trực tiếp hoặc gián tiếp dưới mọi hình thức) để tác động, gây ảnh hưởng đến người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan làm sai lệch kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (23) Cố ý để người có quan hệ gia đình và người thân thích khác lợi dụng vị trí công tác, chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi hoặc tham gia bào chữa, tư vấn pháp lý trong vụ án, vụ việc mà mình chỉ đạo giải quyết hoặc trực tiếp giải quyết. (24) Cố ý không giải quyết, không thực hiện hoặc giải quyết, thực hiện không đúng quy định hoặc cản trở việc giải quyết đối với các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, yêu cầu trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. (25) Tiết lộ thông tin, đe doạ, trả thù, trù dập người kiến nghị, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan thuộc phạm vi được giao quản lý, phụ trách. (26) Đe doạ, trả thù, trù dập, mua chuộc người tố giác tội phạm, người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực liên quan đến bản thân mình hoặc người có quan hệ gia đình trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc, thi hành án. (27) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền trong việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; sử dụng trái pháp luật các thông tin, tài liệu thu thập được từ các biện pháp nghiệp vụ. (28) Các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực khác trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xem thêm Quy định 132-QĐ/TW năm 2023 có hiệu lực từ ngày 27/10/2023.
Bộ Công an triển khai 05 biện pháp phòng ngừa tội phạm giết người
Thời gian gần đây, tình trạng tội phạm giết người với tính chất côn đồ, dã man có những diễn biến phức tạp trên địa bàn các tỉnh, thành trong cả nước. Trước tình hình trên, Trung tướng Tô Ân Xô, Người phát ngôn Bộ Công an đã thông tin về một số giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa những vụ án giết người nghiêm trọng trong thời gian tới như sau: Một số vụ giết người đặc biệt nghiêm trọng gần đây Theo Người phát ngôn Bộ Công an, thời gian qua tại một vài địa phương đã xảy ra một số vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng gây xôn xao dư luận, như: - Vụ Giáp Thị Huyền Trang (sinh năm 1996, quê Bắc Giang) bắt cóc và giết bé gái ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội để đòi tiền chuộc 1,5 tỷ đồng. - Vụ đối tượng Tạ Duy Khanh (sinh năm 1985, quê Thái Bình) sát hại, phân mảnh thi thể nạn nhân phi tang ở sông Hồng. - Vụ nghi phạm Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm 1986, quê Thái Nguyên) sát hại bạn gái tại cửa hàng thời trang ở Bắc Ninh rồi tự tử. - Vụ Giàng A Lư (sinh năm 1995, ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La) dùng dao đâm vợ tử vong. - Vụ Sùng A Sú (sinh năm 1990, ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai) giết vợ rồi tự tử. Xác định tội phạm giết người là loại tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, sự bình yên cuộc sống của nhân dân. Bộ Công an đặc biệt quan tâm triển khai các biện pháp phòng ngừa, để kịp thời ngăn chặn từ sớm, không để xảy ra các vụ thảm án, các vụ án giết người nghiêm trọng; đồng thời triển khai quyết liệt các biện pháp tấn công, truy bắt, xử lý nghiêm minh để tạo sức trấn áp răn đe. 05 biện pháp nâng cao phòng ngừa tội phạm giết người Thời gian tới, để tiếp tục đấu tranh, phòng chống có hiệu quả hơn với tội phạm giết người, Bộ Công an sẽ đẩy mạnh các biện pháp sau: - Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng giáo dục học đường theo hướng cân bằng, coi trọng đồng bộ giữa giáo dục văn hóa và xây dựng nền tảng đạo đức. - Tăng cường năng lực cho lực lượng Công an cấp xã để chủ động nắm tình hình kịp thời, phát hiện, giải quyết sớm các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nhất là mâu thuẫn về tranh chấp đất đai, vay mượn tài sản... Phát huy vai trò các tổ hòa giải, các tổ chính trị - xã hội; không để xảy ra các mâu thuẫn bức xúc, kèo dài dẫn đến giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. - Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đối tượng ở địa bàn dân cư, nhất là người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy tại cộng đồng. Phối hợp các đơn vị chức năng đưa người mắc bệnh tâm thần vào các cơ sở điều trị, phối hợp quản lý chặt chẽ người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. - Phối hợp các ban ngành ở địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, nhất là pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình, phòng, chống bạo lực học đường. Chú trọng truyền thông trên các cổng thông tin đại chúng, trang mạng xã hội, hệ thống thông tin cơ sở; huy động sự tham gia của các doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, người có uy tín trong cộng đồng dân cư... để phối hợp tuyên truyền phòng ngừa tội phạm giết người. - Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý các vụ án giết người, nhất là các vụ án được dư luận xã hội quan tâm, không để tồn đọng các vụ án giết người không rõ thủ phạm. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an
Vụ bán giấy chứng nhận khám bệnh để trục lợi bảo hiểm xử lý thế nào?
