Các tội phạm liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội
“Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác” là 1 trong 10 lời thề danh dự của quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Vậy, có các tội phạm nào liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội? Các tội phạm liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội Mệnh lệnh là một nét đặc trưng trong môi trường quân đội. Mệnh lệnh đưa ra phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và được đảm bảo thi hành. Các trường hợp ra mệnh lệnh trái pháp luật hoặc chống đối mệnh lệnh hoặc không chấp hành nghiêm chỉnh đều sẽ bị xử lý theo quy định của quân đội hoặc nặng hơn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Để đảm bảo tính nghiêm minh của mệnh lệnh trong Quân đội, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định 03 tội danh liên quan tại Điều 393, Điều 394 và Điều 395 sau đây: (1) Tội ra mệnh lệnh trái pháp luật - Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: + Trong chiến đấu; + Trong khu vực có chiến sự; + Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; + Trong tình trạng khẩn cấp; + Gây hậu quả rất nghiêm trọng. - Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. (2) Tội chống mệnh lệnh - Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: + Là chỉ huy hoặc sĩ quan; + Lôi kéo người khác phạm tội; + Dùng vũ lực; + Gây hậu quả nghiêm trọng. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: + Trong chiến đấu; + Trong khu vực có chiến sự; + Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; + Trong tình trạng khẩn cấp; + Gây hậu quả rất nghiêm trọng. - Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. (3) Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh - Người nào chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền một cách lơ là, chậm trễ, tùy tiện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: + Trong chiến đấu; + Trong khu vực có chiến sự; + Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; + Trong tình trạng khẩn cấp; + Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. "Quân lệnh như sơn", một khi nhận được mệnh lệnh quân sự của người chỉ huy hoặc cấp trên thì phải tuyệt đối tuân theo và thi hành một cách đúng đắn. Theo đó, sẽ có 03 tội danh liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội theo quy định trên. Những ai phải chịu trách nhiệm về những tội danh liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội? Theo Điều 392 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân - Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng. - Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện. - Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. - Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội. Như vậy, Quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng, dân quân, tự vệ và công dân được trưng tập sẽ là những người phải chịu trách nhiệm khi vi phạm các tội phạm liên quan đến mệnh lệnh trong quân đội nói riêng và các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói chung.
Khi nào sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp?
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là gì và khi nào thì cơ quan công an sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp? Được giữ người trong trường hợp khẩn cấp bao lâu? Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là gì? Theo Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về các biện pháp ngăn chặn như sau: - Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. - Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Như vậy, giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một biện pháp ngăn chặn nhằm ngăn chặn những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chuẩn bị xảy ra hoặc đã xảy ra. Khi nào sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp? Theo khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người: - Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; - Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Như vậy, những người có thẩm quyền sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp khi thuộc các trường hợp trên. Được giữ người trong trường hợp khẩn cấp bao lâu? Theo khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: - Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. - Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. - Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Như vậy, có thể nói thời hạn giữ người trong trường hợp khẩn cấp là 12 giờ kể từ khi giữ người hoặc nhận người bị giữ, nếu không có quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ thì người bị dự sẽ được trả tự do
Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội?
Phạm tội chưa đạt là gì? Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết về hai thuật ngữ này. Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều là hai khái niệm pháp lý quan trọng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, hai khái niệm này có những điểm khác biệt cơ bản về mặt bản chất và hậu quả pháp lý Hiểu rõ sự khác biệt giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về hành vi phạm tội và trách nhiệm pháp lý của người phạm tội. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh. (1) Điểm giống nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội - Hành vi chưa hoàn thành: Cả hai trường hợp đều liên quan đến những hành vi phạm tội chưa được hoàn thành. Đều có kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. - Ý định phạm tội: Ban đầu, người phạm tội đều có ý định thực hiện hành vi phạm tội. Ý định này có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện một hành vi bị pháp luật cấm. - Quá trình thực hiện hành vi: Trong cả hai trường hợp, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện một phần hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nguyên nhân và hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Dưới đây là phân tích chi tiết về những điểm giống nhau giữa hai khái niệm này và các ví dụ minh họa. (2) Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Phạm tội chưa đạt Tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Căn cứ pháp lý Điều 15 BLHS năm 2015 Điều 16 BLHS năm 2015 Khái niệm Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp một người tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù khách quan không có gì ngăn cản. Bản chất Thực hiện một phần hành vi phạm tội nhưng chưa hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Tự nguyện ngừng hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan, không nằm trong ý muốn của người phạm tội Nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ ý chí của người phạm tội Hậu quả pháp lý Căn cứ theo Điều 15 BLHS năm 2015, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Bên cạnh đó, Điều 57 BLHS năm 2015 quy định như sau: -Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. -Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Căn cứ theo Điều 16 BLHS năm 2015, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ Anh A có ý định trộm cắp tài sản của nhà B. A đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ và đột nhập vào nhà B. Tuy nhiên, khi A đang tìm kiếm tài sản để trộm, B trở về nhà và phát hiện ra hành vi của A. A bị bắt giữ trước khi kịp lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, A đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng chưa hoàn thành do bị phát hiện và ngăn cản bởi B. Đây là phạm tội chưa đạt vì hành vi phạm tội chưa được hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Anh C cũng có ý định trộm cắp tài sản của nhà D. C đã chuẩn bị dụng cụ và đột nhập vào nhà D. Tuy nhiên, sau khi vào nhà D và chuẩn bị lấy tài sản, C tự suy nghĩ lại và quyết định không thực hiện hành vi trộm cắp nữa. C rời khỏi nhà D mà không lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, C đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng tự nguyện ngừng lại và không tiếp tục hành vi. Đây là tự ý chấm dứt phạm tội vì C tự nguyện ngừng thực hiện hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Xem và tải bảng phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội:https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/15/bang-phan-biet-toi-pham-tu-dung-nua-chung.docx Tóm lại, mặc dù phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều có điểm chung là kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này có nhiều điểm khác nhau về khái niệm, bản chất, nguyên nhân và hậu quả pháp lý.
Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm
Bài viết sau đây sẽ chỉ ra cách phân biệt giữa tố giác và tin báo tội phạm và những nguyên tắc cần phải đảm bảo của cơ quan và cán bộ khi tiếp nhận tố giác và tin báo tội phạm. (1) Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm Tiêu chí Tố giác Tin báo tội phạm Khái niệm Điều 144 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Theo đó, nhìn chung tin báo về tội phạm và tố giác về tội phạm đều là một trong những nguồn tin về tội phạm. Chủ thể Cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng. Ngoài cá nhân, chủ thể báo tin về tội phạm còn có thể bao gồm cơ quan, tổ chức. Yếu tố phát hiện hành vi Chủ thể phải là người phát hiện, có thể là bị hại hoặc người trực tiếp chứng kiến hành vi có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Chủ thể có thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm như được nghe lại, kể lại, có thông tin từ người khác,... và trình báo lại cho cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, có thể thấy, tố giác tội phạm là sự tố cáo hành vi phạm tội của cá nhân nào đó với một cơ quan, tổ chức bất kỳ. Còn tin báo tội phạm là sự chuyển tiếp thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân hoặc những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó như qua thanh tra, kiểm tra,... Hoặc được phát hiện do hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (của các cơ quan thông tin đại chúng) đến với cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết theo quy định. (2) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nào? Căn cứ Điều 3 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định về nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau: Bên cạnh những nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì cơ quan và người có thẩm quyền tiếp nhận còn phải tuân thủ theo những nguyên tắc như sau: - Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận, phân loại, xử lý, kiểm tra, xác minh, giải quyết kịp thời, đúng thời hạn theo quy định, không để lọt tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, không làm oan người hoặc pháp nhân thương mại vô tội. - Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật; những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh. - Việc bảo vệ người tố giác, báo tin về tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác phải được thực hiện theo đúng quy định tại Chương XXXIV Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, khi tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc như đã nêu trên. (3) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì phải đảm bảo ghi lại những thông tin nào? Căn cứ Khoản 3 Điều 5 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận phải ghi chép vào sổ tiếp nhận đầy đủ các thông tin như sau: - Thời gian tiếp nhận thông tin, họ tên cán bộ tiếp nhận. - Họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số CMND/CCCD, ngày, tháng, năm, đơn vị cấp của người tố giác, báo tin. - Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc. - Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc. - Các thông tin khác có liên quan (nếu có) như: họ tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, người làm chứng, bị hại, hướng bỏ trốn của đối tượng, công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, những việc đã làm tại hiện trường khi phát hiện vụ việc,... - Lý do người tố giác, báo tin biết được vụ việc đó, những ai cùng biết vụ việc đó. Trường hợp nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì cán bộ tiếp nhận vẫn phải tiến hành tiếp nhận và ghi rõ lý do từ chối. Theo đó, sau khi đã tiếp nhận thông tin thì cán bộ tiếp nhận viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý. Như vậy, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận cần phải đảm bảo ghi lại đầy đủ những thông tin như đã nêu trên.
Biện pháp ngăn chặn có bị hủy bỏ khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra?
Khi đình chỉ điều tra, cơ quan điều tra sẽ ngưng lại việc điều tra vụ án, vậy khi đó những biện pháp ngăn chặn được áp dụng cho người bị điều tra có được hủy bỏ không? (1) Các trường hợp đình chỉ điều tra Đình chỉ điều tra là việc cơ quan điều tra quyết định ngừng việc điều tra vụ án, điều tra bị can của vụ án khi có các căn cứ pháp lý để xác định rằng vụ án không có dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không thể xác định người có hành vi phạm tội hoặc người phạm tội đã chết, người yêu cầu khởi tố rút đơn yêu cầu, hết thời hạn điều tra mà không đủ chứng cứ buộc tội,... Theo quy định tại Điều 230 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp: - Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự 2015; - Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, Điều 443 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng quy định các trường hợp mà cơ quan điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ điều tra: - Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra. Trường hợp này việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. - Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo là pháp nhân khi thuộc một trong các trường hợp: + Không có sự việc phạm tội; + Hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm; + Hành vi phạm tội của pháp nhân đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; + Hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được pháp nhân thực hiện tội phạm; + Hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, khi có các căn cứ pháp lý nêu trên thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với vụ án và bị can của vụ án. (2) Biện pháp ngăn chặn có bị hủy bỏ khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra không? Theo quy định tại Điều 109 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: - Giữ người trong trường hợp khẩn cấp - Bắt, tạm giữ, tạm giam - Bảo lĩnh - Đặt tiền để bảo đảm - Cấm đi khỏi nơi cư trú - Tạm hoãn xuất cảnh Vậy, trường hợp vụ án đã được cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra thì người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn kể trên có được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không? Theo khoản 2 Điều 33 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP có quy định về việc này như sau: "Khi ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, Cơ quan điều tra phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), xử lý vật chứng, những vấn đề khác có liên quan và thực hiện việc thông báo, gửi cho Viện kiểm sát theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015; đối với biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế do Viện kiểm sát phê chuẩn, Cơ quan điều tra phải có văn bản thông báo để Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ." Như vậy, khi có quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can thì cơ quan điều tra phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế để phục vụ quá trình điều tra. Bên cạnh đó, nếu việc áp dụng biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì cơ quan điều tra phải gửi văn bản thông báo đình chỉ điều tra cho VKS để VKS ra quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Tức nước vỡ bờ nghĩa là gì? Phòng vệ chính đáng có được xem là tội phạm không?
Khi nói về sự chịu đựng của con người, ông bà xưa có câu "Tức nước vỡ bờ". Vậy câu thành ngữ này mang ý nghĩa gì? 1. Tức nước vỡ bờ nghĩa là gì? "Tức nước vỡ bờ" là một thành ngữ quen thuộc trong tiếng Việt, được sử dụng để mô tả hiện tượng khi sự chịu đựng của con người bị đẩy đến giới hạn cực đoan, buộc họ phải vùng lên phản kháng quyết liệt. - Về mặt nghĩa đen: + Tức nước: nghĩa là nước dâng cao đến mức tràn bờ. + Vỡ bờ: nghĩa là bờ sông, đê bị nước dâng cao phá vỡ. - Về mặt nghĩa bóng: + Tức nước: là biểu tượng cho sự chịu đựng, nhẫn nhục đến mức tột cùng. + Vỡ bờ: là biểu tượng cho hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt. Nói theo nghĩa bóng, "Tức nước vỡ bờ" nghĩa là mỗi con người đều có mức giới hạn chịu đựng, vì vậy việc gì trong mức giới hạn thì người ta sẽ nhịn cho qua. Nhưng nếu chuyện xảy ra quá mức giới hạn cho phép của sức chịu đựng thì người ta sẽ phản kháng lại vô cùng mãnh liệt như chính sức mạnh dữ dội của nước làm cho vỡ bờ. Câu thành ngữ "tức nước vỡ bờ" mang ý nghĩa sâu sắc như: - Thể hiện quy luật tất yếu của xã hội: Khi bị áp bức, bóc lột quá mức, con người sẽ không thể mãi mãi cam chịu mà sẽ vùng lên đấu tranh để bảo vệ bản thân và quyền lợi của mình. - Khẳng định sức mạnh tiềm tàng của con người: Dù hiền lành, chất phác đến đâu, con người cũng có sức mạnh nội tại để phản kháng khi bị dồn vào đường cùng. - Là lời cảnh tỉnh cho những kẻ áp bức: Không nên ức hiếp người khác quá đáng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. 2. Phòng vệ chính đáng có được xem là tội phạm không? Theo Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: - Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. - Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Như vậy, có thể thấy hành vi phòng vệ chính đáng không được xem là tội phạm. Tuy nhiên, khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 thì phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể được xem là tình tiết để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 3. Một số tội phạm liên quan đến hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015? (1) Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: - Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. - Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. (2) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: - Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: + Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Tóm lại, câu thành ngữ "tức nước vỡ bờ" từ lâu đã trở thành một bài học quý giá về cuộc sống, được ông cha ta đúc kết và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nó không chỉ phản ánh một quy luật tất yếu trong tự nhiên mà còn ẩn chứa những ý nghĩa sâu sắc về sức mạnh của con người và bài học về cách sống.
Dự thảo: Phạt tù tối đa 9 năm đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội
Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên mới nhất quy định về hình phạt và thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội; thủ tục tố tụng đối với bị hại và người làm chứng; thi hành án... theo đó, đề xuất mức phạt tù tối đa 9 năm đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội là điểm đáng chú ý. Mức phạt tù tối đa đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi Điều 90 Dự thảo quy định người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: 1. Cảnh cáo. 2. Phạt tiền. 3. Cải tạo không giam giữ. 4. Tù có thời hạn. Điều 96 Dự thảo quy định mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định như sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật quy định. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định. Ngoài ra, tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội được quy định như sau: Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 15 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 09 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội. Giảm mức hình phạt Điều 98 Dự thảo quy định qiảm mức hình phạt đã tuyên như sau: - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại. Tha tù trước thời hạn Điều 99 Dự thảo quy định người chưa thành niên đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật Hình sự có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây: - Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; - Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù; - Có nơi cư trú rõ ràng. Việc tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 66 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, mức phạt tù tối đa đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi được đề xuất trong Dự thảo thấp hơn 03 năm so với quy định tại Khoản 2 Điều 101 Bộ Luật hình sự 2015 (đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù) Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên đang được hoàn thiện chuẩn bị trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 dự kiến khai mạc ngày 20/5/2024.
Người phạm tội không được xem xét cho hưởng án treo trong trường hợp nào?
