Nguyên tắc cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại và điều kiện để hợp đồng thương mại có hiệu lực?
Tìm hiểu một số nguyên tắc cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại? Các điều kiện cơ bản để một hợp đồng thương mại được coi là có hiệu lực? Nguyên tắc cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại? Về nguyên tắc, hợp đồng thương mại vẫn tuân theo các quy định cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015 để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng. Do đó, các nguyên tắc trong Bộ luật Dân sự 2015 áp dụng cho hợp đồng dân sự cũng được áp dụng cho hợp đồng thương mại. Khi giao kết hợp đồng thương mại, cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất, tự do giao kết hợp đồng nhưng không được vi phạm các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Đây là nguyên tắc áp dụng chung cho cả hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Các bên có quyền tự do thể hiện ý chí, lựa chọn giao kết hay không giao kết hợp đồng, cũng như thỏa thuận về các điều khoản trong hợp đồng để đàm phán. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng không được trái với quy định của pháp luật và phải tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức xã hội. Thứ hai, các bên tham gia giao kết hợp đồng phải tự nguyện, thiện chí, trung thực và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Mục đích chính của việc tham gia hợp đồng thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận, do đó các bên cần đàm phán các điều khoản sao cho có lợi nhất cho mình. Tuy nhiên, sự thương lượng phải dựa trên tính trung thực, tự nguyện và thiện chí. Không bên nào được phép sử dụng các biện pháp như đe dọa, lừa dối, hay cưỡng ép bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng. Nếu có sự gian lận, đe dọa hoặc các hành vi ép buộc, hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Do đó, các bên cần chú trọng đến tính trung thực và thiện chí nhằm đạt được lợi ích chung. Điều kiện để hợp đồng thương mại có hiệu lực? Điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự thông thường được quy định chung tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015: “Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Theo đó, hợp đồng thương mại được xác định là một giao dịch dân sự thuần tùy nên sẽ phải thỏa các điều kiện trên. Cụ thể, ba điều kiện cơ bản để một hợp đồng thương mại được coi là có hiệu lực: Chủ thể tham gia phải đảm bảo năng lực hành vi dân sự: Mọi chủ thể tham gia ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự, tức là có khả năng thực hiện hành vi trong trạng thái tỉnh táo, không bị ép buộc hoặc đe dọa. Trong số các chủ thể tham gia giao kết, phải có ít nhất một chủ thể có tư cách thương nhân, như quy định tại Điều 7 của Luật Thương mại 2005. Nội dung hợp đồng phải phù hợp với pháp luật: Tất cả các điều khoản trong hợp đồng thương mại cần tuân thủ quy định của pháp luật và đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nội dung hợp đồng cần có sự thống nhất giữa các bên tham gia, và phải nêu rõ một số yếu tố cơ bản như loại hàng hóa, dịch vụ, giá cả, số lượng cụ thể, hình thức và thời điểm thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như phương thức giải quyết tranh chấp nếu phát sinh. Hình thức của hợp đồng: Hợp đồng thương mại cần được lập theo hình thức mà pháp luật công nhận. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 chưa có quy định chung về hình thức hợp đồng thương mại, do đó, tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể, các bên cần tuân thủ các quy định liên quan. Ví dụ, với hợp đồng bảo hiểm, hình thức giao kết bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? GDDS vô hiệu và hậu quả pháp ký khi GDDS vô hiệu?
Giao dịch dân sự là gì? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự (“GDDS”) là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Trong đó, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: +) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. +) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện. Sư tự nguyện ở đây được hiểu là sự tự do định đoạt ý chí, không bị ép buộc, dọa nạt, lừa dối và không bị người khác áp đặt ý chí. +) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của giao dịch dân sự được xác định là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 118 Bộ luật Dân sự 2015). Trong đó, điều cấm của luật được hiểu là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; Đạo đức xã hội được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. - Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Về nguyên tắc, giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015). Bên cạnh đó, Điều 120 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự có điều kiện như sau: - Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. - Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự 2015 (như đã phân tích cụ thể bên trên) thì sẽ được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có đưa ra quy định khác. Lưu ý, Giao dịch dân sự cũng có thể vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch (Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự 2015). Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được hướng dẫn giải quyết tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. - Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. - Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. - Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định.
