Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định: “Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng là hành vi của doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện dưới một trong các hình thức sau: 1. Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. 2. Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào.’’ Dấu hiệu nhận dạng hành vi là: Đơn phương thay đổi hợp đồng ở đây có thể được hiểu bao gồm thay đổi về nội dung hoặc thay đổi về chủ thể của hợp đồng. Doanh nghiệp độc quyền đã không có lý do chính đáng khi thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã ký kết. Doanh nghiệp độc quyền không có lý do chính đáng khi: Không cần thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. Căn cứ vào một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. Đối với doanh nghiệp độc quyền, họ là người duy nhất cung ứng hàng hóa dịch vụ đó trên thị trường, lợi dụng yếu tố này họ có thể tự nhiên thay đổi, chấm dứt hợp đồng mà không có lý do và không cần thông báo. Như vậy, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đưa ra điều kiện cần để xác định dấu hiệu ‘’không có lý do chính đáng’’ của hành vi thể hiện ở cả góc độ hình thức lẫn góc độ nội dung. Dưới góc độ hình thức (thủ tục), đó là doanh nghiệp có vị trí độc quyền đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo trước. Dưới góc độ nội dung, lý do không được coi là chính đáng nếu không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng. Dù dưới góc độ nào thì điều kiện đủ để xác định hành vi vi phạm này là doanh nghiệp có vị trí độc quyền không phải chịu biện pháp chế tài nào.
Hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền (Điều 4 Luật cạnh tranh 2004) có nhiều tác động tiêu cực đến thị trường như: khi các doanh nghiệp có vị trí độc quyền thường tìm mọi cách để duy trì vị trí của mình bằng cách tiêu diệt các đối thủ tiềm năng, ngăn chặn việc tham gia vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới…Hay như việc các doanh nghiệp vị trí độc quyền thường sử dụng lợi thế này để tự định giá hàng hóa độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng hóa để tăng giá bán nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ…Tình trạng này kéo dài sẽ tạo ra khan hiếm hàng hóa, giá cả leo thang và dẫn đến lạm phát, gây mất ổn định nền kinh tế, đặc biệt gây ra những hậu quả sau: Thứ nhất, trong quan hệ cạnh tranh với đối thủ, các doanh nghiệp đã sử dụng lợi thế mà quyền lực thị trường đem lại để thực hiện các chiến lược cạnh tranh tiềm năng. Trong những trường hợp này, doanh nghiệp đã làm giảm, làm cản trở sự phát triển tình trạng cạnh tranh thị trường…gây ra tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh đối với các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác Thứ hai, hành vi lạm dụng đem lại lợi ích cho doanh nghiệp không từ hiệu quả kinh doanh mà từ những điều kiện thương mại bất lợi mà khách hàng phải gánh chịu. Lợi ích mà doanh nghiệp thu được có thể là các khoản lợi nhuận độc quyền, khả năng khống chế các yếu tố của thị trường như nguyên, vật liệu, nguồn cung…các chiến lược kinh doanh ở những thị trường khác được thực hiện….Điều này cho thấy bản chất bóc lột của hành vi lạm dụng bởi các khoản lợi ích mà doanh nghiệp thu được là do đã bóc lột được từ khách hàng bằng những nghĩa vụ vô lý hoặc không công bằng. Thứ ba, khi thực hiện hành vi lạm dụng, các doanh nghiệp đã vi phạm nghĩa vụ đặc thù của doanh nghiệp có vị trí độc quyền “không được làm giảm mức độ cạnh tranh hiện có trên thị trường”…điều này làm sai lệch, cản trở hoặc làm giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan. Thứ tư, gây thiệt hại đối với Nhà nước, đó là không phát triển khoa học công nghệ, lãng phí nguồn lực và giảm các nguồn thu từ thuế.
Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định: “Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng là hành vi của doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện dưới một trong các hình thức sau: 1. Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. 2. Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào.’’ Dấu hiệu nhận dạng hành vi là: Đơn phương thay đổi hợp đồng ở đây có thể được hiểu bao gồm thay đổi về nội dung hoặc thay đổi về chủ thể của hợp đồng. Doanh nghiệp độc quyền đã không có lý do chính đáng khi thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã ký kết. Doanh nghiệp độc quyền không có lý do chính đáng khi: Không cần thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. Căn cứ vào một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. Đối với doanh nghiệp độc quyền, họ là người duy nhất cung ứng hàng hóa dịch vụ đó trên thị trường, lợi dụng yếu tố này họ có thể tự nhiên thay đổi, chấm dứt hợp đồng mà không có lý do và không cần thông báo. Như vậy, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đưa ra điều kiện cần để xác định dấu hiệu ‘’không có lý do chính đáng’’ của hành vi thể hiện ở cả góc độ hình thức lẫn góc độ nội dung. Dưới góc độ hình thức (thủ tục), đó là doanh nghiệp có vị trí độc quyền đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo trước. Dưới góc độ nội dung, lý do không được coi là chính đáng nếu không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng. Dù dưới góc độ nào thì điều kiện đủ để xác định hành vi vi phạm này là doanh nghiệp có vị trí độc quyền không phải chịu biện pháp chế tài nào.
Hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền (Điều 4 Luật cạnh tranh 2004) có nhiều tác động tiêu cực đến thị trường như: khi các doanh nghiệp có vị trí độc quyền thường tìm mọi cách để duy trì vị trí của mình bằng cách tiêu diệt các đối thủ tiềm năng, ngăn chặn việc tham gia vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới…Hay như việc các doanh nghiệp vị trí độc quyền thường sử dụng lợi thế này để tự định giá hàng hóa độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng hóa để tăng giá bán nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ…Tình trạng này kéo dài sẽ tạo ra khan hiếm hàng hóa, giá cả leo thang và dẫn đến lạm phát, gây mất ổn định nền kinh tế, đặc biệt gây ra những hậu quả sau: Thứ nhất, trong quan hệ cạnh tranh với đối thủ, các doanh nghiệp đã sử dụng lợi thế mà quyền lực thị trường đem lại để thực hiện các chiến lược cạnh tranh tiềm năng. Trong những trường hợp này, doanh nghiệp đã làm giảm, làm cản trở sự phát triển tình trạng cạnh tranh thị trường…gây ra tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh đối với các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác Thứ hai, hành vi lạm dụng đem lại lợi ích cho doanh nghiệp không từ hiệu quả kinh doanh mà từ những điều kiện thương mại bất lợi mà khách hàng phải gánh chịu. Lợi ích mà doanh nghiệp thu được có thể là các khoản lợi nhuận độc quyền, khả năng khống chế các yếu tố của thị trường như nguyên, vật liệu, nguồn cung…các chiến lược kinh doanh ở những thị trường khác được thực hiện….Điều này cho thấy bản chất bóc lột của hành vi lạm dụng bởi các khoản lợi ích mà doanh nghiệp thu được là do đã bóc lột được từ khách hàng bằng những nghĩa vụ vô lý hoặc không công bằng. Thứ ba, khi thực hiện hành vi lạm dụng, các doanh nghiệp đã vi phạm nghĩa vụ đặc thù của doanh nghiệp có vị trí độc quyền “không được làm giảm mức độ cạnh tranh hiện có trên thị trường”…điều này làm sai lệch, cản trở hoặc làm giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan. Thứ tư, gây thiệt hại đối với Nhà nước, đó là không phát triển khoa học công nghệ, lãng phí nguồn lực và giảm các nguồn thu từ thuế.