Án treo là gì? Pháp luật quy định như thế nào về những trường hợp phạm tội không được xem xét cho hưởng án treo? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Án treo là gì? Theo Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định về khái niệm án treo cụ thể như sau: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Theo đó, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Dựa vào quy định trên có thể thấy được rằng án treo không phải là một hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá 03 năm. Xem bài viết liên quan: Trường hợp nào người phạm tội sẽ được hưởng án treo Quy định pháp luật về án treo theo BLHS 2015 Căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về án treo cụ thể như sau: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015. Những trường hợp nào phạm tội mà không được xem xét cho hưởng án treo? Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP sửa đổi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo, trong đó sửa đổi các trường hợp không cho hưởng án treo. Theo đó, người phạm tội không được xem xét cho hưởng án treo được quy định trong các trường hợp sau đây: (1) Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. (2) Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. (3) Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo. (4) Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi; - Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể. (5) Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi; - Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng; - Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể; - Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú. (6) Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Trên đây là một số thoongt in liên quan đến án treo và những trường hợp phạm tội không được hưởng án treo Xem bài viết liên quan: Người mắc bệnh hiểm nghèo có được giảm thời gian chấp hành án treo
Công an TPHCM cảnh báo người dân trước các chiêu trò lừa đảo trong dịp Tết 2024
Chiều 11/1/2023, UBND TP.HCM tổ chức họp báo thông tin về tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn thành phố. Tại hợp báo Công an TP.HCM cho biết, các loại tội phạm triệt để lợi dụng dịp cận Tết Nguyên đán để tạo ra các “câu chuyện lừa đảo” ngày càng tinh vi, dẫn dụ nạn nhân sập bẫy. Cụ thể, Phó trưởng Phòng Tham mưu Công an TP.HCM cho biết, trong giai đoạn gần Tết Nguyên đán, các loại tội phạm, nhất là tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng gia tăng. Các đối tượng sẽ triệt để lợi dụng chiêu trò ăn theo ngày Tết để tạo ra các “câu chuyện lừa đảo” ngày càng tinh vi, gắn với sự kiện, pháp nhân cụ thể để nạn nhân sập bẫy như: Đưa ra các chương trình “quà tặng, trúng thưởng Tết”, “khuyến mãi Tết”, “vé xe, vé máy bay Tết giá rẻ”… với những giải thưởng, mặt hàng có giá trị hấp dẫn, rẻ hơn so với giá thị trường qua đó tiếp cận, chào mời người dân tham gia, mua hàng và chiếm đoạt tài sản. Cũng theo ông Hà, những kẻ lừa đảo còn lợi dụng tâm lý người dân có “nhu cầu kiếm tiền” để đưa ra các hình thức: hướng dẫn hỗ trợ mở cửa hàng trực tuyến trên Amazon, Shopee; vào các sàn xem video, tương tác bài viết trên mạng, đánh giá sản phẩm, tìm kiếm đơn hàng ảo… rồi dẫn dụ đầu tư và chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra còn có hình thức lừa đảo như tuyển cộng tác viên làm online “việc nhẹ lương cao” như chạy quảng cáo, thanh toán đơn hàng cho sàn thương mại điện tử để nhận hoa hồng... Các đối tượng còn gọi điện, nhắn tin mời chào tham gia các “nhóm đầu tư thông minh”, “nhóm chuyên gia tài chính”, nhóm đầu tư chứng khoán quốc tế… Sau đó, chúng thao túng, dẫn dụ nạp tiền đầu tư vào các website, ứng dụng do đối tượng tự tạo lập để lừa tiền. Thậm chí, các đối tượng còn có thủ đoạn mua hàng Tết với số lượng lớn, sau đó sử dụng một số phần mềm tạo dựng biên lai thanh toán giả chuyển tiền rồi nhận hàng và nhanh chóng tẩu thoát. Ngoài việc ra quân trấn áp các loại tội phạm dịp cận Tết, Công an TP.HCM cũng cảnh báo người dân cảnh giác cao độ, tránh bị lừa. Theo đó, không tin vào lời mời tuyển dụng “việc nhẹ, lương cao” trên mạng xã hội. Chỉ tìm việc thông qua trung tâm giới thiệu việc làm của nhà trường, tổ chức chính trị xã hội… có địa chỉ, pháp nhân rõ ràng, nơi tuyển dụng phải có địa chỉ cụ thể. Không đăng nhập các đường link lạ do những người không quen biết gửi hoặc chỉ quen biết qua mạng xã hội. Trường hợp nghi vấn lừa đảo cần tham khảo ý kiến người thân trong gia đình, người hiểu biết hoặc liên hệ cảnh sát khu vực hoặc liên hệ cơ quan công an nơi gần nhất. Theo Báo Vietnamnet
Bộ Công an: Kể tên những thủ đoạn buôn bán người cần cảnh giác
Theo Bộ Công an, trong quý III/2023, lực lượng Công an đã tiếp nhận, giải quyết 92 tố giác, tin báo về tội phạm và kiện nghị khởi tố liên quan đến tội phạm mua bán người; phát hiện, điều tra 85 vụ/230 đối tượng phạm tội mua bán người xác định 224 nạn nhân bị mua bán. Cụ thể, theo Trung tướng Tô Ân Xô cho biết - người phát ngôn Bộ Công an: Tội phạm mua bán người là loại tội phạm có độ ẩn cao và có khả năng xảy ra trên các địa bàn như khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc ít người; trên các lĩnh vực như cho nhận con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài; đẻ thuê; cho, hiến tạng; xuất khẩu lao động, di cư (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) ra nước ngoài lao động làm thuê, du lịch, chữa bệnh, thăm thân… Trong Quý III/2023, tình hình tội phạm mua bán người tại Việt Nam tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Để chủ động phòng tránh với tội phạm mua bán người, Bộ Công an khuyến cáo, người dân cần nâng cao cảnh giác, nhất là đối với các hành vi thủ đoạn sau: -Tội phạm mua, bán người thường dùng tên, tuổi, địa chỉ giả; thường xuyên không cung cấp hình ảnh, số điện thoại; liên lạc chủ yếu qua mạng xã hội như Zalo, Facebook… - Đối tượng không hẹn gặp trực tiếp, chủ yếu hướng dẫn, liên lạc qua điện thoại, đặc biệt là các đối tượng dùng nhiều số điện thoại khác nhau, hoặc liên lạc qua mạng xã hội. - Dụ dỗ, hứa hẹn tìm những công việc nhẹ, lương cao, lấy chồng nước ngoài để có cuộc sống giàu sang. Các đối tượng yêu cầu nạn nhân cung cấp hình ảnh thông tin, địa chỉ để tổ chức xem mặt chọn vợ. Giả danh lực lượng chức năng để đe dọa nạn nhân, không hẹn làm việc tại các cơ quan nhà nước mà hướng dẫn gặp riêng bên ngoài. - Công việc, địa điểm làm việc mà các đối tượng dụ dỗ, hứa hẹn đưa nạn nhân đến làm việc thường không có địa chỉ cụ thể… Theo đó, Bộ Công an khuyến cáo người dân cần nâng cao cảnh giác khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm mua, bán người cần chủ động tố giác tội phạm, phối hợp đấu tranh ngăn chặn với loại tội phạm này. Cảnh giác thủ đoạn của các đối tượng mua bán người Nhằm dụ dỗ và thực hiện hành vi mua bán người, các đối tượng xấu thường sử dụng một số thủ đoạn sau đây: - Các đối tượng mua bán người thường lợi dụng khó khăn về kinh tế, sự nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác để lừa phụ nữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc; lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin (qua các trang mạng xã hội: Zalo, Facebook, Viber...) làm quen, giả vờ yêu đương, kết bạn nhằm môi giới hôn nhân nước ngoài trái phép; lợi dụng quy định về hiến ghép tạng, các đối tượng tìm gặp những nạn nhân khó khăn kinh tế có nhu cầu bán thận, thương lượng mua với giá rẻ, làm giả giấy tờ, con dấu, sau đó, bán cho những người bệnh với giá cao. - Các đối tượng lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình, nhà trường; thông qua các trang mạng xã hội như: Zalo, Facebook... tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, làm thuê thu nhập cao..., lừa nhiều em gái ở các tỉnh đưa về thành phố bán cho nhà hàng, quán karaoke hoặc để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động. - Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam và nhu cầu lao động ở nước ngoài, các đối tượng mua bán người đã tổ chức nhiều vụ đưa người trái phép ra nước ngoài lao động, khi ra nước ngoài, chúng thu giữ giấy tờ tùy thân, bán để cưỡng bức lao động, quỵt tiền lương hay báo cơ quan chức năng kiểm tra, bắt giữ và trục xuất về nước hoặc dùng bạo lực khống chế đòi tiền chuộc; xuất hiện các đường dây môi giới lập tài khoản trên mạng với tên giả; dùng “tiền” làm mồi nhử, thông qua mạng lưới cò mồi đến các địa phương, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa dụ dỗ, lôi kéo những người có nhu cầu xuất khẩu lao động với chi phí thấp, mức lương cao, thủ tục đơn giản, tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó, bán để cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, các đối tượng còn sử dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, sử dụng hình ảnh, tên, địa chỉ giả để kết bạn làm quen với những phụ nữ, trẻ em gái, tán tỉnh yêu đương hoặc những người có nhu cầu tìm việc làm ở nước ngoài với mức lương cao, sau đó hứa hẹn rồi dẫn họ tổ chức vượt biên sang Trung Quốc, Lào, Campuchia rồi chúng đón ép bán làm vợ, bán vào các ổ mại dâm, các sòng bài tại Campuchia, Myanrma. Ngoài ra, các đối tượng lập các trang mạng trên Facebook, Zalo để tìm kiếm người mang thai, sinh con ngoài ý muốn... sau đó dụ dỗ đưa họ sang nước ngoài sinh con để bán; hoặc cũng bằng thủ đoạn trên để tìm kiếm những người bị bệnh phải ghép tạng, môi giới cho những người muốn bán tạng để thực hiện việc mua bán mô, bộ phận cơ thể. Những trường hợp có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người Nạn nhân của tội phạm mua bán người thường tập trung ở những vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới (người dân tộc), đa phần trong số họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, gặp những chuyện éo le về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ, cả tin hoặc một số cô gái trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, dễ tin theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng người nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán. Nếu không may trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, nạn nhân cần làm gì? Giữ bình tĩnh, giữ thông tin bí mật không để các đối tượng nghi ngờ, tìm cách báo cho gia đình, người thân hoặc cơ quan nhà nước nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước sở tại về địa điểm, địa danh của mình để được hướng dẫn, giúp đỡ giải cứu an toàn. Có thể gọi điện thoại trực tiếp đến Tổng đài quốc gia 111 để được tư vấn, hỗ trợ. Về việc tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân được quy định tại Chương IV và Chương V của Luật phòng, chống mua bán người. Xem bài viết liên quan: Mức xử phạt đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi Nhận biết thủ đoạn thường sử dụng của các đối tượng mua bán người Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Bộ Công an triển khai 05 biện pháp phòng ngừa tội phạm giết người
Thời gian gần đây, tình trạng tội phạm giết người với tính chất côn đồ, dã man có những diễn biến phức tạp trên địa bàn các tỉnh, thành trong cả nước. Trước tình hình trên, Trung tướng Tô Ân Xô, Người phát ngôn Bộ Công an đã thông tin về một số giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa những vụ án giết người nghiêm trọng trong thời gian tới như sau: Một số vụ giết người đặc biệt nghiêm trọng gần đây Theo Người phát ngôn Bộ Công an, thời gian qua tại một vài địa phương đã xảy ra một số vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng gây xôn xao dư luận, như: - Vụ Giáp Thị Huyền Trang (sinh năm 1996, quê Bắc Giang) bắt cóc và giết bé gái ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội để đòi tiền chuộc 1,5 tỷ đồng. - Vụ đối tượng Tạ Duy Khanh (sinh năm 1985, quê Thái Bình) sát hại, phân mảnh thi thể nạn nhân phi tang ở sông Hồng. - Vụ nghi phạm Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm 1986, quê Thái Nguyên) sát hại bạn gái tại cửa hàng thời trang ở Bắc Ninh rồi tự tử. - Vụ Giàng A Lư (sinh năm 1995, ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La) dùng dao đâm vợ tử vong. - Vụ Sùng A Sú (sinh năm 1990, ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai) giết vợ rồi tự tử. Xác định tội phạm giết người là loại tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, sự bình yên cuộc sống của nhân dân. Bộ Công an đặc biệt quan tâm triển khai các biện pháp phòng ngừa, để kịp thời ngăn chặn từ sớm, không để xảy ra các vụ thảm án, các vụ án giết người nghiêm trọng; đồng thời triển khai quyết liệt các biện pháp tấn công, truy bắt, xử lý nghiêm minh để tạo sức trấn áp răn đe. 05 biện pháp nâng cao phòng ngừa tội phạm giết người Thời gian tới, để tiếp tục đấu tranh, phòng chống có hiệu quả hơn với tội phạm giết người, Bộ Công an sẽ đẩy mạnh các biện pháp sau: - Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng giáo dục học đường theo hướng cân bằng, coi trọng đồng bộ giữa giáo dục văn hóa và xây dựng nền tảng đạo đức. - Tăng cường năng lực cho lực lượng Công an cấp xã để chủ động nắm tình hình kịp thời, phát hiện, giải quyết sớm các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nhất là mâu thuẫn về tranh chấp đất đai, vay mượn tài sản... Phát huy vai trò các tổ hòa giải, các tổ chính trị - xã hội; không để xảy ra các mâu thuẫn bức xúc, kèo dài dẫn đến giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. - Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đối tượng ở địa bàn dân cư, nhất là người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy tại cộng đồng. Phối hợp các đơn vị chức năng đưa người mắc bệnh tâm thần vào các cơ sở điều trị, phối hợp quản lý chặt chẽ người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. - Phối hợp các ban ngành ở địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, nhất là pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình, phòng, chống bạo lực học đường. Chú trọng truyền thông trên các cổng thông tin đại chúng, trang mạng xã hội, hệ thống thông tin cơ sở; huy động sự tham gia của các doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, người có uy tín trong cộng đồng dân cư... để phối hợp tuyên truyền phòng ngừa tội phạm giết người. - Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý các vụ án giết người, nhất là các vụ án được dư luận xã hội quan tâm, không để tồn đọng các vụ án giết người không rõ thủ phạm. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an
Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
Kinh tế - xã hội càng phát triển cũng đồng nghĩa với việc xuất hiện nhiều loại tội phạm tinh vi, nguy hiểm. Tội phạm rửa tiền là một trong những loại tội phạm đó. Vậy pháp luật có các tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền như thế nào? 1. Nguyên tắc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền Theo Điều 3 Nghị định 19/2023/NĐ-CP, nguyên tắc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được quy định như sau: - Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo các tiêu chí, phương pháp được pháp luật quy định, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. - Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền phải xác định được mức độ rủi ro về rửa tiền của quốc gia. - Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện sau đánh giá và cập nhật chính sách, chiến lược về phòng, chống rửa tiền tương ứng trong từng thời kỳ. - Thông tin, tài liệu, dữ liệu phục vụ việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thu thập từ cơ sở dữ liệu của các cơ quan có thẩm quyền, đối tượng báo cáo, tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước trên nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo đảm tuân thủ các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước. 2. Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền Theo Điều 4 Nghị định 19/2023/NĐ-CP, tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được quy định như sau: - Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền bao gồm tiêu chí nguy cơ rửa tiền; tiêu chí mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền và tiêu chí hậu quả rửa tiền của quốc gia và của ngành, lĩnh vực. - Tiêu chí nguy cơ rửa tiền bao gồm tiêu chí nguy cơ rửa tiền từ tội phạm nguồn của tội rửa tiền và tiêu chí nguy cơ rửa tiền đối với ngành, lĩnh vực, cụ thể như sau: + Tiêu chí nguy cơ rửa tiền từ tội phạm nguồn của tội rửa tiền bao gồm nguy cơ rửa tiền từ từng tội phạm nguồn trong nước và xuyên quốc gia được đánh giá; + Tiêu chí nguy cơ rửa tiền đối với ngành, lĩnh vực bao gồm nguy cơ rửa tiền từ từng ngành, lĩnh vực trong nước và xuyên quốc gia được đánh giá. - Tiêu chí mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền bao gồm tính toàn diện của khuôn khổ pháp lý và tính hiệu quả của việc thực hiện quy định pháp luật, cụ thể như sau: + Tiêu chí tính toàn diện của khuôn khổ pháp lý bao gồm tính đầy đủ của các quy định pháp luật liên quan đến phòng, chống rửa tiền của quốc gia và của ngành, lĩnh vực; + Tiêu chí tính hiệu quả của việc thực hiện quy định pháp luật bao gồm tính hiệu quả của việc thực hiện quy định pháp luật của quốc gia; của ngành, lĩnh vực và mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền gắn với một số sản phẩm, dịch vụ chính của ngành, lĩnh vực. - Tiêu chí hậu quả của rửa tiền bao gồm: + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với nền kinh tế; + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với hệ thống tài chính; + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với ngành, lĩnh vực; + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với xã hội. 3. Thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền Việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền được quy định tại Điều 10 Nghị định 19/2023/NĐ-CP như sau: - Cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu, báo cáo lưu trữ tại tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật và thông tin, hồ sơ, tài liệu tổ chức, cá nhân tiếp nhận, thu thập được trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để phục vụ công tác phân tích, trao đổi, cung cấp và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. - Tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu cho Cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo đúng thời hạn yêu cầu. - Cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện xử lý, phân tích thông tin, báo cáo nhận được, bao gồm: + Phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin sẵn có và thu thập bổ sung để xác định các xu hướng và mô hình rửa tiền nhằm xây dựng chiến lược và mục tiêu phòng, chống rửa tiền trong ngành, lĩnh vực, quốc gia trong từng giai đoạn nhất định; + Phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin sẵn có và thu thập bổ sung để lần theo dấu giao dịch, xác định các mối liên hệ, các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền hoặc hoạt động tội phạm khác. Như vậy, rửa tiền là một hành vi phạm tội nguy hiểm, phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế và đẩy lùi sự phát triển của quốc gia. Do đó cần có những tiêu chí đánh giá rủi ro tại Điều 4 Nghị định 19/2023/NĐ-CP để có những biện pháp hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp pháp lý để kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi rửa tiền.