Biên bản họp gia đình về việc phân chia thừa kế có hiệu lực ràng buộc không?
Ông A và và B là vợ chồng, cả 2 đã mất có với nhau 7 người con. Trước lúc mất tài sản ông bà đã chia cho 3 người con mỗi người một phần tài sản còn 4 người còn lại vẫn chưa được chia. Người con út sống cùng ông bà là người quản lý di sản và sử dụng đến nay được 27 năm. Người con út muốn sang tên từ cha mình sang mình nên đã họp mặt anh chị em lại và thỏa thuận. Biên bản thỏa thuận nêu rõ mỗi người con sẽ được 1 phần đất còn lại sẽ thuộc về người con út. Biên bản có 2 người hàng xóm của người con út làm chứng và có xác nhận của trưởng ấp tại nơi có tài sản. Sau này 6 người con trên đòi thêm đất. Vậy người con út này phải làm sau ạ? Nếu phát sinh tranh chấp thì những người đã được chia phần trước đó có được chia nữa không? Biên bản họp gia đình có hiệu lực ràng buộc hay không ạ? Mong được sự giúp đỡ từ luật sư.
04 điều kiện khi lập di chúc viết tay để đúng luật
>>> Khác biệt giữa “Thừa kế theo di chúc” và “Thừa kế theo pháp luật” >>> Khác biệt giữa “Di chúc”, “Di tặng” và “Tặng cho tài sản” >>> Chi tiết tính hợp pháp của di chúc theo BLDS 2015 Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người trước khi chết nhằm chuyển tài sản của mình cho người những người thừa kế sau khi chết. Hiện nay, pháp luật ghi nhận hình thức của di chúc gồm 02 loại: di chúc miệng và di chúc bằng văn bản. Trong đó, đối với di chúc bằng văn bản, việc lập di chúc có thể thực hiện bằng việc đánh máy hoặc tự viết tay. Vậy, khi lâp di chúc viết tay, cần lưu ý gì để bản di chúc có hiệu lực pháp luật. Mọi người cùng tìm hiểu thêm về vấn đề này qua bài viết dưới đây nhé! Thứ nhất: Đảm bảo điều kiện về chủ thể Điều kiện về chủ thể là vấn đề đầu tiên cần quan tâm trước khi tiến hành lập di chúc. Người lập di chúc cần phải đảm bảo: + Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Vấn đề đặt ra ở đây là người như thế nào được xem là minh mẫn, sáng suốt? Người minh mẫn; sáng suốt có thể hiểu là những người đảm bảo khả năng nhận thức và làm chủ hành vi như người thành niên bình thường. Theo đó, đối tượng được lập di chúc gồm những người thành niên không thuộc trường hợp: người bị mất năng lực hành vi dân sự hay đang trong tình trạng không tỉnh táo (trường hợp của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ). Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ đảm bảo. Chỉ do nghiện chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản gia đình nên mới bị hạn chế năng lực hành vi. Họ vẫn được xem là minh mẫn, sáng suốt. Vì thế, di chúc của họ lập vẫn được chấp nhận miễn đảm bảo điều kiện “có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật” (khoản 2 Điều 24 Bộ luật dân sự 2015). + Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc: Quy định về sự kiểm soát này là hợp lý do đối tượng này chưa hoàn thiện khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. >>>Thứ hai: Vấn đề người làm chứng Di chúc viết tay có hai dạng là tự người để lại di sản viết hoặc nhờ người khác viết thay: + Với trường hợp tự người để lại di sản viết thì không cần người làm chứng. + Với trường hợp nhờ người khác viết thì đòi hỏi phải có người làm chứng. Theo Điều 634 BLDS 2015 thì trường hợp này cần có trên hai người làm chứng cho quá trình viết di chúc. Người làm chứng cần đảm bảo điều kiện sau: Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Theo đó, hai người làm chứng được mời tham gia phải là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc diện người thừa kế hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc. Có thể thấy, những người làm chứng này là những người không có liên quan đến việc chia thừa kế. Quy định này bảo đảm cho di chúc được thể hiện đúng ý chí của người lập di chúc; những người làm chứng sẽ không bị lợi ích ảnh hưởng. >>>Thứ ba: Nội dung di chúc Khi tiến hành viết di chúc, cần đảm bảo các thông tin sau: Điều 631. Nội dung của di chúc 1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: a) Ngày, tháng, năm lập di chúc; b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di sản. 2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác. Những nội dung quy định tại khoản 1 Điều 631 trên là những nội dung cơ bản mà một bản di chúc phải thể hiện được; trong đó quan trọng bậc nhất chính là việc phân chia di sản như nào cho những người thừa kế. Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người lập di chúc. Ngoài những nội dung tại khoản 1 thì người lập di chúc có thể thêm một số nội dung khác như: di sản dùng vào việc thờ cúng; việc di tặng. Vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng sẽ phải tuân theo các quy định tại Điều 645 và Điều 646 Bộ luật dân sự 2015. Lưu ý rằng: - Trong quá trình viết tay di chúc; không được viết tắt hay viết bằng kí hiệu. Điều này nhằm đảm bảo thể hiện rõ được ý chí của người lập di chúc. Do việc viết tắt hay kí hiệu dễ dẫn đến hiểu lầm, qua đó gây ra khó khăn cho việc giải thích cũng như dễ phát sinh tranh chấp. - Với những di chúc nhiều trang thì phải ghi số thứ tự các trang; tránh trường hợp có những trang bị xé để cho kẻ khác chuộc lợi. - Nếu có sửa chữa, tẩy xóa trong di chúc thì phải có chữa kí của người tự viết hoặc người làm chứng bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa đó. Qua đó đảm bảo việc nội dung ở chỗ tẩy xóa, sửa chữa đúng theo ý chí của người lập di chúc lúc viết. Tránh trường hợp có người can thiệp vào nội dung di chúc. >>>Thứ tư: Xác nhận việc lập di chúc Cuối di chúc viết tay, phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Với trường hợp có người làm chứng thì cần thêm sự xác nhận và chữ ký của họ trong di chúc. Đây là những đảm bảo rằng di chúc được viết ra đúng với ý chí của người để lại di sản thừa kế. Cần lưu ý: Trường hợp người lập di chúc là người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ thì phải có người làm chứng và di chúc phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực (khoản 3 Điều 630 BLDS 2015). Với trường hợp này, chỉ khi được công chứng; chứng thực thì di chúc mới được coi là hợp pháp. Còn trong các trường hợp còn lại thì pháp luật không đặt ra vấn đề công chứng, chứng thực; việc đem di chúc đi công chứng; chứng thực chỉ làm tăng tính xác thực của di chúc.
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Bộ luật dân sự 2015
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 116 Bộ luật dân sự 2015). So với Bộ Luật dân sự 2005 thì BLDS 2015 có một số thay đổi về vấn đề liên quan quy định về giao dịch dân sự trong đó vấn đề điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cũng có sự thay đổi sau nhất định BLDS 2015: Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. BLDS 2005: Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định. Phân tích: Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự BLDS 2015 so với BLDS 2005 BLDS 2015 BLDS 2005 Năng lực xác lập giao dịch Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập (theo hướng thêm điều kiện năng lực pháp luật) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự Điều cấm của luật Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật (khắc phục sự hạn chế tự do như quy định BLDS 2005, và theo như tinh thần điều 123 BLDS 2015 điều cấm của luật là những quy định luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, Mục đích của giao dịch Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật ( điều 118, BLDS 2015) Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. (Điều 123 BLDS 2005) Giới hạn tự do về hình thức Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. (làm hẹp đi yêu cầu về hình thức) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định Loại hình thức của giao dịch Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. (Đề cập đến luật giao dịch điện tử) Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (+ Bỏ hình thức văn bản không có công chứng chứng thực như: văn bản viết tay, văn bản đánh máy + không coi xin phép là một hình thức nữa) Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Nguyên tắc cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại và điều kiện để hợp đồng thương mại có hiệu lực?