Vừa mới đây Công an TP. Biên Hòa (Đồng Nai) vừa mở rộng điều tra và khám xét hàng loạt các phòng khám y tế trên địa bàn. Qua đó, xác minh làm rõ hành vi nhận làm giấy chứng nhận không đủ điều kiện để nghỉ việc hưởng BHXH. Theo thông tin từ Công an thành phố cho biết chuyên án có quy mô rất lớn, ước lượng có vài chục ngàn người mua giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội để trục lợi bảo hiểm xã hội lên đến hàng trăm tỉ đồng. 1. Cơ sở khám bệnh làm giả giấy khám bệnh bị xử lý ra sao? Căn Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức sẽ bị xử lý như sau: Khung thứ nhất: Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng - 02 năm. Khung thứ hai: Bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm - Có tổ chức. - Phạm tội 02 lần trở lên. - Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác. - Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. - Thu lợi bất chính từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. - Tái phạm nguy hiểm. Khung thứ ba: Bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm - Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên. - Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. 2. Phạm tội trục lợi BHXH có thể bị xử lý bao nhiêu năm tù? Bên cạnh việc cơ sở khám bệnh này làm giả giấy tờ thì còn phạm tội trục lợi BHXH cho người lao động nghỉ việc theo đó, tại Điều 214 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội gian lận BHXH, BHTN như sau: Khung 1: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 20 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, thì bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng - 02 năm: - Lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ BHXH, hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp lừa dối cơ quan BHXH. - Dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội hưởng các chế độ BHXH, BHTN. Khung 2: Bị phạt tiền từ 100 triệu đồng - 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm - 05 năm - Có tổ chức. - Có tính chất chuyên nghiệp. - Chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN từ 100 triệu đồng - dưới 500 triệu đồng. - Gây thiệt hại từ 200 triệu đồng - dưới 500 triệu đồng. - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. - Tái phạm nguy hiểm. Khung 3: Bị phạt tù từ 05 năm - 10 năm - Chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN 500 triệu đồng trở lên. - Gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, trường hợp cơ sở khám chữa bệnh làm giả giấy khám bệnh để trục lợi BHXH cho NLĐ thì người thực hiện có thể đối mặt với 2 tội hình sự với tội làm giả giấy khám bệnh cao nhất lên đến 7 năm tù và trục lợi BHXH cao nhất là 10 năm tù.
Việc nhận biết giọng nói trong tố tụng hình sự được thực hiện như thế nào?
Nhận biết giọng nói là hoạt động điều tra viên tiến hành khi cần xác nhận người qua giọng nói của họ, được quy định tại Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. 1. Nhận biết giọng nói là gì? Nhận biết giọng nói là việc tổ chức cho một người nghe để xác nhận một giọng nói hiện tại với một giọng nói mà họ đã biết trước đây trong mối quan hệ với sự kiện trong điều tra, nhằm xác định xem có phải là đồng nhất hay không. Để việc nhận biết giọng nói được chính xác, khách quan, số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau. Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Việc nhận biết giọng nói phải có sự tham gia của giám định viên về âm thanh; người được yêu cầu nhận biết giọng nói; người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm; người chứng kiến. Nếu người được yêu cầu nhận biết giọng nói là người làm chứng, bị hại thì trước khi tiến hành, điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích này phải ghi vào biên bản. Để có tài liệu đối chiếu, điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói. Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó. Việc nhận biết giọng nói phải lập biên bản theo thủ tục chung. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khoẻ của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thực hiện nhận biết giọng nói. 2. Khi nào cần tiến hành nhận biết giọng nói? Nhận biết giọng nói là hoạt động điều tra viên tiến hành khi cần xác định người qua giọng nói của họ. Khoản 1 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về trường hợp Điều tra viên có thể tiến hành nhận biết giọng nói, cụ thể như sau: Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau. Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Như vậy, trong quá trình điều tra, nếu nhận thấy có sự cần thiết Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. 3. Những người nào phải tham gia việc nhận biết giọng nói? Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì phải ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì ngoài việc phải có Kiểm sát viên có mặt để thực hiện việc kiểm sát quy trình nhận biết giọng nói thì quy trình nhận biết giọng nói cần phải có mặt của những người sau: - Giám định viên về âm thanh - Người được yêu cầu nhận biết giọng nói - Người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp nhận biết giọng nói được thực hiện qua các phương tiện ghi âm - Người chứng kiến. Nhận biết giọng nói là thủ tục áp dụng biện pháp điều tra hình sự nhằm mục đích thực hiện việc thu thập, bổ sung tài liệu, chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm thông qua việc tiến hành nhận biết giọng nói.
Cần cung cấp tài liệu gì khi điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại?