Mua bán thận có thể đi tù mấy năm?
Gần đây Công an Tp.HCM đang điều tra về một đường dây mua bán thận, đây là hành vi phạm tội theo quy định pháp luật hình sự. Như vậy thì những người có hành vi mua bán thận có thể phải đối mặt với những mức án nào? 1. Mua bán thận có thể phải đối mặt với những mức án nào? Thận là một trong những bộ phận cơ thể người, hành vi mua bán thận được xem là mua bán bộ phận cơ thể người thì căn cứ Điều 154 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người như sau: Người nào (người có năng lực trách nhiệm hình sự) mua bán thận người khác (nếu tự bán thận của mình thì không phạm tội này), thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Có tổ chức; Vì mục đích thương mại; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; Đối với từ 02 người đến 05 người; Phạm tội 02 lần trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Có tính chất chuyên nghiệp; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Đối với 06 người trở lên; Gây chết người; Tái phạm nguy hiểm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mua bán thận là bao lâu? Căn cứ Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, theo đó: - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: + 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; + 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; + 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; + 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. … Căn cứ theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về phân loại tội phạm như sau: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: - Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; - Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; - Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; - Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. … Từ các quy định trên thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mua bán thận sẽ tùy theo khung hình phạt của tội này, nếu: Phạm tội thuộc khung có hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm (Tội phạm nghiêm trọng) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm. Phạm tội thuộc khung có hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm (Tội phạm rất nghiêm trọng) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm. Phạm tội thuộc khung có hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 20 năm.
TANDTC giải đáp vướng mắc trong công tác xét xử lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự
Ngày 03/10/2023 TAND tối cao đã có Công văn 196/TANDTC-PC năm 2023 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Trong đó, có 09 vướng mắc trong công tác xét xử lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự được TAND tối cao giải đáp như sau: 1. Đập phá nhà công trình xây dựng trái phép có cấu thành tội phạm? Các đối tượng có hành vi lấn chiếm đất và đã xây dựng nhà, công trình, vật kiến trúc trái phép trên đất lấn chiếm. Sau đó, có một số đối tượng khác đến tiếp tục lấn chiếm trên những phần đất này và có hành vi đập phá nhà, công trình, vật kiến trúc đã xây dựng trái phép nêu trên. Hành vi đập phá nhà, công trình, vật kiến trúc xây dựng trái phép của các đối tượng trên có cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 không? Khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định: “Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ...” Các đối tượng xây dựng nhà, công trình, vật kiến trúc trái phép trên diện tích đất do Nhà nước quản lý là hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong Luật Đất đai 2013, Luật Xây dựng 2014 và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật đó như thế nào và bàng biện pháp gì là thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước. Việc các đối tượng khác đến tiếp tục lấn chiếm trên những phần đất này và có hành vi đập phá nhà, công trình, vật kiến trúc đã xây dựng trái phép nêu trên thì phạm tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. 2. Nhờ làm giả giấy tờ rồi sử dụng giấy tờ giả thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Bị cáo có hành vi nhờ người khác làm giả giấy đi đường, sau đó sử dụng giấy tờ giả đó để thực hiện hành vi trái pháp luật. Trường hợp này hành vi của bị cáo phạm hai tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” hay “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”? Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Đây là hai tội danh độc lập được quy định trong cùng một điều luật. Nếu các hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành hai tội này thì bị cáo phải bị truy tố, xét xử với hai tội danh độc lập, sau đó tổng hợp hình phạt. Trường hợp bị cáo không phải là người trực tiếp làm giả giấy đi đường mà chỉ có hành vi nhờ người khác làm giả giấy đi đường, sau đó sử dụng giấy đi đường để thực hiện hành vi trái pháp luật. Trường hợp này, bị cáo phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, mà không cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. 3. Làm giả chữ ký để cấp lại QSDĐ rồi vi phạm pháp luật thì tiêu hủy hay tịch thu? Người phạm tội giả chữ ký của người sử dụng đất để thực hiện thủ tục xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận QSDĐ, sau đó dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp này, khi xét xử thì xử lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó như thế nào? Hủy giấy chứng nhận QSDĐ theo Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 hay tịch thu, tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015? Theo Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TAND tối cao thì giấy chứng nhận QSDĐ là quyết định hành chính, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.” Như vậy, giấy chứng nhận QSDĐ là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chỉ có thể bị hủy bỏ khi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hoặc khi Tòa án giải quyết vụ việc dân sự hoặc bị thu hồi bởi chính cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai 2013. Do đó, trường hợp người phạm tội giả chữ ký của người sử dụng đất để thực hiện thủ tục xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này vào việc thực hiện hành vi phạm tội thì khi xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ đó (bản chất là thu hồi giá trị pháp lý của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) mà không tịch thu, tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Còn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà các cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là tài liệu của vụ án và phải được lưu trong hồ sơ vụ án. 4. Nhân viên chiếm đoạt tiền của công ty thì phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay tội “Tham ô tài sản”? Bị cáo là nhân viên thu tiền điện thoại, tiền cước viễn thông thực hiện việc thu tiền của khách hàng cho Công ty, nhưng sau khi thu được tiền của khách hàng, bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này, không nộp về cho Công ty. Hành vi của bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay tội “Tham ô tài sản”? Bị cáo là người được giao thực hiện nhiệm vụ thu tiền của khách, có trách nhiệm và trực tiếp quản lý tiền cước điện thoại, tiền cước viễn thông thu được. Bị cáo đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu được tiền của khách hàng, bị cáo không nộp về công ty mà chiếm đoạt số tiền này. Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 352, Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) và hướng dẫn tại khoản 5 Điều 2 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP thì hành vi của bị cáo phạm tội “Tham ô tài sản”. 5. Công chứng giấy tờ giả để bị cáo lừa đảo thì Văn phòng công chứng có liên đới chịu trách nhiệm? Bị cáo có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bị hại, trong đó, Văn phòng Công chứng thực hiện việc công chứng đối với hợp đồng, giấy tờ, tài liệu (do bị cáo làm giả), tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách nhiệm hình sự của Công chứng viên thì có buộc Công chứng viên chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho bị hại hay không? Bị cáo thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền của bị hại. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử không xem xét, xử lý hành vi vi phạm của Công chứng viên, nếu không có chứng cứ chứng minh Công chứng viên đồng phạm với bị cáo cũng như sử dụng số tiền bị cáo chiếm đoạt và Văn phòng Công chứng đã thực hiện công chứng theo quy định pháp luật, không thể biết được thủ đoạn gian dối của bị cáo để chiếm đoạt tiền của bị hại. Do đó, không thể buộc trách nhiệm liên đới của Công chứng viên phải bồi thường cho bị hại mà chỉ buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường (hoàn trả) số tiền đã chiếm đoạt của bị hại. 6. Xác định thẩm quyền xét xử bị cáo, bị hại hoặc tài sản có liên quan ở nước ngoài như thế nào? Bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được xác định như thế nào? Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài. “Ở nước ngoài” được hiểu là tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án thì bị cáo, bị hại, đương sự không có mặt trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để xác định “bị cáo, bị hại, đương sự hoặc tài sản liên quan đến vụ án ở nước ngoài” thì phải căn cứ vào vị trí địa lý của họ tại thời điểm giải quyết vụ án, cụ thể là[1]: - Bị cáo, bị hại, đương sự là người nước ngoài định cư, không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Bị cáo, bị hại, đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Bị cáo, bị hại, đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng đang ở nước ngoài vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 ở ngoài biên giới lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án. Xem thêm Công văn 196/TANDTC-PC năm 2023 ban hành ngày 03/10/2023.
Dấu hiệu đáng ngờ nào trong lĩnh vực ngân hàng cho biết đang có hành vi rửa tiền?
Hiện nay, nhiều đối tượng thực hiện những giao dịch bất chính thu được số lợi bất chính, sau đó thực hiện các hoạt động nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Vậy pháp luật quy định như thế nào về các dấu hiệu đáng ngờ của hành vi rửa tiền? Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản của hành vi rửa tiền? Căn cứ Điều 27 Luật Phòng chống rửa tiền 2022 có quy định về các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản của hành vi rửa tiền như sau: - Khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán. - Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính. - Số điện thoại do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không tồn tại số điện thoại này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch. - Giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo ủy quyền của tổ chức, cá nhân có trong Danh sách cảnh báo. - Giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan đến tổ chức, cá nhân có trong Danh sách cảnh báo. - Tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với hoạt động kinh doanh, thu nhập của tổ chức, cá nhân này. - Khách hàng yêu cầu đối tượng báo cáo thực hiện giao dịch không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật có quy định về những dấu hiệu cơ bản được xem là đáng ngờ khi khách hàng thực hiện giao dịch hoặc các hoạt động khác có dấu hiệu của hành vi rửa tiền nêu trên. Dấu hiệu đáng ngờ nào trong lĩnh vực ngân hàng cho biết đang có hành vi rửa tiền? Căn cứ Điều 28 Luật Phòng chống rửa tiền 2022 có quy định về các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng của hành vi rửa tiền như sau: - Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không. - Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo. - Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn bất thường, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường. - Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh. - Tài khoản của khách hàng đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn bất thường. Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu. - Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. - Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn. - Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng. - Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm. - Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay hoặc ủy thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch. - Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng đề nghị vay vốn không đầy đủ, không chính xác. - Có dấu hiệu nghi ngờ khách hàng sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động của tổ chức hoặc giao dịch thay cho đối tượng cá nhân khác. - Các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức Internet (sau đây gọi là địa chỉ IP) ở nước ngoài. Như vậy, pháp luật quy định các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng của hành vi rửa tiền nêu trên. Hành vi nào được xem là hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống rửa tiền? Căn cứ Điều 28 Luật Phòng chống rửa tiền 2022 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống rửa tiền như sau: - Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền. - Thiết lập, duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả. - Thiết lập, duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng vỏ bọc. - Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. - Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. - Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền. Như vậy, để đảm bảo hoạt động phòng, chống rửa tiền đúng theo quy định pháp luật, Nhà nước ta đã ban hành các quy định cấm trong hoạt động này để đảm bảo những người có thẩm quyền thực hiện đúng theo luật định. Từ những căn cứ nêu trên, có thể thấy Nhà nước ta đang đẩy mạnh hoạt động phòng chống rửa tiền nhằm ngăn chặn các hành vi hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có.
Người bị mắc bệnh hiểm nghèo có được miễn trách nhiệm hình sự?
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong Bộ luật Hình sự nhằm tạo quyền lợi cho các đối tượng đã phạm tội nhưng có hành động hối cải, ngăn chặn kịp thời hậu quả hoặc thể trạng, năng lực bị hạn chế so với người thường. Những trường hợp trên sẽ được Nhà nước ân hồng xem xét miễn trách nhiệm. Vậy người mắc bệnh hiểm nghèo có được miễn trách nhiệm hình sự? 1. Người bị mắc bệnh hiểm nghèo trong quá trình chấp hành án Trong quá trình người chấp hành án phạt tù mà phạm nhân mắc phải một số chứng bệnh được quy định là mắc bệnh hiểm nghèo thì theo khoản 4, Điều 4 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC là người đang bị mắc một trong các bệnh như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng sẽ được xem xét giảm hình phạt tù. 2. Người mắc bệnh hiểm nghèo có được miễn trách nhiệm hình sự? Cụ thể tại khoản 2 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định miễn trách nhiệm hình sự là việc miễn truy cứu TNHS cho người phạm tội “Nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Theo đó, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; - Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Do đó, người bị mắc bệnh hiểm nghèo sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự nếu bệnh của người này dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa. 3. Những loại bệnh nào được xem là bệnh hiểm nghèo? Các loại bệnh hiểm nghèo được xem xét miễn trách nhiệm hình sự vẫn chưa được các văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể. Tuy nhiên, trong một số văn bản pháp luật khác đã có những quy định về vấn đề này như Danh mục các loại bệnh hiểm nghèo ban hành kèm theo Công văn 6383/BTC-TCT năm 2015 có liệt kê 42 loại bệnh, bao gồm: Danh mục Bệnh hiểm nghèo 1. Ung thư 2. Nhồi máu cơ tim lần đầu 3. Phẫu thuật động mạch vành 4. Phẫu thuật thay van tim 5. Phẫu thuật động mạch chủ 6. Đột quỵ 7. Hôn mê 8. Bệnh xơ cứng rải rác 9. Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ 10. Bệnh Parkinson 11. Viêm màng não do vi khuẩn 12. Viêm não nặng 13. U não lành tính 14. Loạn dưỡng cơ 15. Bại hành tủy tiến triển 16. Teo cơ tiến triển 17. Viêm đa khớp dạng thấp nặng 18. Hoại thư do nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết 19. Thiếu máu bất sản 20. Liệt hai chi 21. Mù hai mắt 22. Mất hai chi 23. Mất thính lực 24. Mất khả năng phát âm 25. Thương tật toàn bộ và vĩnh viễn 26. Suy thận 27. Bệnh nang tủy thận 28. Viêm tụy mãn tính tái phát 29. Suy gan 30. Bệnh Lupus ban đỏ 31. Ghép cơ quan (ghép tim, ghép gan, ghép thận) 32. Bệnh lao phổi tiến triển 33. Bỏng nặng 34. Bệnh cơ tim 35. Bệnh Alzheimer hay sa sút trí tuệ 36. Tăng áp lực động mạch phổi 37. Bệnh rối loạn dẫn truyền thần kinh vận động 38. Chấn thương sọ não nặng 39. Bệnh chân voi 40. Nhiễm HIV do nghề nghiệp 41. Ghép tủy 42. Bại liệt Mặc dù không có văn bản hướng dẫn cụ thể bệnh hiểm nghèo hiện nay để được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo nhưng có thể căn cứ 42 loại bệnh trên thì người mắc bệnh có thể được miễn truy cứu trách nhiệm nếu không còn nguy hiểm cho xã hội.