Tìm hiểu một số nguyên tắc cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại? Các điều kiện cơ bản để một hợp đồng thương mại được coi là có hiệu lực? Nguyên tắc cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại? Về nguyên tắc, hợp đồng thương mại vẫn tuân theo các quy định cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015 để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng. Do đó, các nguyên tắc trong Bộ luật Dân sự 2015 áp dụng cho hợp đồng dân sự cũng được áp dụng cho hợp đồng thương mại. Khi giao kết hợp đồng thương mại, cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất, tự do giao kết hợp đồng nhưng không được vi phạm các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Đây là nguyên tắc áp dụng chung cho cả hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Các bên có quyền tự do thể hiện ý chí, lựa chọn giao kết hay không giao kết hợp đồng, cũng như thỏa thuận về các điều khoản trong hợp đồng để đàm phán. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng không được trái với quy định của pháp luật và phải tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức xã hội. Thứ hai, các bên tham gia giao kết hợp đồng phải tự nguyện, thiện chí, trung thực và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Mục đích chính của việc tham gia hợp đồng thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận, do đó các bên cần đàm phán các điều khoản sao cho có lợi nhất cho mình. Tuy nhiên, sự thương lượng phải dựa trên tính trung thực, tự nguyện và thiện chí. Không bên nào được phép sử dụng các biện pháp như đe dọa, lừa dối, hay cưỡng ép bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng. Nếu có sự gian lận, đe dọa hoặc các hành vi ép buộc, hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Do đó, các bên cần chú trọng đến tính trung thực và thiện chí nhằm đạt được lợi ích chung. Điều kiện để hợp đồng thương mại có hiệu lực? Điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự thông thường được quy định chung tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015: “Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Theo đó, hợp đồng thương mại được xác định là một giao dịch dân sự thuần tùy nên sẽ phải thỏa các điều kiện trên. Cụ thể, ba điều kiện cơ bản để một hợp đồng thương mại được coi là có hiệu lực: Chủ thể tham gia phải đảm bảo năng lực hành vi dân sự: Mọi chủ thể tham gia ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự, tức là có khả năng thực hiện hành vi trong trạng thái tỉnh táo, không bị ép buộc hoặc đe dọa. Trong số các chủ thể tham gia giao kết, phải có ít nhất một chủ thể có tư cách thương nhân, như quy định tại Điều 7 của Luật Thương mại 2005. Nội dung hợp đồng phải phù hợp với pháp luật: Tất cả các điều khoản trong hợp đồng thương mại cần tuân thủ quy định của pháp luật và đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nội dung hợp đồng cần có sự thống nhất giữa các bên tham gia, và phải nêu rõ một số yếu tố cơ bản như loại hàng hóa, dịch vụ, giá cả, số lượng cụ thể, hình thức và thời điểm thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như phương thức giải quyết tranh chấp nếu phát sinh. Hình thức của hợp đồng: Hợp đồng thương mại cần được lập theo hình thức mà pháp luật công nhận. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 chưa có quy định chung về hình thức hợp đồng thương mại, do đó, tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể, các bên cần tuân thủ các quy định liên quan. Ví dụ, với hợp đồng bảo hiểm, hình thức giao kết bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? GDDS vô hiệu và hậu quả pháp ký khi GDDS vô hiệu?
Giao dịch dân sự là gì? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự (“GDDS”) là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Trong đó, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: +) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. +) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện. Sư tự nguyện ở đây được hiểu là sự tự do định đoạt ý chí, không bị ép buộc, dọa nạt, lừa dối và không bị người khác áp đặt ý chí. +) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của giao dịch dân sự được xác định là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 118 Bộ luật Dân sự 2015). Trong đó, điều cấm của luật được hiểu là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; Đạo đức xã hội được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. - Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Về nguyên tắc, giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015). Bên cạnh đó, Điều 120 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự có điều kiện như sau: - Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. - Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự 2015 (như đã phân tích cụ thể bên trên) thì sẽ được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có đưa ra quy định khác. Lưu ý, Giao dịch dân sự cũng có thể vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch (Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự 2015). Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được hướng dẫn giải quyết tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. - Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. - Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. - Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định.