Liên quan đến việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, Điều 8 Thông tư 37/2019/TT-BTC quy định cụ thể các loại thông tin, tài liệu mà Cơ quan điều tra có nghĩa vụ cung cấp bản công khai khi các bên liên quan có yêu cầu bao gồm: "Điều 8. Các loại thông tin công khai trong vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại Trong trường hợp các bên liên quan có yêu cầu, Cơ quan điều tra cung cấp bản công khai của các loại thông tin, tài liệu sau đây: 1. Hồ sơ yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại do Bên yêu cầu cung cấp và các phụ lục kèm theo; 2. Tài liệu do bên liên quan cung cấp để đăng ký tham gia vụ việc; 3. Bản trả lời câu hỏi và bản trả lời câu hỏi bổ sung do bên liên quan cung cấp trong quá trình điều tra vụ việc; 4. Tài liệu do bên liên quan cung cấp cho Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm: những tài liệu để tổ chức các buổi tham vấn; các ý kiến đối với Hồ sơ yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại do bên liên quan cung cấp; 5. Biên bản họp hoặc bản tóm tắt phiên tham vấn công khai liên quan đến vụ việc điều tra do Cơ quan điều tra lập; 6. Các thông báo của Cơ quan điều tra và Bộ Công Thương, bao gồm thông báo về nhận Hồ sơ yêu cầu điều tra, rà soát áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, kết luận sơ bộ, kết luận cuối cùng, đơn đăng ký bên liên quan và gửi bản câu hỏi, phiên tham vấn công khai, giới hạn phạm vi điều tra mẫu, chấp thuận hoặc không chấp thuận đề xuất cam kết; 7. Các thông tin khác liên quan đến vụ việc điều tra phòng vệ thương mại do Cơ quan điều tra xem xét công khai trong quá trình điều tra." Có thể thấy, pháp luật hiện hành có những quy định cụ thể trong việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhằm đảm bảo cho công tác quản lý thương mại được thực hiện một cách có hiệu quả.
Hướng dẫn liên ngành về quá trình giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ và tạm dừng giải quyết
Giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, tạm dừng giải quyết - Minh họa Ngày 18/5/2021, Văn phòng cơ quan CSĐT Bộ Công an và Vụ Thực hành quyền công tố & Kiểm sát điều tra án ma túy thuộc VKSNDTC ra Hướng dẫn 2010/HDLN v/v giải đáp vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, vụ việc tạm dừng giải quyết. Một số nội dung đáng chú ý được giải đáp: *Về các vướng mắc trong việc giải quyết vụ việc tạm đình chỉ, tạm dừng giải quyết (1) Đề nghị hướng dẫ giải quyết đối với những tố giác, tin báo về tội phạm đã tạm dừng giải quyết theo Quy trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong CAND ban hành kèm theo Quyết định 1319/QĐ-BCA-C41 ngày 20/3/2015 của Bộ trường BCA. Giải đáp: Khoản 6 Điều 5 Thông tư liên tịch 01/2020/TTLT quy định cụ thể: “Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã tạm dừng giải quyết trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì cơ quan có thẩm quyền điều tra, chủ động trao đổi, thống nhất bằng văn bản với Viện kiểm sát rà soát, phân loại, xử lý như sau: a) Đối với những vụ việc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự b) Đối với những vụ việc còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố”. Như vậy, những vụ việc đã tạm dừng giải quyết theo Quyết định 1319/QĐ-BCA-C41, Cơ quan điều tra cần chủ động trao đổi, thống nhất bằng văn bản với Viện kiểm sát. Đối với vụ việc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ việc còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì Cơ quan điều tra phối hợp với Viện kiểm sát cùng cấp tiến hành rà soát lại căn cứ tạm dừng giải quyết và xử lý như sau: + Những vụ việc có căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ và tiến hành quản lý, theo dõi theo quy định của Thông tư liên tịch 012020/TTLT. + Những vụ việc không có căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra ra Quyết định phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thời hạn giải quyết được tính từ thời điểm ra Quyết định phục hồi. Việc ra Quyết định phân công mới chỉ đặt ra khi những người được phân công trước đây không thể tiếp tục giải quyết (nghỉ hưu, thay đổi vị trí công tác...). (2) Thực tiễn một số tố giác, tin báo về tội phạm hết thời hạn giải quyết nhưng Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để ra Quyết định khởi tố hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cũng không có căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết theo khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự như: người tố giác không đồng ý đi giám định thương tích; người tố giác, người bị tố giác không chấp hành giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, bỏ đi khỏi địa phương... Đề nghị hướng dẫn việc áp dụng căn cứ pháp luật trong Quyết định tạm đình chỉ đối với các tố giác, tin báo về tội phạm tạm đình chỉ việc giải quyết theo Quy định tại điểm b khoản 3 Điều 16 Thông tư 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 của Bộ Công an quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân (trường hợp hết thời hạn giải quyết mà chưa đủ căn cứ để ra một trong ba quyết định khởi tố, không khởi tố hoặc tạm đình chi). Một số trường hợp Viện kiểm sát không đồng ý với quan điểm của Cơ quan điều tra do đây là Thông tư của Bộ Công an, không phải Thông tư liên tịch của liên ngành. Giải đáp: Trường hợp người bị tố giác không ở nơi cư trú, không biết họ ở đâu thì cần có văn bản thông báo truy tìm để phát hiện và triệu tập, lấy lời khai làm rõ những vấn đề có liên quan đến nội dung tố giác. Điều tra viên tiến hành các hoạt động thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật; áp dụng biện pháp cưỡng chế dẫn giải Người làm chứng, Người bị hại, Người bị tố giác theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự, tinh thần chung là phải quyết liệt trong giải quyết vụ việc. Điểm b khoản 3 Điều 16 Thông tư 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân quy định: Trường hợp hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng chưa đủ căn cứ để ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, mà cũng không có những căn cứ để tạm đình chỉ việc giải quyết thì bảo cáo lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp để đề xuất Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có văn bản trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để thống nhất quan điểm giải quyết. Về nguyên tắc, trường hợp hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng chưa đủ căn cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết thì phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo nguyên tắc có lợi cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, trong thực tiễn một số trường hợp nhạy cảm về chính trị, xã hội, nếu ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự ngay sẽ có phản ứng trong dư luận. Trong trường hợp này, liên ngành tố tụng cùng cấp thụ lý giải quyết vụ việc cần họp bàn thống nhất hướng xử lý, nhưng vẫn phải đảm bảo việc tạm đình chỉ phải có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. (Còn nữa) *Ngoài ra Hướng dẫn 2010/HDLN còn giải đáp các vướng mắc trong việc giải quyết vụ án tạm đình chỉ và liên quan đến vụ việc, vụ án tạm đình chỉ. Tải và xem chi tiết văn bản tại file đính kèm.
[CÔNG ĐIỆN HỎA TỐC] Điều tra, xử lý 2 trường hợp nhiễm Covid-19 tại Đà Nẵng, Đắk Lắk
Điều tra, xử lý 2 ca Covid-19 tại Đà Nẵng, Đắk Lắk - Minh họa Ngày 9/5/2021, hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm Việt Nam ghi nhận 2 trường hợp mắc Covid-19 tại Đắk Lắk, trước đó các bệnh nhân này trở về từ Đà Nẵng. Bộ Y tế sau đó ban hành Công điện hỏa tốc 624/CĐ-BYT cho UBND 2 tỉnh này về việc điều tra, xử lý đối với trường hợp nhiễm SARS-CoV-2, chỉ đạo 6 nội dung sau đây: 1. Tiếp tục mở rộng điều tra dịch tễ, lập danh sách tất cả những người tiếp xúc gần và có liên quan với bệnh nhân, thực hiện thần tốc truy vết, cách ly y tế. Lấy mẫu xét nghiệm diện rộng (bao gồm: người thân, bạn bè, người tiếp xúc gần...) để tiến hành xét nghiệm khẳng định. 2. Tổ chức giám sát chặt chẽ hàng ngày tình hình sức khỏe và tổ chức cách ly y tế, lấy mẫu xét nghiệm theo quy định đối với tất cả trường hợp tiếp xúc gần và có liên quan với bệnh nhân, nếu phát hiện bất kỳ trường hợp nào có biểu hiện sốt, ho, hắt hơi, sổ mũi, mệt mỏi, ớn lạnh hoặc khó thở thì lập tức cho cách ly ngay tại cơ sở y tế và lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm. 3. Tiến hành ngay việc xử lý, phun khử trùng triệt để môi trường tại nơi bệnh nhân thường trú; các địa điểm bệnh nhân đã từng đến, ở, làm việc; các phương tiện vận chuyển và các khu vực có liên quan khác theo đúng quy định tại hướng dẫn giám sát và phòng, chống dịch COVID-19. 4. Tăng cường rà soát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy trình, quy định về nhập cảnh, giám sát cách ly y tế, xét nghiệm phòng chống dịch COVID-19, tuyệt đối không đểây lan trong khu vực cách ly, lây ra cộng đồng. 5. Thực hiện đúng chế độ về thông tin, báo cáo bệnh truyền nhiễm theo quy định. 6. Chỉ đạo Sở Y tế báo cáo hàng ngày kết quả giám sát, điều tra, phòng chống dịch COVID-19 về Bộ Y tế theo quy định. Chi tiết Công văn tại file đính kèm dưới đây.
Nhìn lại 2020: 3 vụ rơi lầu đặc biệt dân luật chắc chắn chưa quên!