Tổ chức các CLB phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật cho sinh viên
Ngày 07/7/2023 Bộ GD&ĐT vừa ban hành Quyết định 1977/QĐ-BGDĐT năm 2023 tải Phê duyệt Dự án “Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho học sinh, sinh viên đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, một số nhiệm vụ mà Bộ GD&ĐT đặt ra để phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật trong học đường bao gồm: (1) Tổ chức tuyên truyền về phòng ngừa tội phạm và phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật - Tuyên truyền các quy định của pháp luật về phòng, chống tội phạm; các quy chế, quy định về công tác đảm bảo an ninh, trật tự nhà trường, phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học; tuyên truyền về hậu quả, ảnh hưởng; các hành vi vi phạm pháp luật phổ biến; những âm mưu, thủ đoạn hoạt động của tội phạm và sự tác động, lôi kéo đối với người học; kỹ năng phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật; - Quán triệt trách nhiệm của các thành viên trong nhà trường đối với việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, tố giác tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật; - Tổ chức lồng ghép, gắn kết nội dung tuyên truyền phòng ngừa tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật thông qua các chương trình và hoạt động giáo dục của nhà trường; tuyên truyền, giáo dục thông qua hoạt động của Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Đội TNTP Hồ Chí Minh; - Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, hoạt động văn nghệ, giao lưu; các cuộc thi tìm hiểu dưới dạng bài viết hoặc sân khấu hoá, vẽ tranh, áp phích, sáng tác, biểu diễn tiểu phẩm về đề tài phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học; - Xây dựng tài liệu truyền thông dành cho thành viên trong nhà trường và gia đình người học về phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học; xây dựng tin, bài, phóng sự tuyên truyền về các gương người tốt, việc tốt, các mô hình, điển hình về công tác phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật của người học đang tải trên trang tin điện tử, cổng thông tin điện tử của nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội; - Tổ chức cho người học tham gia mô hình, sinh hoạt các câu lạc bộ về phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật của nhà trường. (2) Tích hợp nội dung giáo dục phòng ngừa tội phạm vào chương trình học - Tích họp, lông ghép nội dung giáo dục phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật vào chương trình giáo dục các môn học phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo; -Tăng cường tích hợp nội dung giáo dục phòng ngừa tội phạm, phòng, chống vi phạm pháp luật vào chương trình đào tạo giáo viên; - Xây dựng và triển khai chương trình, tài liệu giáo dục phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật thông qua các hoạt động trải nghiệm, hoạt động ngoại khóa dành cho người học. (3) Nâng cao năng lực của các thành viên trong nhà trường về công tác phòng ngừa tội phạm - Xây dựng tài liệu và tổ chức tập huấn, bồi dưỡng hằng năm cho cán bộ quản lý, nhà giáo về giáo dục phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vỉ phạm pháp luật cho người học; - Tổ chức tập huấn nghiệp vụ đảm bảo an ninh, trật tự trường học, phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác bảo vệ, thanh niên xung kích, thanh niên tình nguyện. (4) Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các cơ quan ban, ngành của địa phương - Tăng cường phối hợp giữa nhà trường và gia đình người học trong công tác quản lý, giáo dục không để người học phạm tội, vi phạm pháp luật và đặc biệt quan tâm đối với người học có hoàn cảnh đặc biệt; - Tổ chức ký cam kết giữa Nhà trường - Ban đại diện cha mẹ học sinh - Công an địa phương về thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật ở các cơ sở giáo dục phổ thông; ký cam giữa Nhà trường - Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của nhà trường - Công an địa phương về thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật ở các cơ sở giáo dục đại học; - Đẩy mạnh triển khai thực hiện các văn bản phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ GDĐT hướng dẫn phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác trong ngành Giáo dục. Phối hợp với ngành Công an thực hiện phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tô quốc” và nhân rộng mô hình liên kết giữa nhà trường với công an địa phương; - Phối hợp với công an địa phương triển khai tổ chức các mô hình Câu lạc bộ phòng, ngừa tội phạm ở nhà trường có đủ điều kiện nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của người học tham gia phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật. Chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các mô hình tự quản, tự phòng, tự bảo vệ trong nhà trường. Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân rộng mô hình hoạt động hiệu quả trong nhà trường; - Các cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương và nhà trường xây dựng văn bản phối hợp với các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể của địa phương và ban đại diện cha mẹ học sinh trong công tác phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học. Xem thêm Quyết định 1977/QĐ-BGDĐT năm 2023 tải có hiệu lực từ ngày ký.
Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Người dân nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì cần làm những gì và có được báo Công an hay không? Đây là vấn đề người dân thắc mắc và gửi câu hỏi đến Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cần giải đáp. Theo đó Bộ Công an có câu trả lời như sau: - Các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người: Theo khoản 1 Điều 150 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về tội mua bán người như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.” Như vậy, có thể hiểu các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người, gồm: Về mặt khách quan: + Các dấu hiệu về hành vi bao gồm: Hành vi chuyển giao và tiếp nhận người; các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao và tiếp nhận người. + Về thủ đoạn: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hay bằng các thủ đoạn khác như lợi dụng quyền lực, lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân, ép nạn nhân sử dụng bia, rượu hoặc chất kích thích.... Hoặc bất kỳ thủ đoạn nào khác để thực hiện hành vi chuyển giao tiếp nhận người. + Người bị hại phải đủ từ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp bị hại dưới 16 tuổi thì cấu thành tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” theo Điều 151 Bộ luật Hình sự và không nhất thiết phải chứng minh thủ đoạn. Về mặt chủ quan: + Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, biết được hành vi mua bán người là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. + Mục đích phạm tội: (1) để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (2) để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động; (3) để lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác như ép buộc đi ăn xin, ép buộc thực hiện các hành vi phạm tội, làm vật thí nghiệm, ép buộc tham gia chiến tranh... Mặt khách thể: Hành vi mua bán người xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, tính mạng, sức khỏe và danh dự của con người (nạn nhân). Mặt chủ thể: Bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách nhiệm về hành vi, nhận thức). - Nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì có được báo Công an để ngăn chặn hay không? Bộ Công an trả lời như sau: Pháp luật Việt Nam luôn khuyến khích động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân được tham gia tích cực vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người nói riêng. Trường hợp của người dân có ý kiến lên cổng TTĐT Bộ Công an, việc người dân phát hiện một phụ nữ gần nhà anh thường xuyên bị một người ở địa phương khác đến rủ đi lao động ở nước ngoài và anh nghi ngờ người đó đang có hành vi dụ dỗ người hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, anh hoàn toàn có quyền được đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan công quyền khác của Nhà nước như Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,... để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi ngờ của mình để các cơ quan này tiến hành các hoạt động điều tra xác minh và làm rõ có hay không có hành vi phạm tội mua bán người hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác để kịp thời xử lý. Mặt khác, nếu có thể anh nên gặp gỡ trực tiếp chị hàng xóm nghi là nạn nhân hoặc người thân của chị để nói lên những băn khoăn nghi ngờ của mình để người hàng xóm cảnh giác, tìm hiểu kỹ trước khi quyết định đi lao động nước ngoài, không để trở thành nạn nhân của mua bán người. - Theo đó, nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác mà không báo Công an để ngăn chặn thì có bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm không? Bộ Công an trả lời như sau: Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tại: Căn cứ tại Điều 18 quy định về Che giấu tội phạm, như sau: Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định. Đồng thời, tại Điều 19 cũng quy định về Không tố giác tội phạm Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này. Trường hợp của người dân mới chỉ là nghi ngờ về việc một người có hành vi dụ dỗ người phụ nữ hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, bản thân anh cũng không thể biết chính xác hành vi của người đến rủ chị hàng xóm đi lao động nước ngoài có đúng là để lừa bán hay không nên việc anh không đi trình báo Công an để ngăn chặn không bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm. Tuy nhiên, khi phát hiện hành vi dụ dỗ, tuyển mộ người đi lao động nước ngoài nghi ngờ là để bán, anh nên đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan chức năng khác để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi vấn của mình như đã nêu ở phần trên để các cơ quan này tiến hành điều tra xác minh xử lý. Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an
Người đã áp dụng biện pháp giáo dưỡng thì có xem là phạm tội lần đầu?
Người được xác định là phạm tội lần đầu được sẽ được Tòa án xem xét giảm án khi là lần đầu vi phạm. Tình tiết trên là dữ kiện quý giá cho việc tuyên mức án của người phạm tội. Vậy trường hợp trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì có được xem là phạm tội lần đầu? 1. Phạm tội lần đầu là gì? Cụ thể tại mục 4 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC có giải thích tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 được hiểu như sau: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Hiện nay, chưa có quy định chính thức về thuật ngữ phạm tội lần đầu nhưng từ dữ kiện trên có thể hiểu người phạm tội lần đầu là người chưa lần chưa phạm tội hoặc đã phạm tội nhưng không xem xét truy cứu trách nhiệm hoặc đã được xóa án tích. 2. Có bao nhiêu trường hợp được xác định là phạm tội lần đầu? Căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP quy định phạm tội được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Trước đó chưa phạm tội lần nào. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. - Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. 3. Người phạm tội lần đầu có phải đi tù? Tù có thời hạn hiện nay được quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được Tòa án áp dụng thực hiện như sau: - Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. - Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. - Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Ngoài ra, không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, nếu người phạm tội lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng thì được xem xét không áp dụng hình phạt tù. Trường hợp thiếu các điều kiện trên thì có thể áp dụng hình phạt tù. 4. Như thế nào được xem là phạm tội ít nghiêm trọng? Hiện hành theo Bộ luật Hình sự 2015 thì các tội được xem là tội phạm ít nghiêm trọng thì vẫn có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức thấp. Theo đó, người phạm tội ít nghiêm trọng sẽ bị phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc cao nhất là phạt tù đến 3 năm. Sau đây là ví dụ về tội phạm ít nghiêm trọng: - Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết hoặc loại bỏ con mới đẻ. - Điều 126 khoản 1 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn khả năng tự vệ hoặc vượt mức cần thiết khi truy bắt người phạm tội. - Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội hành hạ người khác và nhiều tội danh khác nhưng đều chỉ có mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là đến hai năm tù (theo quy định là dưới ba năm tù). Như vậy, người bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng do đã vi phạm trước đó mà lần tiếp theo vẫn phạm tội thì sẽ được xác định là phạm tội lần đầu nếu là phạm tội ít nghiêm trọng, vô ý phạm tội và có nơi cư trú rõ ràng.
Người dân bắt được đối tượng bị truy nã thì có được thưởng tiền không?
Khi nào một người bị truy nã? Nếu bắt được người bị truy nã có được thưởng tiền hay không? Đây là thắc mắc của một số người dân, liệu có giống như những phim kiếm hiệp nếu bắt được đối tượng bị truy nã sẽ được thưởng trăm lượng vàng, ngàn lượng vàng? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Truy nã được quy định như thế nào? Truy nã là việc cơ quan điều tra ra quyết định để truy tìm tung tích của người vi phạm pháp luật hình sự (đã có hoặc chưa có bản án xét xử của tòa án) khi người đó bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu. Truy nã tội phạm là hoạt động tố tụng hình sự – nghiệp vụ của lực lượng công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm phát hiện, tìm kiếm, bắt giữ người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù hoặc tử hình. Căn cứ nào để quyết định truy nã? Cơ quan có thẩm quyền chỉ được ra quyết định truy nã khi có đủ các điều kiện sau đây: - Đối tượng bị áp dụng: Truy nã có thể được áp dụng với một trong các đối tượng: Bị can, bị cáo; người bị kết án trục xuất, người chấp hành án trục xuất; người bị kết án phạt tù; người bị kết án tử hình; người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu. - Có đủ căn cứ xác định đối tượng trên đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả; - Đã xác định chính xác lý lịch, các đặc điểm để nhận dạng đối tượng bỏ trốn. Trong đó, theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC, các đối tượng sau đây nếu bỏ trốn thì sẽ bị truy nã: - Bị can, bị cáo - Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất - Người bị kết án phạt tù, tử hình - Người đang, tạm đình chỉ hoặc hoãn chấp hành án phạt tù Khi đó, theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bất cứ ai cũng có quyền bắt và giải ngay người đang bị truy nã đến cơ quan công an, Viện kiểm sát, ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và báo ngay hoặc giải ngay người bị truy nã đến cơ quan có thẩm quyền. Bắt được người bị truy nã có được thưởng tiền không? Hiện nay, theo pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể cho việc hứa thưởng với những người dân phối hợp vây bắt đối tượng phạm nhân trốn thoát. Tuy nhiên, trước đây thì Bộ Công an có đề xuất thưởng 5 triệu đồng cho cá nhân và nhiều nhất là 20 triệu đồng cho tổ chức có thành tích trong công tác phòng, chống tội phạm, gia đình và người trực tiếp tham gia phòng, chống tội phạm bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hay tài sản và các đơn vị liên quan đến hoạt động phòng, chống tội phạm ở trung ương và địa phương. Khoản tiền thưởng này sẽ được trích từ quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách cho người bắt tội phạm bị truy nã. Mặc dù khi dự thảo này được đề xuất có rất nhiều người đồng tình ủng hộ, nhưng bên cạnh vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều cho rằng mức thưởng này còn chưa phù hợp vì hành vi của những kẻ phạm tội rất hung hãn có thể gây ra những rủi ro không đáng có cho người dân. Khi bắt được người bị truy nã, người dân cần làm gì? Căn cứ theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,, quy định về việc bắt người đang bị truy nã như sau: Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Như vậy, theo quy định nêu trên, khi người dân bắt được người đang bị truy nã thì có thể giải ngay đến những cơ quan sau đây: - Cơ quan Công an nơi gần nhất; - Viện kiểm sát nơi gần nhất; - Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Khi tiếp nhận người đang bị truy nã thì các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Các tội phạm liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội
“Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác” là 1 trong 10 lời thề danh dự của quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Vậy, có các tội phạm nào liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội? Các tội phạm liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội Mệnh lệnh là một nét đặc trưng trong môi trường quân đội. Mệnh lệnh đưa ra phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và được đảm bảo thi hành. Các trường hợp ra mệnh lệnh trái pháp luật hoặc chống đối mệnh lệnh hoặc không chấp hành nghiêm chỉnh đều sẽ bị xử lý theo quy định của quân đội hoặc nặng hơn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Để đảm bảo tính nghiêm minh của mệnh lệnh trong Quân đội, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định 03 tội danh liên quan tại Điều 393, Điều 394 và Điều 395 sau đây: (1) Tội ra mệnh lệnh trái pháp luật - Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: + Trong chiến đấu; + Trong khu vực có chiến sự; + Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; + Trong tình trạng khẩn cấp; + Gây hậu quả rất nghiêm trọng. - Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. (2) Tội chống mệnh lệnh - Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: + Là chỉ huy hoặc sĩ quan; + Lôi kéo người khác phạm tội; + Dùng vũ lực; + Gây hậu quả nghiêm trọng. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: + Trong chiến đấu; + Trong khu vực có chiến sự; + Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; + Trong tình trạng khẩn cấp; + Gây hậu quả rất nghiêm trọng. - Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. (3) Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh - Người nào chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền một cách lơ là, chậm trễ, tùy tiện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: + Trong chiến đấu; + Trong khu vực có chiến sự; + Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; + Trong tình trạng khẩn cấp; + Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. "Quân lệnh như sơn", một khi nhận được mệnh lệnh quân sự của người chỉ huy hoặc cấp trên thì phải tuyệt đối tuân theo và thi hành một cách đúng đắn. Theo đó, sẽ có 03 tội danh liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội theo quy định trên. Những ai phải chịu trách nhiệm về những tội danh liên quan đến mệnh lệnh trong Quân đội? Theo Điều 392 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân - Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng. - Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện. - Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. - Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội. Như vậy, Quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng, dân quân, tự vệ và công dân được trưng tập sẽ là những người phải chịu trách nhiệm khi vi phạm các tội phạm liên quan đến mệnh lệnh trong quân đội nói riêng và các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói chung.