Biên bản họp gia đình về việc phân chia thừa kế có hiệu lực ràng buộc không?
Ông A và và B là vợ chồng, cả 2 đã mất có với nhau 7 người con. Trước lúc mất tài sản ông bà đã chia cho 3 người con mỗi người một phần tài sản còn 4 người còn lại vẫn chưa được chia. Người con út sống cùng ông bà là người quản lý di sản và sử dụng đến nay được 27 năm. Người con út muốn sang tên từ cha mình sang mình nên đã họp mặt anh chị em lại và thỏa thuận. Biên bản thỏa thuận nêu rõ mỗi người con sẽ được 1 phần đất còn lại sẽ thuộc về người con út. Biên bản có 2 người hàng xóm của người con út làm chứng và có xác nhận của trưởng ấp tại nơi có tài sản. Sau này 6 người con trên đòi thêm đất. Vậy người con út này phải làm sau ạ? Nếu phát sinh tranh chấp thì những người đã được chia phần trước đó có được chia nữa không? Biên bản họp gia đình có hiệu lực ràng buộc hay không ạ? Mong được sự giúp đỡ từ luật sư.
04 điều kiện khi lập di chúc viết tay để đúng luật
>>> Khác biệt giữa “Thừa kế theo di chúc” và “Thừa kế theo pháp luật” >>> Khác biệt giữa “Di chúc”, “Di tặng” và “Tặng cho tài sản” >>> Chi tiết tính hợp pháp của di chúc theo BLDS 2015 Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người trước khi chết nhằm chuyển tài sản của mình cho người những người thừa kế sau khi chết. Hiện nay, pháp luật ghi nhận hình thức của di chúc gồm 02 loại: di chúc miệng và di chúc bằng văn bản. Trong đó, đối với di chúc bằng văn bản, việc lập di chúc có thể thực hiện bằng việc đánh máy hoặc tự viết tay. Vậy, khi lâp di chúc viết tay, cần lưu ý gì để bản di chúc có hiệu lực pháp luật. Mọi người cùng tìm hiểu thêm về vấn đề này qua bài viết dưới đây nhé! Thứ nhất: Đảm bảo điều kiện về chủ thể Điều kiện về chủ thể là vấn đề đầu tiên cần quan tâm trước khi tiến hành lập di chúc. Người lập di chúc cần phải đảm bảo: + Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Vấn đề đặt ra ở đây là người như thế nào được xem là minh mẫn, sáng suốt? Người minh mẫn; sáng suốt có thể hiểu là những người đảm bảo khả năng nhận thức và làm chủ hành vi như người thành niên bình thường. Theo đó, đối tượng được lập di chúc gồm những người thành niên không thuộc trường hợp: người bị mất năng lực hành vi dân sự hay đang trong tình trạng không tỉnh táo (trường hợp của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ). Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ đảm bảo. Chỉ do nghiện chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản gia đình nên mới bị hạn chế năng lực hành vi. Họ vẫn được xem là minh mẫn, sáng suốt. Vì thế, di chúc của họ lập vẫn được chấp nhận miễn đảm bảo điều kiện “có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật” (khoản 2 Điều 24 Bộ luật dân sự 2015). + Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc: Quy định về sự kiểm soát này là hợp lý do đối tượng này chưa hoàn thiện khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. >>>Thứ hai: Vấn đề người làm chứng Di chúc viết tay có hai dạng là tự người để lại di sản viết hoặc nhờ người khác viết thay: + Với trường hợp tự người để lại di sản viết thì không cần người làm chứng. + Với trường hợp nhờ người khác viết thì đòi hỏi phải có người làm chứng. Theo Điều 634 BLDS 2015 thì trường hợp này cần có trên hai người làm chứng cho quá trình viết di chúc. Người làm chứng cần đảm bảo điều kiện sau: Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Theo đó, hai người làm chứng được mời tham gia phải là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc diện người thừa kế hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc. Có thể thấy, những người làm chứng này là những người không có liên quan đến việc chia thừa kế. Quy định này bảo đảm cho di chúc được thể hiện đúng ý chí của người lập di chúc; những người làm chứng sẽ không bị lợi ích ảnh hưởng. >>>Thứ ba: Nội dung di chúc Khi tiến hành viết di chúc, cần đảm bảo các thông tin sau: Điều 631. Nội dung của di chúc 1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: a) Ngày, tháng, năm lập di chúc; b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di sản. 2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác. Những nội dung quy định tại khoản 1 Điều 631 trên là những nội dung cơ bản mà một bản di chúc phải thể hiện được; trong đó quan trọng bậc nhất chính là việc phân chia di sản như nào cho những người thừa kế. Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người lập di chúc. Ngoài những nội dung tại khoản 1 thì người lập di chúc có thể thêm một số nội dung khác như: di sản dùng vào việc thờ cúng; việc di tặng. Vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng sẽ phải tuân theo các quy định tại Điều 645 và Điều 646 Bộ luật dân sự 2015. Lưu ý rằng: - Trong quá trình viết tay di chúc; không được viết tắt hay viết bằng kí hiệu. Điều này nhằm đảm bảo thể hiện rõ được ý chí của người lập di chúc. Do việc viết tắt hay kí hiệu dễ dẫn đến hiểu lầm, qua đó gây ra khó khăn cho việc giải thích cũng như dễ phát sinh tranh chấp. - Với những di chúc nhiều trang thì phải ghi số thứ tự các trang; tránh trường hợp có những trang bị xé để cho kẻ khác chuộc lợi. - Nếu có sửa chữa, tẩy xóa trong di chúc thì phải có chữa kí của người tự viết hoặc người làm chứng bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa đó. Qua đó đảm bảo việc nội dung ở chỗ tẩy xóa, sửa chữa đúng theo ý chí của người lập di chúc lúc viết. Tránh trường hợp có người can thiệp vào nội dung di chúc. >>>Thứ tư: Xác nhận việc lập di chúc Cuối di chúc viết tay, phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Với trường hợp có người làm chứng thì cần thêm sự xác nhận và chữ ký của họ trong di chúc. Đây là những đảm bảo rằng di chúc được viết ra đúng với ý chí của người để lại di sản thừa kế. Cần lưu ý: Trường hợp người lập di chúc là người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ thì phải có người làm chứng và di chúc phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực (khoản 3 Điều 630 BLDS 2015). Với trường hợp này, chỉ khi được công chứng; chứng thực thì di chúc mới được coi là hợp pháp. Còn trong các trường hợp còn lại thì pháp luật không đặt ra vấn đề công chứng, chứng thực; việc đem di chúc đi công chứng; chứng thực chỉ làm tăng tính xác thực của di chúc.
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Bộ luật dân sự 2015
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 116 Bộ luật dân sự 2015). So với Bộ Luật dân sự 2005 thì BLDS 2015 có một số thay đổi về vấn đề liên quan quy định về giao dịch dân sự trong đó vấn đề điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cũng có sự thay đổi sau nhất định BLDS 2015: Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. BLDS 2005: Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định. Phân tích: Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự BLDS 2015 so với BLDS 2005 BLDS 2015 BLDS 2005 Năng lực xác lập giao dịch Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập (theo hướng thêm điều kiện năng lực pháp luật) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự Điều cấm của luật Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật (khắc phục sự hạn chế tự do như quy định BLDS 2005, và theo như tinh thần điều 123 BLDS 2015 điều cấm của luật là những quy định luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, Mục đích của giao dịch Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật ( điều 118, BLDS 2015) Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. (Điều 123 BLDS 2005) Giới hạn tự do về hình thức Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. (làm hẹp đi yêu cầu về hình thức) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định Loại hình thức của giao dịch Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. (Đề cập đến luật giao dịch điện tử) Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (+ Bỏ hình thức văn bản không có công chứng chứng thực như: văn bản viết tay, văn bản đánh máy + không coi xin phép là một hình thức nữa) Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.