Mới đây, lại thêm một vụ án nạn nhân rơi từ lầu cao xuống tử vong, lần này là một Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự ở Quận 8. Nhìn lại năm 2020, có ba vụ án cũng liên quan đến những cái chết từ trên cao, nhưng nội dung lại làm dân luật phải xôn xao bàn tán! 1. Vụ án Lương Hữu Phước Ông Lương Hữu Phước tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước Đây là một trong những vụ án tốn nhiều giấy mực của các nhà báo nhất năm vừa qua, bắt nguồn từ sự việc bị cáo Lương Hữu Phước tự tử sau khi bị tuyên án 3 năm tù giam về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Nội dung vụ án này được tóm lược như sau: Một ngày đầu năm 2017, ông Phước điều khiển xe máy chở ông Trần Hữu Quý, khi sang đường thì va chạm với anh Lâm Tươi, vụ tai nạn khiến ông Quý tử vong sau đó. Lần sơ thẩm đầu tiên, Tòa tuyên ông Phước 3 năm tù, ông kháng cáo được, được Tòa Phúc thẩm chấp nhận đơn, hủy án sơ thẩm điều tra lại Lần sơ thẩm thứ 2, Tòa vẫn tuyên 3 năm tù, ông lại kháng cáo nhưng ở lần xét xử Phúc thẩm sáng ngày 29/5/2020, Tòa tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm. Chiều cùng ngày ông đến TAND nhảy lầu tự tự. Ngày 12/6/2020, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP. HCM mở phiên giám đốc thẩm xem xét lại vụ án của ông, tuyên hủy án sơ thẩm, phúc thẩm, điều tra lại từ đầu. Quyết định đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ bị can đối với ông Phước được thượng tá Vũ Văn Hải (Phó thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Đồng Xoài) ký ngày 2/12 với lý do "thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết". Được biết, cuộc đời của ông Phước là một chuỗi những bi kịch. Con gái đầu tiên của ông mất năm 13 tuổi vì bị người khác hiếp, giết, ông phải bỏ xứ đi nơi khác. Sau này gia đình ông tích cóp nhiều năm để có tiền mua đất thì lại bị thu hồi giải tỏa, và cuối cùng là vụ việc ông và người bạn thân gặp tai nạn, bị thương nặng và ông trở thành bị cáo. 2. Vụ án Tiến sĩ – Luật sư Bùi Quang Tín rơi từ tầng 14 tử vong Tiến sĩ, Luật sư Bùi Quang Tín Vụ án này được tóm lược lại như sau: Ngày 5/4, ông Trần Việt Dũng (Viện trưởng Viện đào tạo Quốc tế - Trường Đại học Ngân Hàng TPHCM) mời ông Tín và một số đồng nghiệp công tác tại Đại học Ngân hàng đến nhà riêng tại chung cư New Sài Gòn ăn trưa. Trong số những người đến nhậu, có 6 người ra về trước, chỉ còn ông Tín và ông Nguyễn Đức Trung, sau đó ông Dũng đã đi ra ngoài có việc trước, để hai người bạn nằm nghỉ lại nhà mình. Trong lúc ngủ, ông Trung thấy ông Tín tự đi ra ngoài nên đi theo và ngăn không cho ông Tín tự đi về, tuy nhiên ông Tín đã ra đến thang máy và cương quyết rời khỏi chung cư. Khi ông Trung đang quay lại phòng thì nghe thấy tiếng động, tuy nhiên ông không nhìn thấy bạn mình đâu và cũng không thấy ở dưới lan can giếng trời có gì khả nghi. Tuy nhiên, lúc 17 giờ 36 cùng ngày (lúc này ông Dũng trở về chung cư), ông Trung và ông Dũng phát hiện thi thể Luật sư Bùi Quang Tín ở tầng trệt, đã chết. Qua khám nghiệm, kiểm tra hiện trường và lời khai nhân chứng nhìn thấy ông Tín trèo qua lan can giếng trời tầng 14 và rơi xuống. Điều này cũng phù hợp với dấu vết AND của ông Tín tồn tại ở lan can giếng trời ở gần thang máy tầng 14, Block D2. Kết quả giám định pháp y cũng thể hiện nguyên nhân tử vong của ông Tín là do đa chấn thương. Nạn nhân có nồng độ cồn trong máu là 221mg/100ml, không có độc chất. Qua đó, Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM xác định, nguyên nhân tử vong là do ông Bùi Quang Tín tự rơi từ tầng 14 xuống sân giếng trời khu vực Block D2 Chung cư New Sài Gòn. Vụ việc không có dấu hiệu tội phạm. Căn cứ khoản 1, Điều 157 Bộ Luật Tố tụng hình sự, Cơ quan này ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thông báo được gửi đến các cơ quan chức năng và những người liên quan. Ngày 7-9, VKSND TP HCM cho biết đã có kết luận kiểm sát Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. 3. Nữ luật sư nghi nhảy lầu do trầm cảm Hiện trường nơi nữ luật sư tự tử Ngày 15/11/2020, báo chí đồng loạt đưa tin một nữ luật sư rơi từ tầng cao chung cư Sunview Town, quận Thủ Đức Tp. HCM xuống đất tử vong. Qua công tác khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai các nhân chứng và người thân, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, TP.HCM đã đưa ra nhận định ban đầu về vụ việc. Công tác khám nghiệm hiện trường cho thấy, căn hộ nữ Luật sư tại tầng 18, Block A2 của chung cư không có dấu hiệu bất thường. Tại khu vực cửa sổ phòng ngủ có ghế sắt nên xác định bà T. rơi từ khu vực cửa sổ này. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tìm thấy sổ khám bệnh với bệnh lý rối loạn giấc ngủ. Đồng thời, qua trích camera, lấy lời khai các nhân chứng, Cơ quan điều tra đã đưa ra nhận định ban đầu là bà T. có dấu hiệu trầm cảm, nhảy lầu tự tử. Theo bạn bè bà T., bà T. đã được gia đình phát hiện trầm cảm từ ít ngày trước đó nên nhờ người tới chăm sóc. Tuy nhiên, trưa ngày xảy ra vụ việc bà T. nói với người chăm sóc rằng mình vào phòng để thay đồ, sau đó thì xảy ra vụ việc trên. Ngoài ra, không biết còn vụ án nào mà mình liệt kê thiếu không nhỉ?