Khi nào sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp?
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là gì và khi nào thì cơ quan công an sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp? Được giữ người trong trường hợp khẩn cấp bao lâu? Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là gì? Theo Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về các biện pháp ngăn chặn như sau: - Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. - Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Như vậy, giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một biện pháp ngăn chặn nhằm ngăn chặn những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chuẩn bị xảy ra hoặc đã xảy ra. Khi nào sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp? Theo khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người: - Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; - Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Như vậy, những người có thẩm quyền sẽ ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp khi thuộc các trường hợp trên. Được giữ người trong trường hợp khẩn cấp bao lâu? Theo khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: - Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. - Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. - Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Như vậy, có thể nói thời hạn giữ người trong trường hợp khẩn cấp là 12 giờ kể từ khi giữ người hoặc nhận người bị giữ, nếu không có quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ thì người bị dự sẽ được trả tự do
Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội?
Phạm tội chưa đạt là gì? Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết về hai thuật ngữ này. Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều là hai khái niệm pháp lý quan trọng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, hai khái niệm này có những điểm khác biệt cơ bản về mặt bản chất và hậu quả pháp lý Hiểu rõ sự khác biệt giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về hành vi phạm tội và trách nhiệm pháp lý của người phạm tội. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh. (1) Điểm giống nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội - Hành vi chưa hoàn thành: Cả hai trường hợp đều liên quan đến những hành vi phạm tội chưa được hoàn thành. Đều có kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. - Ý định phạm tội: Ban đầu, người phạm tội đều có ý định thực hiện hành vi phạm tội. Ý định này có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện một hành vi bị pháp luật cấm. - Quá trình thực hiện hành vi: Trong cả hai trường hợp, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện một phần hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nguyên nhân và hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Dưới đây là phân tích chi tiết về những điểm giống nhau giữa hai khái niệm này và các ví dụ minh họa. (2) Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Phạm tội chưa đạt Tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Căn cứ pháp lý Điều 15 BLHS năm 2015 Điều 16 BLHS năm 2015 Khái niệm Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp một người tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù khách quan không có gì ngăn cản. Bản chất Thực hiện một phần hành vi phạm tội nhưng chưa hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Tự nguyện ngừng hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan, không nằm trong ý muốn của người phạm tội Nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ ý chí của người phạm tội Hậu quả pháp lý Căn cứ theo Điều 15 BLHS năm 2015, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Bên cạnh đó, Điều 57 BLHS năm 2015 quy định như sau: -Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. -Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Căn cứ theo Điều 16 BLHS năm 2015, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ Anh A có ý định trộm cắp tài sản của nhà B. A đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ và đột nhập vào nhà B. Tuy nhiên, khi A đang tìm kiếm tài sản để trộm, B trở về nhà và phát hiện ra hành vi của A. A bị bắt giữ trước khi kịp lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, A đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng chưa hoàn thành do bị phát hiện và ngăn cản bởi B. Đây là phạm tội chưa đạt vì hành vi phạm tội chưa được hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Anh C cũng có ý định trộm cắp tài sản của nhà D. C đã chuẩn bị dụng cụ và đột nhập vào nhà D. Tuy nhiên, sau khi vào nhà D và chuẩn bị lấy tài sản, C tự suy nghĩ lại và quyết định không thực hiện hành vi trộm cắp nữa. C rời khỏi nhà D mà không lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, C đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng tự nguyện ngừng lại và không tiếp tục hành vi. Đây là tự ý chấm dứt phạm tội vì C tự nguyện ngừng thực hiện hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Xem và tải bảng phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội:https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/15/bang-phan-biet-toi-pham-tu-dung-nua-chung.docx Tóm lại, mặc dù phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều có điểm chung là kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này có nhiều điểm khác nhau về khái niệm, bản chất, nguyên nhân và hậu quả pháp lý.
Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm
Bài viết sau đây sẽ chỉ ra cách phân biệt giữa tố giác và tin báo tội phạm và những nguyên tắc cần phải đảm bảo của cơ quan và cán bộ khi tiếp nhận tố giác và tin báo tội phạm. (1) Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm Tiêu chí Tố giác Tin báo tội phạm Khái niệm Điều 144 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Theo đó, nhìn chung tin báo về tội phạm và tố giác về tội phạm đều là một trong những nguồn tin về tội phạm. Chủ thể Cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng. Ngoài cá nhân, chủ thể báo tin về tội phạm còn có thể bao gồm cơ quan, tổ chức. Yếu tố phát hiện hành vi Chủ thể phải là người phát hiện, có thể là bị hại hoặc người trực tiếp chứng kiến hành vi có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Chủ thể có thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm như được nghe lại, kể lại, có thông tin từ người khác,... và trình báo lại cho cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, có thể thấy, tố giác tội phạm là sự tố cáo hành vi phạm tội của cá nhân nào đó với một cơ quan, tổ chức bất kỳ. Còn tin báo tội phạm là sự chuyển tiếp thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân hoặc những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó như qua thanh tra, kiểm tra,... Hoặc được phát hiện do hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (của các cơ quan thông tin đại chúng) đến với cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết theo quy định. (2) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nào? Căn cứ Điều 3 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định về nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau: Bên cạnh những nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì cơ quan và người có thẩm quyền tiếp nhận còn phải tuân thủ theo những nguyên tắc như sau: - Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận, phân loại, xử lý, kiểm tra, xác minh, giải quyết kịp thời, đúng thời hạn theo quy định, không để lọt tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, không làm oan người hoặc pháp nhân thương mại vô tội. - Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật; những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh. - Việc bảo vệ người tố giác, báo tin về tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác phải được thực hiện theo đúng quy định tại Chương XXXIV Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, khi tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc như đã nêu trên. (3) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì phải đảm bảo ghi lại những thông tin nào? Căn cứ Khoản 3 Điều 5 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận phải ghi chép vào sổ tiếp nhận đầy đủ các thông tin như sau: - Thời gian tiếp nhận thông tin, họ tên cán bộ tiếp nhận. - Họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số CMND/CCCD, ngày, tháng, năm, đơn vị cấp của người tố giác, báo tin. - Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc. - Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc. - Các thông tin khác có liên quan (nếu có) như: họ tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, người làm chứng, bị hại, hướng bỏ trốn của đối tượng, công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, những việc đã làm tại hiện trường khi phát hiện vụ việc,... - Lý do người tố giác, báo tin biết được vụ việc đó, những ai cùng biết vụ việc đó. Trường hợp nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì cán bộ tiếp nhận vẫn phải tiến hành tiếp nhận và ghi rõ lý do từ chối. Theo đó, sau khi đã tiếp nhận thông tin thì cán bộ tiếp nhận viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý. Như vậy, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận cần phải đảm bảo ghi lại đầy đủ những thông tin như đã nêu trên.
Biện pháp ngăn chặn có bị hủy bỏ khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra?
Khi đình chỉ điều tra, cơ quan điều tra sẽ ngưng lại việc điều tra vụ án, vậy khi đó những biện pháp ngăn chặn được áp dụng cho người bị điều tra có được hủy bỏ không? (1) Các trường hợp đình chỉ điều tra Đình chỉ điều tra là việc cơ quan điều tra quyết định ngừng việc điều tra vụ án, điều tra bị can của vụ án khi có các căn cứ pháp lý để xác định rằng vụ án không có dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không thể xác định người có hành vi phạm tội hoặc người phạm tội đã chết, người yêu cầu khởi tố rút đơn yêu cầu, hết thời hạn điều tra mà không đủ chứng cứ buộc tội,... Theo quy định tại Điều 230 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp: - Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự 2015; - Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, Điều 443 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng quy định các trường hợp mà cơ quan điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ điều tra: - Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra. Trường hợp này việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. - Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo là pháp nhân khi thuộc một trong các trường hợp: + Không có sự việc phạm tội; + Hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm; + Hành vi phạm tội của pháp nhân đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; + Hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được pháp nhân thực hiện tội phạm; + Hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, khi có các căn cứ pháp lý nêu trên thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với vụ án và bị can của vụ án. (2) Biện pháp ngăn chặn có bị hủy bỏ khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra không? Theo quy định tại Điều 109 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: - Giữ người trong trường hợp khẩn cấp - Bắt, tạm giữ, tạm giam - Bảo lĩnh - Đặt tiền để bảo đảm - Cấm đi khỏi nơi cư trú - Tạm hoãn xuất cảnh Vậy, trường hợp vụ án đã được cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra thì người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn kể trên có được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không? Theo khoản 2 Điều 33 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP có quy định về việc này như sau: "Khi ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, Cơ quan điều tra phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), xử lý vật chứng, những vấn đề khác có liên quan và thực hiện việc thông báo, gửi cho Viện kiểm sát theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015; đối với biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế do Viện kiểm sát phê chuẩn, Cơ quan điều tra phải có văn bản thông báo để Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ." Như vậy, khi có quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can thì cơ quan điều tra phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế để phục vụ quá trình điều tra. Bên cạnh đó, nếu việc áp dụng biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì cơ quan điều tra phải gửi văn bản thông báo đình chỉ điều tra cho VKS để VKS ra quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Tức nước vỡ bờ nghĩa là gì? Phòng vệ chính đáng có được xem là tội phạm không?
Khi nói về sự chịu đựng của con người, ông bà xưa có câu "Tức nước vỡ bờ". Vậy câu thành ngữ này mang ý nghĩa gì? 1. Tức nước vỡ bờ nghĩa là gì? "Tức nước vỡ bờ" là một thành ngữ quen thuộc trong tiếng Việt, được sử dụng để mô tả hiện tượng khi sự chịu đựng của con người bị đẩy đến giới hạn cực đoan, buộc họ phải vùng lên phản kháng quyết liệt. - Về mặt nghĩa đen: + Tức nước: nghĩa là nước dâng cao đến mức tràn bờ. + Vỡ bờ: nghĩa là bờ sông, đê bị nước dâng cao phá vỡ. - Về mặt nghĩa bóng: + Tức nước: là biểu tượng cho sự chịu đựng, nhẫn nhục đến mức tột cùng. + Vỡ bờ: là biểu tượng cho hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt. Nói theo nghĩa bóng, "Tức nước vỡ bờ" nghĩa là mỗi con người đều có mức giới hạn chịu đựng, vì vậy việc gì trong mức giới hạn thì người ta sẽ nhịn cho qua. Nhưng nếu chuyện xảy ra quá mức giới hạn cho phép của sức chịu đựng thì người ta sẽ phản kháng lại vô cùng mãnh liệt như chính sức mạnh dữ dội của nước làm cho vỡ bờ. Câu thành ngữ "tức nước vỡ bờ" mang ý nghĩa sâu sắc như: - Thể hiện quy luật tất yếu của xã hội: Khi bị áp bức, bóc lột quá mức, con người sẽ không thể mãi mãi cam chịu mà sẽ vùng lên đấu tranh để bảo vệ bản thân và quyền lợi của mình. - Khẳng định sức mạnh tiềm tàng của con người: Dù hiền lành, chất phác đến đâu, con người cũng có sức mạnh nội tại để phản kháng khi bị dồn vào đường cùng. - Là lời cảnh tỉnh cho những kẻ áp bức: Không nên ức hiếp người khác quá đáng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. 2. Phòng vệ chính đáng có được xem là tội phạm không? Theo Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: - Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. - Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Như vậy, có thể thấy hành vi phòng vệ chính đáng không được xem là tội phạm. Tuy nhiên, khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 thì phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể được xem là tình tiết để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 3. Một số tội phạm liên quan đến hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015? (1) Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: - Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. - Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. (2) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: - Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: + Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Tóm lại, câu thành ngữ "tức nước vỡ bờ" từ lâu đã trở thành một bài học quý giá về cuộc sống, được ông cha ta đúc kết và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nó không chỉ phản ánh một quy luật tất yếu trong tự nhiên mà còn ẩn chứa những ý nghĩa sâu sắc về sức mạnh của con người và bài học về cách sống.
Dự thảo: Phạt tù tối đa 9 năm đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội
Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên mới nhất quy định về hình phạt và thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội; thủ tục tố tụng đối với bị hại và người làm chứng; thi hành án... theo đó, đề xuất mức phạt tù tối đa 9 năm đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội là điểm đáng chú ý. Mức phạt tù tối đa đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi Điều 90 Dự thảo quy định người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: 1. Cảnh cáo. 2. Phạt tiền. 3. Cải tạo không giam giữ. 4. Tù có thời hạn. Điều 96 Dự thảo quy định mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định như sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật quy định. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định. Ngoài ra, tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội được quy định như sau: Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 15 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 09 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội. Giảm mức hình phạt Điều 98 Dự thảo quy định qiảm mức hình phạt đã tuyên như sau: - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại. Tha tù trước thời hạn Điều 99 Dự thảo quy định người chưa thành niên đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật Hình sự có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây: - Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; - Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù; - Có nơi cư trú rõ ràng. Việc tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 66 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, mức phạt tù tối đa đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi được đề xuất trong Dự thảo thấp hơn 03 năm so với quy định tại Khoản 2 Điều 101 Bộ Luật hình sự 2015 (đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù) Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên đang được hoàn thiện chuẩn bị trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 dự kiến khai mạc ngày 20/5/2024.
Người phạm tội không được xem xét cho hưởng án treo trong trường hợp nào?