Hướng dẫn 10/HD-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố xét xử sơ thẩm án an ninh năm 2021
Hướng dẫn 10/HD-VKSTC Ngày 12/11/2021 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành Hướng dẫn 10/HD-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm an ninh năm 2021. Theo đó, VKSNDTC hướng dẫn một số nội dung trọng tâm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm (THQCT, KSĐT và KSXXST) các vụ án do Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) thụ lý điều tra cụ thể Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm như sau: - Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 và Chỉ thị 05/CT-VKSTC ngày 27/4/2020 của Viện trưởng Viện KSND tối cao. Chỉ đạo các đơn vị áp dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu nghiệp vụ của Ngành, của Quốc hội giao. - Đề cao trách nhiệm, bám sát, nắm chắc quá trình điều tra; chủ động, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra đúng hướng, toàn diện, bảo đảm các quyết định, phê chuẩn của VKS có căn cứ, đúng pháp luật. Phối hợp với Cơ quan ANĐT đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, các vụ án nhạy cảm về chính trị được dư luận xã hội quan tâm. - Kiểm sát viên phải xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, trường hợp vụ án có nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên tham gia, phải phân công nhiệm vụ cụ thể, dự kiến các hoạt động của VKS tác động đến hoạt động điều tra và thời gian thực hiện. - Thực hiện nghiêm quy định tại khoản 5, Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2015, yêu cầu CQĐT chuyển đầy đủ, đúng thời hạn các tài liệu điều tra cho VKS; Kiểm sát viên phải nghiêm túc thực hiện việc đóng dấu bút lục, sao lưu các tài liệu đó theo đúng quy định. Chủ động thực hiện các hoạt động số hóa hồ sơ vụ án. - Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015; không để xảy ra việc lạm dụng biện pháp bắt, giam, giữ. Quản lý chặt chẽ thời hạn điều tra, truy tố, tạm giữ, tạm giam; không để xảy ra việc quá hạn hoặc tạm giữ, tạm giam không có lệnh; tuyệt đối không để xảy ra vi phạm Điều 377 BLHS. - Quá trình giải quyết vụ án, phải làm rõ hành vi, động cơ, mục đích phạm tội; thế lực đứng sau chỉ đạo, cung cấp tiền, phương tiện; chủ động yêu cầu giám định tài liệu, thu thập chứng cứ vật chất (tài liệu, dữ liệu điện tử,...) để chứng minh tội phạm; nghiên cứu kỹ hồ sơ, thống nhất việc khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn (diện, đối tượng,...). - Đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài, cần phối hợp, yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện đúng những quy định tại các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, các quy định của pháp luật Việt Nam về việc giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, không để xảy ra sai sót, vi phạm dẫn đến khiếu kiện Nhà nước Việt Nam. - Truy tố đúng thời hạn, tội danh, khung hình phạt; tránh truy tố oan, sai, bỏ lọt tội phạm; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố đúng pháp luật, không để xảy ra sai sót dẫn đến xâm phạm quyền con người, quyền công dân, nhất là với các đối tượng có nhân thân đặc biệt (người nước ngoài, nhân sỹ, trí thức, chức sắc tôn giáo,...). - Việc xây dựng cáo trạng, văn bản pháp lý khác trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia cần viết ngắn gọn, tránh phân tích dài dòng, hạn chế trích dẫn nguyên văn các nội dung của kết luận giám định, nội dung tài liệu bí mật Nhà nước, tránh việc các đối tượng lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc tại phiên tòa. Thực hiện sơ đồ hóa hành vi phạm tội trong các vụ án nhiều nội dung, nhiều bị can để xây dựng cáo trạng chất lượng hơn. - Tăng cường chỉ đạo công tác THQCT, KSXX sơ thẩm vụ án. Kiểm sát viên được phân công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, quy trình nghiệp vụ; chuẩn bị kỹ dự thảo luận tội, đề cương thẩm vấn, dự kiến tình huống tranh tụng tại phiên tòa xem xét thực hiện việc công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa (nếu thấy phù hợp). Khi xét xử các vụ án về an ninh, Viện kiểm sát chủ động phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án để chuẩn bị tốt Kế hoạch xét xử, lựa chọn thời điểm xét xử, hình thức xử kín hay công khai để đáp ứng yêu cầu pháp luật và chính trị. - Đối với các vụ án do Vụ 1 VKSND tối cao phân công Viện kiểm sát cấp dưới THQCT và KSXX sơ thẩm, phải thực hiện đúng Quyết định số 314/QĐ-VKSTC ngày 05/7/2018 của VKSND tối cao ban hành Quy chế phối hợp giữa VKS cấp trên và VKS cấp dưới trong việc giải quyết vụ án hình sự do VKS cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và truy tố, phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm. - Quản lý và kiểm sát chặt chẽ các vụ án, bị can đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh phải quản lý chặt chẽ, đánh giá từng vụ án, bị can đình chỉ điều tra do không phạm tội, đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự. Phối hợp Điều tra viên xác minh căn cứ tạm đình chỉ, nếu đủ căn cứ phải yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi ngay theo Thông tư liên tịch 01/2020. - Tăng cường kiến nghị khắc phục vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Kiến nghị phòng ngừa thiếu sót sơ hở trong quản lý nhà nước làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an toàn xã hội, những lĩnh vực dễ phát sinh tội phạm tham nhũng. Xem chi tiết tại:
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự: Áp dụng khi nào?
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Tố tụng Hình sự - Ảnh minh họa Khác với quy định trước đây về Thủ tục rút gọn, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS) quy định thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục này dành cho cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Vậy trong những trường hợp nào thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng? Trước tiên cần nắm được phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 455 BLTTHS: Điều 455. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này. Như vậy có thể thấy thủ tục rút gọn có thể được áp dụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và đặc biệt là cả với xét xử phúc thẩm. Đối với các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm, thủ tục rút gọn được ra quyết định thi hành khi có các căn cứ tại Khoản 1 Điều 456 BLTTHS: 1. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện: a) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; b) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; c) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; d) Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Trong những căn cứ nêu trên, tình tiết “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” được hiểu là những sự việc mà vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp và dễ xác định, vụ án ít bị cáo, các chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ từ đầu. Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm, căn cứ áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Khoản 2 Điều 456 như sau: 2. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện: a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy nêu trên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định này bị hủy bỏ trong trường hợp căn cứ áp dụng Thủ tục rút gọn tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ông Nguyễn Đức Chung liên quan 3 vụ án đang điều tra
Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung. Ảnh: ZING Ông Nguyễn Đức Chung được xác định liên quan đến 3 vụ án mà cơ quan công an đang điều tra. Chiều tối 11-8, Thiếu tướng Tô Ân Xô, Chánh văn phòng Bộ Công an, cho biết Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung được xác định liên quan đến ba vụ án mà cơ quan công an đang điều tra. Theo đó, thứ nhất là vụ buôn lậu, vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, rửa tiền, vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Kỹ thuật Nhật Cường (Công ty Nhật Cường), Sở KH&ĐT Hà Nội và một số đơn vị liên quan. Thứ hai là vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí, xảy ra tại TP Hà Nội. Thứ ba là vụ án chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước vừa được Cơ quan ANĐT Bộ Công an khởi tố mới đây. Trước đó, Bộ Chính trị quyết định đình chỉ sinh hoạt Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội và đình chỉ chức vụ Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đối với ông Nguyễn Đức Chung, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hà Nội để xác minh, điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan của ông Nguyễn Đức Chung trong một số vụ án theo quy định của pháp luật. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tạm đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Đức Chung. Theo quyết định, Thủ tướng tạm đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND TP Hà Nội để xác minh, điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan của ông Nguyễn Đức Chung trong một số vụ án theo quy định của pháp luật. Thời hạn tạm đình chỉ công tác là 90 ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ công tác. Theo PLO
Thẩm quyền điều tra trong hình sự khi quân nhân nghỉ hưu
Tại khoản 4 Điều 40 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 thì quy định đối với sự việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền Điều tra thì cơ quan Điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các hoạt động Điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này; khi đã xác định được thẩm quyền Điều tra thì chuyển vụ án cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại khoản 2 Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thẩm quyền điều tra: - Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. - Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002 thì các Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là: “1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; 2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.” Thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự được hướng dẫn cụ thể thêm tại Mục I Thông tư liên tịch01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA . Như vậy,để biết được cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền điều tra hay không phải căn cứ vào vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự hay không. Trong trường hợp khi quân nhân về hưu sẽ không là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002 nhưng khi hành vi phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội thì vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự và cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền điều tra.
Đình chỉ công tác để điều tra có đóng BH không?