Án treo là gì? Pháp luật quy định như thế nào về những trường hợp phạm tội không được xem xét cho hưởng án treo? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Án treo là gì? Theo Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định về khái niệm án treo cụ thể như sau: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Theo đó, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Dựa vào quy định trên có thể thấy được rằng án treo không phải là một hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá 03 năm. Xem bài viết liên quan: Trường hợp nào người phạm tội sẽ được hưởng án treo Quy định pháp luật về án treo theo BLHS 2015 Căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về án treo cụ thể như sau: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015. Những trường hợp nào phạm tội mà không được xem xét cho hưởng án treo? Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP sửa đổi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo, trong đó sửa đổi các trường hợp không cho hưởng án treo. Theo đó, người phạm tội không được xem xét cho hưởng án treo được quy định trong các trường hợp sau đây: (1) Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. (2) Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. (3) Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo. (4) Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi; - Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể. (5) Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi; - Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng; - Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể; - Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú. (6) Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Trên đây là một số thoongt in liên quan đến án treo và những trường hợp phạm tội không được hưởng án treo Xem bài viết liên quan: Người mắc bệnh hiểm nghèo có được giảm thời gian chấp hành án treo
Công an TPHCM cảnh báo người dân trước các chiêu trò lừa đảo trong dịp Tết 2024
Chiều 11/1/2023, UBND TP.HCM tổ chức họp báo thông tin về tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn thành phố. Tại hợp báo Công an TP.HCM cho biết, các loại tội phạm triệt để lợi dụng dịp cận Tết Nguyên đán để tạo ra các “câu chuyện lừa đảo” ngày càng tinh vi, dẫn dụ nạn nhân sập bẫy. Cụ thể, Phó trưởng Phòng Tham mưu Công an TP.HCM cho biết, trong giai đoạn gần Tết Nguyên đán, các loại tội phạm, nhất là tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng gia tăng. Các đối tượng sẽ triệt để lợi dụng chiêu trò ăn theo ngày Tết để tạo ra các “câu chuyện lừa đảo” ngày càng tinh vi, gắn với sự kiện, pháp nhân cụ thể để nạn nhân sập bẫy như: Đưa ra các chương trình “quà tặng, trúng thưởng Tết”, “khuyến mãi Tết”, “vé xe, vé máy bay Tết giá rẻ”… với những giải thưởng, mặt hàng có giá trị hấp dẫn, rẻ hơn so với giá thị trường qua đó tiếp cận, chào mời người dân tham gia, mua hàng và chiếm đoạt tài sản. Cũng theo ông Hà, những kẻ lừa đảo còn lợi dụng tâm lý người dân có “nhu cầu kiếm tiền” để đưa ra các hình thức: hướng dẫn hỗ trợ mở cửa hàng trực tuyến trên Amazon, Shopee; vào các sàn xem video, tương tác bài viết trên mạng, đánh giá sản phẩm, tìm kiếm đơn hàng ảo… rồi dẫn dụ đầu tư và chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra còn có hình thức lừa đảo như tuyển cộng tác viên làm online “việc nhẹ lương cao” như chạy quảng cáo, thanh toán đơn hàng cho sàn thương mại điện tử để nhận hoa hồng... Các đối tượng còn gọi điện, nhắn tin mời chào tham gia các “nhóm đầu tư thông minh”, “nhóm chuyên gia tài chính”, nhóm đầu tư chứng khoán quốc tế… Sau đó, chúng thao túng, dẫn dụ nạp tiền đầu tư vào các website, ứng dụng do đối tượng tự tạo lập để lừa tiền. Thậm chí, các đối tượng còn có thủ đoạn mua hàng Tết với số lượng lớn, sau đó sử dụng một số phần mềm tạo dựng biên lai thanh toán giả chuyển tiền rồi nhận hàng và nhanh chóng tẩu thoát. Ngoài việc ra quân trấn áp các loại tội phạm dịp cận Tết, Công an TP.HCM cũng cảnh báo người dân cảnh giác cao độ, tránh bị lừa. Theo đó, không tin vào lời mời tuyển dụng “việc nhẹ, lương cao” trên mạng xã hội. Chỉ tìm việc thông qua trung tâm giới thiệu việc làm của nhà trường, tổ chức chính trị xã hội… có địa chỉ, pháp nhân rõ ràng, nơi tuyển dụng phải có địa chỉ cụ thể. Không đăng nhập các đường link lạ do những người không quen biết gửi hoặc chỉ quen biết qua mạng xã hội. Trường hợp nghi vấn lừa đảo cần tham khảo ý kiến người thân trong gia đình, người hiểu biết hoặc liên hệ cảnh sát khu vực hoặc liên hệ cơ quan công an nơi gần nhất. Theo Báo Vietnamnet
Bộ Công an: Kể tên những thủ đoạn buôn bán người cần cảnh giác
Theo Bộ Công an, trong quý III/2023, lực lượng Công an đã tiếp nhận, giải quyết 92 tố giác, tin báo về tội phạm và kiện nghị khởi tố liên quan đến tội phạm mua bán người; phát hiện, điều tra 85 vụ/230 đối tượng phạm tội mua bán người xác định 224 nạn nhân bị mua bán. Cụ thể, theo Trung tướng Tô Ân Xô cho biết - người phát ngôn Bộ Công an: Tội phạm mua bán người là loại tội phạm có độ ẩn cao và có khả năng xảy ra trên các địa bàn như khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc ít người; trên các lĩnh vực như cho nhận con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài; đẻ thuê; cho, hiến tạng; xuất khẩu lao động, di cư (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) ra nước ngoài lao động làm thuê, du lịch, chữa bệnh, thăm thân… Trong Quý III/2023, tình hình tội phạm mua bán người tại Việt Nam tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Để chủ động phòng tránh với tội phạm mua bán người, Bộ Công an khuyến cáo, người dân cần nâng cao cảnh giác, nhất là đối với các hành vi thủ đoạn sau: -Tội phạm mua, bán người thường dùng tên, tuổi, địa chỉ giả; thường xuyên không cung cấp hình ảnh, số điện thoại; liên lạc chủ yếu qua mạng xã hội như Zalo, Facebook… - Đối tượng không hẹn gặp trực tiếp, chủ yếu hướng dẫn, liên lạc qua điện thoại, đặc biệt là các đối tượng dùng nhiều số điện thoại khác nhau, hoặc liên lạc qua mạng xã hội. - Dụ dỗ, hứa hẹn tìm những công việc nhẹ, lương cao, lấy chồng nước ngoài để có cuộc sống giàu sang. Các đối tượng yêu cầu nạn nhân cung cấp hình ảnh thông tin, địa chỉ để tổ chức xem mặt chọn vợ. Giả danh lực lượng chức năng để đe dọa nạn nhân, không hẹn làm việc tại các cơ quan nhà nước mà hướng dẫn gặp riêng bên ngoài. - Công việc, địa điểm làm việc mà các đối tượng dụ dỗ, hứa hẹn đưa nạn nhân đến làm việc thường không có địa chỉ cụ thể… Theo đó, Bộ Công an khuyến cáo người dân cần nâng cao cảnh giác khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm mua, bán người cần chủ động tố giác tội phạm, phối hợp đấu tranh ngăn chặn với loại tội phạm này. Cảnh giác thủ đoạn của các đối tượng mua bán người Nhằm dụ dỗ và thực hiện hành vi mua bán người, các đối tượng xấu thường sử dụng một số thủ đoạn sau đây: - Các đối tượng mua bán người thường lợi dụng khó khăn về kinh tế, sự nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác để lừa phụ nữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc; lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin (qua các trang mạng xã hội: Zalo, Facebook, Viber...) làm quen, giả vờ yêu đương, kết bạn nhằm môi giới hôn nhân nước ngoài trái phép; lợi dụng quy định về hiến ghép tạng, các đối tượng tìm gặp những nạn nhân khó khăn kinh tế có nhu cầu bán thận, thương lượng mua với giá rẻ, làm giả giấy tờ, con dấu, sau đó, bán cho những người bệnh với giá cao. - Các đối tượng lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình, nhà trường; thông qua các trang mạng xã hội như: Zalo, Facebook... tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, làm thuê thu nhập cao..., lừa nhiều em gái ở các tỉnh đưa về thành phố bán cho nhà hàng, quán karaoke hoặc để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động. - Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam và nhu cầu lao động ở nước ngoài, các đối tượng mua bán người đã tổ chức nhiều vụ đưa người trái phép ra nước ngoài lao động, khi ra nước ngoài, chúng thu giữ giấy tờ tùy thân, bán để cưỡng bức lao động, quỵt tiền lương hay báo cơ quan chức năng kiểm tra, bắt giữ và trục xuất về nước hoặc dùng bạo lực khống chế đòi tiền chuộc; xuất hiện các đường dây môi giới lập tài khoản trên mạng với tên giả; dùng “tiền” làm mồi nhử, thông qua mạng lưới cò mồi đến các địa phương, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa dụ dỗ, lôi kéo những người có nhu cầu xuất khẩu lao động với chi phí thấp, mức lương cao, thủ tục đơn giản, tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó, bán để cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, các đối tượng còn sử dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, sử dụng hình ảnh, tên, địa chỉ giả để kết bạn làm quen với những phụ nữ, trẻ em gái, tán tỉnh yêu đương hoặc những người có nhu cầu tìm việc làm ở nước ngoài với mức lương cao, sau đó hứa hẹn rồi dẫn họ tổ chức vượt biên sang Trung Quốc, Lào, Campuchia rồi chúng đón ép bán làm vợ, bán vào các ổ mại dâm, các sòng bài tại Campuchia, Myanrma. Ngoài ra, các đối tượng lập các trang mạng trên Facebook, Zalo để tìm kiếm người mang thai, sinh con ngoài ý muốn... sau đó dụ dỗ đưa họ sang nước ngoài sinh con để bán; hoặc cũng bằng thủ đoạn trên để tìm kiếm những người bị bệnh phải ghép tạng, môi giới cho những người muốn bán tạng để thực hiện việc mua bán mô, bộ phận cơ thể. Những trường hợp có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người Nạn nhân của tội phạm mua bán người thường tập trung ở những vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới (người dân tộc), đa phần trong số họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, gặp những chuyện éo le về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ, cả tin hoặc một số cô gái trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, dễ tin theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng người nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán. Nếu không may trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, nạn nhân cần làm gì? Giữ bình tĩnh, giữ thông tin bí mật không để các đối tượng nghi ngờ, tìm cách báo cho gia đình, người thân hoặc cơ quan nhà nước nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước sở tại về địa điểm, địa danh của mình để được hướng dẫn, giúp đỡ giải cứu an toàn. Có thể gọi điện thoại trực tiếp đến Tổng đài quốc gia 111 để được tư vấn, hỗ trợ. Về việc tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân được quy định tại Chương IV và Chương V của Luật phòng, chống mua bán người. Xem bài viết liên quan: Mức xử phạt đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi Nhận biết thủ đoạn thường sử dụng của các đối tượng mua bán người Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Bộ Công an triển khai 05 biện pháp phòng ngừa tội phạm giết người
Thời gian gần đây, tình trạng tội phạm giết người với tính chất côn đồ, dã man có những diễn biến phức tạp trên địa bàn các tỉnh, thành trong cả nước. Trước tình hình trên, Trung tướng Tô Ân Xô, Người phát ngôn Bộ Công an đã thông tin về một số giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa những vụ án giết người nghiêm trọng trong thời gian tới như sau: Một số vụ giết người đặc biệt nghiêm trọng gần đây Theo Người phát ngôn Bộ Công an, thời gian qua tại một vài địa phương đã xảy ra một số vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng gây xôn xao dư luận, như: - Vụ Giáp Thị Huyền Trang (sinh năm 1996, quê Bắc Giang) bắt cóc và giết bé gái ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội để đòi tiền chuộc 1,5 tỷ đồng. - Vụ đối tượng Tạ Duy Khanh (sinh năm 1985, quê Thái Bình) sát hại, phân mảnh thi thể nạn nhân phi tang ở sông Hồng. - Vụ nghi phạm Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm 1986, quê Thái Nguyên) sát hại bạn gái tại cửa hàng thời trang ở Bắc Ninh rồi tự tử. - Vụ Giàng A Lư (sinh năm 1995, ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La) dùng dao đâm vợ tử vong. - Vụ Sùng A Sú (sinh năm 1990, ở thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai) giết vợ rồi tự tử. Xác định tội phạm giết người là loại tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, sự bình yên cuộc sống của nhân dân. Bộ Công an đặc biệt quan tâm triển khai các biện pháp phòng ngừa, để kịp thời ngăn chặn từ sớm, không để xảy ra các vụ thảm án, các vụ án giết người nghiêm trọng; đồng thời triển khai quyết liệt các biện pháp tấn công, truy bắt, xử lý nghiêm minh để tạo sức trấn áp răn đe. 05 biện pháp nâng cao phòng ngừa tội phạm giết người Thời gian tới, để tiếp tục đấu tranh, phòng chống có hiệu quả hơn với tội phạm giết người, Bộ Công an sẽ đẩy mạnh các biện pháp sau: - Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền giải quyết tốt những vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng giáo dục học đường theo hướng cân bằng, coi trọng đồng bộ giữa giáo dục văn hóa và xây dựng nền tảng đạo đức. - Tăng cường năng lực cho lực lượng Công an cấp xã để chủ động nắm tình hình kịp thời, phát hiện, giải quyết sớm các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nhất là mâu thuẫn về tranh chấp đất đai, vay mượn tài sản... Phát huy vai trò các tổ hòa giải, các tổ chính trị - xã hội; không để xảy ra các mâu thuẫn bức xúc, kèo dài dẫn đến giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. - Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đối tượng ở địa bàn dân cư, nhất là người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy tại cộng đồng. Phối hợp các đơn vị chức năng đưa người mắc bệnh tâm thần vào các cơ sở điều trị, phối hợp quản lý chặt chẽ người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. - Phối hợp các ban ngành ở địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, nhất là pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình, phòng, chống bạo lực học đường. Chú trọng truyền thông trên các cổng thông tin đại chúng, trang mạng xã hội, hệ thống thông tin cơ sở; huy động sự tham gia của các doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, người có uy tín trong cộng đồng dân cư... để phối hợp tuyên truyền phòng ngừa tội phạm giết người. - Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý các vụ án giết người, nhất là các vụ án được dư luận xã hội quan tâm, không để tồn đọng các vụ án giết người không rõ thủ phạm. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an
Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
Kinh tế - xã hội càng phát triển cũng đồng nghĩa với việc xuất hiện nhiều loại tội phạm tinh vi, nguy hiểm. Tội phạm rửa tiền là một trong những loại tội phạm đó. Vậy pháp luật có các tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền như thế nào? 1. Nguyên tắc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền Theo Điều 3 Nghị định 19/2023/NĐ-CP, nguyên tắc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được quy định như sau: - Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo các tiêu chí, phương pháp được pháp luật quy định, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. - Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền phải xác định được mức độ rủi ro về rửa tiền của quốc gia. - Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện sau đánh giá và cập nhật chính sách, chiến lược về phòng, chống rửa tiền tương ứng trong từng thời kỳ. - Thông tin, tài liệu, dữ liệu phục vụ việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thu thập từ cơ sở dữ liệu của các cơ quan có thẩm quyền, đối tượng báo cáo, tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước trên nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo đảm tuân thủ các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước. 2. Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền Theo Điều 4 Nghị định 19/2023/NĐ-CP, tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được quy định như sau: - Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền bao gồm tiêu chí nguy cơ rửa tiền; tiêu chí mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền và tiêu chí hậu quả rửa tiền của quốc gia và của ngành, lĩnh vực. - Tiêu chí nguy cơ rửa tiền bao gồm tiêu chí nguy cơ rửa tiền từ tội phạm nguồn của tội rửa tiền và tiêu chí nguy cơ rửa tiền đối với ngành, lĩnh vực, cụ thể như sau: + Tiêu chí nguy cơ rửa tiền từ tội phạm nguồn của tội rửa tiền bao gồm nguy cơ rửa tiền từ từng tội phạm nguồn trong nước và xuyên quốc gia được đánh giá; + Tiêu chí nguy cơ rửa tiền đối với ngành, lĩnh vực bao gồm nguy cơ rửa tiền từ từng ngành, lĩnh vực trong nước và xuyên quốc gia được đánh giá. - Tiêu chí mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền bao gồm tính toàn diện của khuôn khổ pháp lý và tính hiệu quả của việc thực hiện quy định pháp luật, cụ thể như sau: + Tiêu chí tính toàn diện của khuôn khổ pháp lý bao gồm tính đầy đủ của các quy định pháp luật liên quan đến phòng, chống rửa tiền của quốc gia và của ngành, lĩnh vực; + Tiêu chí tính hiệu quả của việc thực hiện quy định pháp luật bao gồm tính hiệu quả của việc thực hiện quy định pháp luật của quốc gia; của ngành, lĩnh vực và mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền gắn với một số sản phẩm, dịch vụ chính của ngành, lĩnh vực. - Tiêu chí hậu quả của rửa tiền bao gồm: + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với nền kinh tế; + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với hệ thống tài chính; + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với ngành, lĩnh vực; + Tiêu chí tác động tiêu cực do rửa tiền gây ra đối với xã hội. 3. Thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền Việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền được quy định tại Điều 10 Nghị định 19/2023/NĐ-CP như sau: - Cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu, báo cáo lưu trữ tại tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật và thông tin, hồ sơ, tài liệu tổ chức, cá nhân tiếp nhận, thu thập được trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để phục vụ công tác phân tích, trao đổi, cung cấp và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. - Tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu cho Cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo đúng thời hạn yêu cầu. - Cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện xử lý, phân tích thông tin, báo cáo nhận được, bao gồm: + Phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin sẵn có và thu thập bổ sung để xác định các xu hướng và mô hình rửa tiền nhằm xây dựng chiến lược và mục tiêu phòng, chống rửa tiền trong ngành, lĩnh vực, quốc gia trong từng giai đoạn nhất định; + Phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin sẵn có và thu thập bổ sung để lần theo dấu giao dịch, xác định các mối liên hệ, các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền hoặc hoạt động tội phạm khác. Như vậy, rửa tiền là một hành vi phạm tội nguy hiểm, phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế và đẩy lùi sự phát triển của quốc gia. Do đó cần có những tiêu chí đánh giá rủi ro tại Điều 4 Nghị định 19/2023/NĐ-CP để có những biện pháp hiệu quả, đặc biệt là các biện pháp pháp lý để kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi rửa tiền.