Câu hỏi: Người lao động bị tạm đình chỉ công tác để điều tra có đóng bảo hiểm không? Câu trả lời: Khoản 7 Điều 42 Quyết định 595/2017/QĐ-BHXH có quy định: "Điều 42. Quản lý đối tượng ... 7. Người lao động mà bị tạm giam, tạm giữ hoặc tạm đình chỉ công tác để điều tra, xem xét kết luận có vi phạm hay không vi phạm pháp luật thì người lao động và đơn vị được tạm dừng đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN nhưng vẫn phải đóng BHYT hằng tháng bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng mà người lao động được hưởng theo quy định của pháp luật. Sau thời gian tạm giam, tạm giữ hoặc tạm đình chỉ công tác nếu được cơ quan có thẩm quyền xác định bị oan, sai, không vi phạm pháp luật thì thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN trên tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc và truy đóng BHYT trên số tiền lương được truy lĩnh, không tính lãi đối với số tiền truy đóng; trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định người lao động là có tội thì không thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN và không phải truy đóng BHYT cho thời gian bị tạm giam". Như vậy, theo quy định trên người lao động bị tạm đình chỉ công tác để điều tra, xem xét có vi phạm pháp luật hay không thì người lao động và đơn vị được tạm dừng đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN nhưng vẫn phải đóng BHYT hằng tháng bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng mà người lao động được hưởng theo quy định của pháp luật. Sau thời gian tạm đình chỉ công tác nếu được xác định bị oan, sai, không vi phạm pháp luật thì thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN trên tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc và truy đóng BHYT trên số tiền lương được truy lĩnh, không tính lãi đối với số tiền truy đóng. Còn trường hợp xác định người lao động là có tội thì không thực hiện việc đóng bù BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN và không phải truy đóng BHYT cho thời gian bị tạm giam.
Đang trong thời gian điều tra, truy tố công chức có hưởng lương?
· Về vấn đề hưởng lương: Căn cứ Điều 24 Nghị định 34/2011/NĐ-CP: “Chế độ, chính sách đối với công chức đang trong thời gian tạm giữ, tạm giam và tạm đình chỉ công tác” “1. Trong thời gian tạm giữ, tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc tạm đình chỉ công tác để xem xét xử lý kỷ luật thì công chức được hưởng 50% của mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng, cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề và hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có).” · Vấn đề tham gia BHXH, BHYT, BHTN Theo nội dung được hướng dẫn của công văn 4407/BHXH-BT về việc hướng dẫn giải quyết vướng mắc về thu BHXH, BHYT thì: Công chức đang trong thời gian tạm giam, tạm giữ để điều tra truy tố hoặc tạm đình chỉ công tác để xem xét xử lý kỷ luật thì vẫn phải đóng BHXH. Công chức thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, đóng đủ mức đóng BHXH theo quy định của pháp luật (mức đóng tính theo mức lương theo ngạch bậc và tỷ lệ % đóng BHXH theo quy định). Trường hợp công chức, viên chức bị Tòa án kết án phạt tù giam, hoặc buộc thôi việc, không được truy lĩnh 50% còn lại của mức lương theo ngạch bậc, thì cơ quan BHXH hoàn trả số tiền đã thu BHXH cho đơn vị sử dụng lao động đối với thời gian công chức, viên chức bị tạm giữ, tạm giam, hoặc tạm đình chỉ công tác và không được tính là thời gian tham gia BHXH.
Khai báo, điều tra tai nạn lao động
Chào mọi người! Chào Luật sư! Công ty tôi có rất nhiều nhà thầu thực hiện dịch vụ trong nhà máy : - Nhà thầu thuê mặt bằng trong công ty tôi và thực hiện công việc tại đó. Máy móc con người là của nhà thầu ( nhà thầu thường trú ) - Nhà thầu thực hiện công việc sửa chữa , bảo dưỡng , lắp đặt , vệ sinh công nghiệp , nấu ăn ... tại công ty tôi. Khi xảy ra tai nạn lao động thì khai báo , điều tra tai nạn lao động thuộc trách nhiệm của bên nào ? Công ty tôi hay nhà thầu trong 2 trường hợp trên . Mong cộng đồng dân luật trả lời giúp . Xin trân thành cảm ơn !
Vào 20h ngày 20/6, chị T.P.T.L. (SN 1983, ngụ huyện Tân Thạnh) bị một thanh niên là Huỳnh Lý A. (SN 1990, ngụ huyện Tân Thạnh) đột nhập vào nhà và khống chế để hiếp dâm. Vì để bảo vệ 2 đứa con gái của mình ( đứa lớn 7 tuổi và đứa nhỏ chỉ mới 1 tuổi) chị đã đành chịu đựng để tên A. giao cấu với mình. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian chờ đợi, bị gọi lên cơ quan điều tra để tường trình sự việc thì kết luận của cơ quan điều tra lại là "A. không phạm tội hiếp dâm vì không có sự việc phạm tội tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự"! Qúa bức xúc về kết quả điều tra này, chị L. đã làm đơn để xin được đi tù "càng lâu càng tốt"!!! Mình xin dẫn điều luật để các bạn tham khảo: "Điều 111. Tội hiếp dâm 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm." Như vậy, theo mọi người, ở sự việc trên, A. có vi phạm hay không? Có phải tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ Luật hình sự nêu trên hay không? Và cơ sở nào để Cơ quan điều tra ra quyết định như vậy?