Mua bán thận có thể đi tù mấy năm?
Gần đây Công an Tp.HCM đang điều tra về một đường dây mua bán thận, đây là hành vi phạm tội theo quy định pháp luật hình sự. Như vậy thì những người có hành vi mua bán thận có thể phải đối mặt với những mức án nào? 1. Mua bán thận có thể phải đối mặt với những mức án nào? Thận là một trong những bộ phận cơ thể người, hành vi mua bán thận được xem là mua bán bộ phận cơ thể người thì căn cứ Điều 154 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người như sau: Người nào (người có năng lực trách nhiệm hình sự) mua bán thận người khác (nếu tự bán thận của mình thì không phạm tội này), thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Có tổ chức; Vì mục đích thương mại; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; Đối với từ 02 người đến 05 người; Phạm tội 02 lần trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Có tính chất chuyên nghiệp; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Đối với 06 người trở lên; Gây chết người; Tái phạm nguy hiểm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mua bán thận là bao lâu? Căn cứ Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, theo đó: - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: + 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; + 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; + 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; + 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. … Căn cứ theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về phân loại tội phạm như sau: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: - Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; - Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; - Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; - Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. … Từ các quy định trên thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mua bán thận sẽ tùy theo khung hình phạt của tội này, nếu: Phạm tội thuộc khung có hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm (Tội phạm nghiêm trọng) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm. Phạm tội thuộc khung có hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm (Tội phạm rất nghiêm trọng) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm. Phạm tội thuộc khung có hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 20 năm.
TANDTC giải đáp vướng mắc trong công tác xét xử lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự
Ngày 03/10/2023 TAND tối cao đã có Công văn 196/TANDTC-PC năm 2023 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Trong đó, có 09 vướng mắc trong công tác xét xử lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự được TAND tối cao giải đáp như sau: 1. Đập phá nhà công trình xây dựng trái phép có cấu thành tội phạm? Các đối tượng có hành vi lấn chiếm đất và đã xây dựng nhà, công trình, vật kiến trúc trái phép trên đất lấn chiếm. Sau đó, có một số đối tượng khác đến tiếp tục lấn chiếm trên những phần đất này và có hành vi đập phá nhà, công trình, vật kiến trúc đã xây dựng trái phép nêu trên. Hành vi đập phá nhà, công trình, vật kiến trúc xây dựng trái phép của các đối tượng trên có cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 không? Khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định: “Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ...” Các đối tượng xây dựng nhà, công trình, vật kiến trúc trái phép trên diện tích đất do Nhà nước quản lý là hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong Luật Đất đai 2013, Luật Xây dựng 2014 và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật đó như thế nào và bàng biện pháp gì là thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước. Việc các đối tượng khác đến tiếp tục lấn chiếm trên những phần đất này và có hành vi đập phá nhà, công trình, vật kiến trúc đã xây dựng trái phép nêu trên thì phạm tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. 2. Nhờ làm giả giấy tờ rồi sử dụng giấy tờ giả thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Bị cáo có hành vi nhờ người khác làm giả giấy đi đường, sau đó sử dụng giấy tờ giả đó để thực hiện hành vi trái pháp luật. Trường hợp này hành vi của bị cáo phạm hai tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” hay “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”? Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Đây là hai tội danh độc lập được quy định trong cùng một điều luật. Nếu các hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành hai tội này thì bị cáo phải bị truy tố, xét xử với hai tội danh độc lập, sau đó tổng hợp hình phạt. Trường hợp bị cáo không phải là người trực tiếp làm giả giấy đi đường mà chỉ có hành vi nhờ người khác làm giả giấy đi đường, sau đó sử dụng giấy đi đường để thực hiện hành vi trái pháp luật. Trường hợp này, bị cáo phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, mà không cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. 3. Làm giả chữ ký để cấp lại QSDĐ rồi vi phạm pháp luật thì tiêu hủy hay tịch thu? Người phạm tội giả chữ ký của người sử dụng đất để thực hiện thủ tục xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận QSDĐ, sau đó dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp này, khi xét xử thì xử lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó như thế nào? Hủy giấy chứng nhận QSDĐ theo Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 hay tịch thu, tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015? Theo Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TAND tối cao thì giấy chứng nhận QSDĐ là quyết định hành chính, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.” Như vậy, giấy chứng nhận QSDĐ là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chỉ có thể bị hủy bỏ khi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hoặc khi Tòa án giải quyết vụ việc dân sự hoặc bị thu hồi bởi chính cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai 2013. Do đó, trường hợp người phạm tội giả chữ ký của người sử dụng đất để thực hiện thủ tục xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này vào việc thực hiện hành vi phạm tội thì khi xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ đó (bản chất là thu hồi giá trị pháp lý của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) mà không tịch thu, tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Còn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà các cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là tài liệu của vụ án và phải được lưu trong hồ sơ vụ án. 4. Nhân viên chiếm đoạt tiền của công ty thì phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay tội “Tham ô tài sản”? Bị cáo là nhân viên thu tiền điện thoại, tiền cước viễn thông thực hiện việc thu tiền của khách hàng cho Công ty, nhưng sau khi thu được tiền của khách hàng, bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này, không nộp về cho Công ty. Hành vi của bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay tội “Tham ô tài sản”? Bị cáo là người được giao thực hiện nhiệm vụ thu tiền của khách, có trách nhiệm và trực tiếp quản lý tiền cước điện thoại, tiền cước viễn thông thu được. Bị cáo đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu được tiền của khách hàng, bị cáo không nộp về công ty mà chiếm đoạt số tiền này. Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 352, Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) và hướng dẫn tại khoản 5 Điều 2 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP thì hành vi của bị cáo phạm tội “Tham ô tài sản”. 5. Công chứng giấy tờ giả để bị cáo lừa đảo thì Văn phòng công chứng có liên đới chịu trách nhiệm? Bị cáo có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của bị hại, trong đó, Văn phòng Công chứng thực hiện việc công chứng đối với hợp đồng, giấy tờ, tài liệu (do bị cáo làm giả), tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách nhiệm hình sự của Công chứng viên thì có buộc Công chứng viên chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho bị hại hay không? Bị cáo thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền của bị hại. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử không xem xét, xử lý hành vi vi phạm của Công chứng viên, nếu không có chứng cứ chứng minh Công chứng viên đồng phạm với bị cáo cũng như sử dụng số tiền bị cáo chiếm đoạt và Văn phòng Công chứng đã thực hiện công chứng theo quy định pháp luật, không thể biết được thủ đoạn gian dối của bị cáo để chiếm đoạt tiền của bị hại. Do đó, không thể buộc trách nhiệm liên đới của Công chứng viên phải bồi thường cho bị hại mà chỉ buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường (hoàn trả) số tiền đã chiếm đoạt của bị hại. 6. Xác định thẩm quyền xét xử bị cáo, bị hại hoặc tài sản có liên quan ở nước ngoài như thế nào? Bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được xác định như thế nào? Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài. “Ở nước ngoài” được hiểu là tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án thì bị cáo, bị hại, đương sự không có mặt trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để xác định “bị cáo, bị hại, đương sự hoặc tài sản liên quan đến vụ án ở nước ngoài” thì phải căn cứ vào vị trí địa lý của họ tại thời điểm giải quyết vụ án, cụ thể là[1]: - Bị cáo, bị hại, đương sự là người nước ngoài định cư, không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Bị cáo, bị hại, đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Bị cáo, bị hại, đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng đang ở nước ngoài vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án; - Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 ở ngoài biên giới lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án. Xem thêm Công văn 196/TANDTC-PC năm 2023 ban hành ngày 03/10/2023.
Dấu hiệu đáng ngờ nào trong lĩnh vực ngân hàng cho biết đang có hành vi rửa tiền?
Hiện nay, nhiều đối tượng thực hiện những giao dịch bất chính thu được số lợi bất chính, sau đó thực hiện các hoạt động nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Vậy pháp luật quy định như thế nào về các dấu hiệu đáng ngờ của hành vi rửa tiền? Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản của hành vi rửa tiền? Căn cứ Điều 27 Luật Phòng chống rửa tiền 2022 có quy định về các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản của hành vi rửa tiền như sau: - Khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán. - Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính. - Số điện thoại do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không tồn tại số điện thoại này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch. - Giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo ủy quyền của tổ chức, cá nhân có trong Danh sách cảnh báo. - Giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan đến tổ chức, cá nhân có trong Danh sách cảnh báo. - Tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với hoạt động kinh doanh, thu nhập của tổ chức, cá nhân này. - Khách hàng yêu cầu đối tượng báo cáo thực hiện giao dịch không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật có quy định về những dấu hiệu cơ bản được xem là đáng ngờ khi khách hàng thực hiện giao dịch hoặc các hoạt động khác có dấu hiệu của hành vi rửa tiền nêu trên. Dấu hiệu đáng ngờ nào trong lĩnh vực ngân hàng cho biết đang có hành vi rửa tiền? Căn cứ Điều 28 Luật Phòng chống rửa tiền 2022 có quy định về các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng của hành vi rửa tiền như sau: - Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không. - Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo. - Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn bất thường, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường. - Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh. - Tài khoản của khách hàng đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn bất thường. Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu. - Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. - Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn. - Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng. - Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm. - Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay hoặc ủy thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch. - Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng đề nghị vay vốn không đầy đủ, không chính xác. - Có dấu hiệu nghi ngờ khách hàng sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động của tổ chức hoặc giao dịch thay cho đối tượng cá nhân khác. - Các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức Internet (sau đây gọi là địa chỉ IP) ở nước ngoài. Như vậy, pháp luật quy định các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng của hành vi rửa tiền nêu trên. Hành vi nào được xem là hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống rửa tiền? Căn cứ Điều 28 Luật Phòng chống rửa tiền 2022 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống rửa tiền như sau: - Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền. - Thiết lập, duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả. - Thiết lập, duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng vỏ bọc. - Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. - Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. - Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền. Như vậy, để đảm bảo hoạt động phòng, chống rửa tiền đúng theo quy định pháp luật, Nhà nước ta đã ban hành các quy định cấm trong hoạt động này để đảm bảo những người có thẩm quyền thực hiện đúng theo luật định. Từ những căn cứ nêu trên, có thể thấy Nhà nước ta đang đẩy mạnh hoạt động phòng chống rửa tiền nhằm ngăn chặn các hành vi hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có.
Người bị mắc bệnh hiểm nghèo có được miễn trách nhiệm hình sự?
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong Bộ luật Hình sự nhằm tạo quyền lợi cho các đối tượng đã phạm tội nhưng có hành động hối cải, ngăn chặn kịp thời hậu quả hoặc thể trạng, năng lực bị hạn chế so với người thường. Những trường hợp trên sẽ được Nhà nước ân hồng xem xét miễn trách nhiệm. Vậy người mắc bệnh hiểm nghèo có được miễn trách nhiệm hình sự? 1. Người bị mắc bệnh hiểm nghèo trong quá trình chấp hành án Trong quá trình người chấp hành án phạt tù mà phạm nhân mắc phải một số chứng bệnh được quy định là mắc bệnh hiểm nghèo thì theo khoản 4, Điều 4 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC là người đang bị mắc một trong các bệnh như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng sẽ được xem xét giảm hình phạt tù. 2. Người mắc bệnh hiểm nghèo có được miễn trách nhiệm hình sự? Cụ thể tại khoản 2 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định miễn trách nhiệm hình sự là việc miễn truy cứu TNHS cho người phạm tội “Nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Theo đó, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; - Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Do đó, người bị mắc bệnh hiểm nghèo sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự nếu bệnh của người này dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa. 3. Những loại bệnh nào được xem là bệnh hiểm nghèo? Các loại bệnh hiểm nghèo được xem xét miễn trách nhiệm hình sự vẫn chưa được các văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể. Tuy nhiên, trong một số văn bản pháp luật khác đã có những quy định về vấn đề này như Danh mục các loại bệnh hiểm nghèo ban hành kèm theo Công văn 6383/BTC-TCT năm 2015 có liệt kê 42 loại bệnh, bao gồm: Danh mục Bệnh hiểm nghèo 1. Ung thư 2. Nhồi máu cơ tim lần đầu 3. Phẫu thuật động mạch vành 4. Phẫu thuật thay van tim 5. Phẫu thuật động mạch chủ 6. Đột quỵ 7. Hôn mê 8. Bệnh xơ cứng rải rác 9. Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ 10. Bệnh Parkinson 11. Viêm màng não do vi khuẩn 12. Viêm não nặng 13. U não lành tính 14. Loạn dưỡng cơ 15. Bại hành tủy tiến triển 16. Teo cơ tiến triển 17. Viêm đa khớp dạng thấp nặng 18. Hoại thư do nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết 19. Thiếu máu bất sản 20. Liệt hai chi 21. Mù hai mắt 22. Mất hai chi 23. Mất thính lực 24. Mất khả năng phát âm 25. Thương tật toàn bộ và vĩnh viễn 26. Suy thận 27. Bệnh nang tủy thận 28. Viêm tụy mãn tính tái phát 29. Suy gan 30. Bệnh Lupus ban đỏ 31. Ghép cơ quan (ghép tim, ghép gan, ghép thận) 32. Bệnh lao phổi tiến triển 33. Bỏng nặng 34. Bệnh cơ tim 35. Bệnh Alzheimer hay sa sút trí tuệ 36. Tăng áp lực động mạch phổi 37. Bệnh rối loạn dẫn truyền thần kinh vận động 38. Chấn thương sọ não nặng 39. Bệnh chân voi 40. Nhiễm HIV do nghề nghiệp 41. Ghép tủy 42. Bại liệt Mặc dù không có văn bản hướng dẫn cụ thể bệnh hiểm nghèo hiện nay để được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo nhưng có thể căn cứ 42 loại bệnh trên thì người mắc bệnh có thể được miễn truy cứu trách nhiệm nếu không còn nguy hiểm cho xã hội.
Tổ chức các CLB phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật cho sinh viên
Ngày 07/7/2023 Bộ GD&ĐT vừa ban hành Quyết định 1977/QĐ-BGDĐT năm 2023 tải Phê duyệt Dự án “Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho học sinh, sinh viên đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, một số nhiệm vụ mà Bộ GD&ĐT đặt ra để phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật trong học đường bao gồm: (1) Tổ chức tuyên truyền về phòng ngừa tội phạm và phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật - Tuyên truyền các quy định của pháp luật về phòng, chống tội phạm; các quy chế, quy định về công tác đảm bảo an ninh, trật tự nhà trường, phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học; tuyên truyền về hậu quả, ảnh hưởng; các hành vi vi phạm pháp luật phổ biến; những âm mưu, thủ đoạn hoạt động của tội phạm và sự tác động, lôi kéo đối với người học; kỹ năng phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật; - Quán triệt trách nhiệm của các thành viên trong nhà trường đối với việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, tố giác tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật; - Tổ chức lồng ghép, gắn kết nội dung tuyên truyền phòng ngừa tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật thông qua các chương trình và hoạt động giáo dục của nhà trường; tuyên truyền, giáo dục thông qua hoạt động của Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Đội TNTP Hồ Chí Minh; - Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, hoạt động văn nghệ, giao lưu; các cuộc thi tìm hiểu dưới dạng bài viết hoặc sân khấu hoá, vẽ tranh, áp phích, sáng tác, biểu diễn tiểu phẩm về đề tài phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học; - Xây dựng tài liệu truyền thông dành cho thành viên trong nhà trường và gia đình người học về phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học; xây dựng tin, bài, phóng sự tuyên truyền về các gương người tốt, việc tốt, các mô hình, điển hình về công tác phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật của người học đang tải trên trang tin điện tử, cổng thông tin điện tử của nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội; - Tổ chức cho người học tham gia mô hình, sinh hoạt các câu lạc bộ về phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật của nhà trường. (2) Tích hợp nội dung giáo dục phòng ngừa tội phạm vào chương trình học - Tích họp, lông ghép nội dung giáo dục phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật vào chương trình giáo dục các môn học phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo; -Tăng cường tích hợp nội dung giáo dục phòng ngừa tội phạm, phòng, chống vi phạm pháp luật vào chương trình đào tạo giáo viên; - Xây dựng và triển khai chương trình, tài liệu giáo dục phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật thông qua các hoạt động trải nghiệm, hoạt động ngoại khóa dành cho người học. (3) Nâng cao năng lực của các thành viên trong nhà trường về công tác phòng ngừa tội phạm - Xây dựng tài liệu và tổ chức tập huấn, bồi dưỡng hằng năm cho cán bộ quản lý, nhà giáo về giáo dục phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vỉ phạm pháp luật cho người học; - Tổ chức tập huấn nghiệp vụ đảm bảo an ninh, trật tự trường học, phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác bảo vệ, thanh niên xung kích, thanh niên tình nguyện. (4) Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các cơ quan ban, ngành của địa phương - Tăng cường phối hợp giữa nhà trường và gia đình người học trong công tác quản lý, giáo dục không để người học phạm tội, vi phạm pháp luật và đặc biệt quan tâm đối với người học có hoàn cảnh đặc biệt; - Tổ chức ký cam kết giữa Nhà trường - Ban đại diện cha mẹ học sinh - Công an địa phương về thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật ở các cơ sở giáo dục phổ thông; ký cam giữa Nhà trường - Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của nhà trường - Công an địa phương về thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật ở các cơ sở giáo dục đại học; - Đẩy mạnh triển khai thực hiện các văn bản phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ GDĐT hướng dẫn phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác trong ngành Giáo dục. Phối hợp với ngành Công an thực hiện phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tô quốc” và nhân rộng mô hình liên kết giữa nhà trường với công an địa phương; - Phối hợp với công an địa phương triển khai tổ chức các mô hình Câu lạc bộ phòng, ngừa tội phạm ở nhà trường có đủ điều kiện nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của người học tham gia phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật. Chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các mô hình tự quản, tự phòng, tự bảo vệ trong nhà trường. Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân rộng mô hình hoạt động hiệu quả trong nhà trường; - Các cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương và nhà trường xây dựng văn bản phối hợp với các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể của địa phương và ban đại diện cha mẹ học sinh trong công tác phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật cho người học. Xem thêm Quyết định 1977/QĐ-BGDĐT năm 2023 tải có hiệu lực từ ngày ký.
Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Người dân nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì cần làm những gì và có được báo Công an hay không? Đây là vấn đề người dân thắc mắc và gửi câu hỏi đến Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cần giải đáp. Theo đó Bộ Công an có câu trả lời như sau: - Các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người: Theo khoản 1 Điều 150 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về tội mua bán người như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.” Như vậy, có thể hiểu các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người, gồm: Về mặt khách quan: + Các dấu hiệu về hành vi bao gồm: Hành vi chuyển giao và tiếp nhận người; các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao và tiếp nhận người. + Về thủ đoạn: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hay bằng các thủ đoạn khác như lợi dụng quyền lực, lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân, ép nạn nhân sử dụng bia, rượu hoặc chất kích thích.... Hoặc bất kỳ thủ đoạn nào khác để thực hiện hành vi chuyển giao tiếp nhận người. + Người bị hại phải đủ từ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp bị hại dưới 16 tuổi thì cấu thành tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” theo Điều 151 Bộ luật Hình sự và không nhất thiết phải chứng minh thủ đoạn. Về mặt chủ quan: + Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, biết được hành vi mua bán người là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. + Mục đích phạm tội: (1) để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (2) để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động; (3) để lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác như ép buộc đi ăn xin, ép buộc thực hiện các hành vi phạm tội, làm vật thí nghiệm, ép buộc tham gia chiến tranh... Mặt khách thể: Hành vi mua bán người xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, tính mạng, sức khỏe và danh dự của con người (nạn nhân). Mặt chủ thể: Bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách nhiệm về hành vi, nhận thức). - Nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì có được báo Công an để ngăn chặn hay không? Bộ Công an trả lời như sau: Pháp luật Việt Nam luôn khuyến khích động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân được tham gia tích cực vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người nói riêng. Trường hợp của người dân có ý kiến lên cổng TTĐT Bộ Công an, việc người dân phát hiện một phụ nữ gần nhà anh thường xuyên bị một người ở địa phương khác đến rủ đi lao động ở nước ngoài và anh nghi ngờ người đó đang có hành vi dụ dỗ người hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, anh hoàn toàn có quyền được đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan công quyền khác của Nhà nước như Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,... để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi ngờ của mình để các cơ quan này tiến hành các hoạt động điều tra xác minh và làm rõ có hay không có hành vi phạm tội mua bán người hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác để kịp thời xử lý. Mặt khác, nếu có thể anh nên gặp gỡ trực tiếp chị hàng xóm nghi là nạn nhân hoặc người thân của chị để nói lên những băn khoăn nghi ngờ của mình để người hàng xóm cảnh giác, tìm hiểu kỹ trước khi quyết định đi lao động nước ngoài, không để trở thành nạn nhân của mua bán người. - Theo đó, nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác mà không báo Công an để ngăn chặn thì có bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm không? Bộ Công an trả lời như sau: Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tại: Căn cứ tại Điều 18 quy định về Che giấu tội phạm, như sau: Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định. Đồng thời, tại Điều 19 cũng quy định về Không tố giác tội phạm Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này. Trường hợp của người dân mới chỉ là nghi ngờ về việc một người có hành vi dụ dỗ người phụ nữ hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, bản thân anh cũng không thể biết chính xác hành vi của người đến rủ chị hàng xóm đi lao động nước ngoài có đúng là để lừa bán hay không nên việc anh không đi trình báo Công an để ngăn chặn không bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm. Tuy nhiên, khi phát hiện hành vi dụ dỗ, tuyển mộ người đi lao động nước ngoài nghi ngờ là để bán, anh nên đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan chức năng khác để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi vấn của mình như đã nêu ở phần trên để các cơ quan này tiến hành điều tra xác minh xử lý. Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an
Người đã áp dụng biện pháp giáo dưỡng thì có xem là phạm tội lần đầu?
Người được xác định là phạm tội lần đầu được sẽ được Tòa án xem xét giảm án khi là lần đầu vi phạm. Tình tiết trên là dữ kiện quý giá cho việc tuyên mức án của người phạm tội. Vậy trường hợp trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì có được xem là phạm tội lần đầu? 1. Phạm tội lần đầu là gì? Cụ thể tại mục 4 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC có giải thích tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 được hiểu như sau: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Hiện nay, chưa có quy định chính thức về thuật ngữ phạm tội lần đầu nhưng từ dữ kiện trên có thể hiểu người phạm tội lần đầu là người chưa lần chưa phạm tội hoặc đã phạm tội nhưng không xem xét truy cứu trách nhiệm hoặc đã được xóa án tích. 2. Có bao nhiêu trường hợp được xác định là phạm tội lần đầu? Căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP quy định phạm tội được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Trước đó chưa phạm tội lần nào. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. - Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. 3. Người phạm tội lần đầu có phải đi tù? Tù có thời hạn hiện nay được quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được Tòa án áp dụng thực hiện như sau: - Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. - Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. - Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Ngoài ra, không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, nếu người phạm tội lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng thì được xem xét không áp dụng hình phạt tù. Trường hợp thiếu các điều kiện trên thì có thể áp dụng hình phạt tù. 4. Như thế nào được xem là phạm tội ít nghiêm trọng? Hiện hành theo Bộ luật Hình sự 2015 thì các tội được xem là tội phạm ít nghiêm trọng thì vẫn có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức thấp. Theo đó, người phạm tội ít nghiêm trọng sẽ bị phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc cao nhất là phạt tù đến 3 năm. Sau đây là ví dụ về tội phạm ít nghiêm trọng: - Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết hoặc loại bỏ con mới đẻ. - Điều 126 khoản 1 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn khả năng tự vệ hoặc vượt mức cần thiết khi truy bắt người phạm tội. - Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội hành hạ người khác và nhiều tội danh khác nhưng đều chỉ có mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là đến hai năm tù (theo quy định là dưới ba năm tù). Như vậy, người bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng do đã vi phạm trước đó mà lần tiếp theo vẫn phạm tội thì sẽ được xác định là phạm tội lần đầu nếu là phạm tội ít nghiêm trọng, vô ý phạm tội và có nơi cư trú rõ ràng.
Người dân bắt được đối tượng bị truy nã thì có được thưởng tiền không?
Khi nào một người bị truy nã? Nếu bắt được người bị truy nã có được thưởng tiền hay không? Đây là thắc mắc của một số người dân, liệu có giống như những phim kiếm hiệp nếu bắt được đối tượng bị truy nã sẽ được thưởng trăm lượng vàng, ngàn lượng vàng? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Truy nã được quy định như thế nào? Truy nã là việc cơ quan điều tra ra quyết định để truy tìm tung tích của người vi phạm pháp luật hình sự (đã có hoặc chưa có bản án xét xử của tòa án) khi người đó bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu. Truy nã tội phạm là hoạt động tố tụng hình sự – nghiệp vụ của lực lượng công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm phát hiện, tìm kiếm, bắt giữ người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù hoặc tử hình. Căn cứ nào để quyết định truy nã? Cơ quan có thẩm quyền chỉ được ra quyết định truy nã khi có đủ các điều kiện sau đây: - Đối tượng bị áp dụng: Truy nã có thể được áp dụng với một trong các đối tượng: Bị can, bị cáo; người bị kết án trục xuất, người chấp hành án trục xuất; người bị kết án phạt tù; người bị kết án tử hình; người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu. - Có đủ căn cứ xác định đối tượng trên đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả; - Đã xác định chính xác lý lịch, các đặc điểm để nhận dạng đối tượng bỏ trốn. Trong đó, theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC, các đối tượng sau đây nếu bỏ trốn thì sẽ bị truy nã: - Bị can, bị cáo - Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất - Người bị kết án phạt tù, tử hình - Người đang, tạm đình chỉ hoặc hoãn chấp hành án phạt tù Khi đó, theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bất cứ ai cũng có quyền bắt và giải ngay người đang bị truy nã đến cơ quan công an, Viện kiểm sát, ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và báo ngay hoặc giải ngay người bị truy nã đến cơ quan có thẩm quyền. Bắt được người bị truy nã có được thưởng tiền không? Hiện nay, theo pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể cho việc hứa thưởng với những người dân phối hợp vây bắt đối tượng phạm nhân trốn thoát. Tuy nhiên, trước đây thì Bộ Công an có đề xuất thưởng 5 triệu đồng cho cá nhân và nhiều nhất là 20 triệu đồng cho tổ chức có thành tích trong công tác phòng, chống tội phạm, gia đình và người trực tiếp tham gia phòng, chống tội phạm bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hay tài sản và các đơn vị liên quan đến hoạt động phòng, chống tội phạm ở trung ương và địa phương. Khoản tiền thưởng này sẽ được trích từ quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách cho người bắt tội phạm bị truy nã. Mặc dù khi dự thảo này được đề xuất có rất nhiều người đồng tình ủng hộ, nhưng bên cạnh vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều cho rằng mức thưởng này còn chưa phù hợp vì hành vi của những kẻ phạm tội rất hung hãn có thể gây ra những rủi ro không đáng có cho người dân. Khi bắt được người bị truy nã, người dân cần làm gì? Căn cứ theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,, quy định về việc bắt người đang bị truy nã như sau: Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Như vậy, theo quy định nêu trên, khi người dân bắt được người đang bị truy nã thì có thể giải ngay đến những cơ quan sau đây: - Cơ quan Công an nơi gần nhất; - Viện kiểm sát nơi gần nhất; - Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Khi tiếp nhận người đang bị truy nã thì các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.