Phân biệt giữa Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Hiện nay, nhiều trường hợp người bị hại đến trình báo cơ quan Công an tố người phạm tội là lừa đảo, nhưng thực tế, người phạm tội chỉ có hành vi gian dối để kéo dài thời gian trả nợ hoặc có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản mà mình đã vay, mượn của người bị hại trước đó. Vậy làm sao để phân biệt được trường hợp nào là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt, trường hợp nào là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? Cả hai tội này đều có dấu hiệu chung là người phạm tội phải có hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là chiếm đoạt thì rất phức tạp. Mới đây nhất là vụ việc Tổng giám đốc Tập đoàn nước giải khát Tân Hiệp Phát và những người có liên quan đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc khởi tố và bắt tạm giam ông Thanh nằm trong diễn tiến giải quyết đơn tố cáo về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Trốn thuế và Cưỡng đoạt tài sản. Xem thêm bài viết liên quan: Hướng dẫn tố cáo hành vi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tiêu chí Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Cơ sở pháp lý Điều 174 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Điều 175 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Đối tượng Tài sản bị chiếm đoạt do người khác quản lý, có thể là tài sản của Nhà nước. Tài sản bị chiếm đoạt do chính người phạm tội quản lý. Tính chất Thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt phải diễn ra từ trước. Sau khi được giao tài sản (hợp pháp) mới phát sinh hành vi chiếm đoạt. Hành vi Thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng: - Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; - Đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Giá trị tài sản để định tội - Trên 02 triệu đồng - Dưới 02 triệu đồng, thuộc các trường hợp: + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; + Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; + Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; + Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. - Trên 04 triệu đồng - Dưới 04 triệu đồng, thuộc các trường hợp: + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt + Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; + Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Hình phạt - Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Mức phạt tối đa: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm - Mức phạt tối đa: thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mức xử phạt hành chính đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Căn cứ điểm c, d khoản 1, điểm b, c, e khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP cá nhân vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác mà có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bị xử phạt như sau: - Phạt 02 triệu đồng - 03 triệu đồng đối một trong những hành vi sau đây: Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. - Phạt 03 triệu đồng - 05 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản. + Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác. + Cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, còn bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Lưu ý: Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm thì mức phạt gấp 02 lần. Xem thêm bài viết liên quan: Hướng dẫn tố cáo hành vi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản
Dùng "cò" để bán vé xem đá bóng giả có bị phạt tù không?
Căn cứ Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có quy định như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. ... 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo đó, hành vi bán vé giả sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Từ vụ Alibaba: Khi nào được xem là vi phạm tội sử dụng đất đai?
Đại án Alibaba thời gian vừa qua là một trong những vụ án nổi bật và vẫn đang được bàn tán rất nhiều về tính quy mô, nguy hiểm và nghiêm trọng rất lớn đến quyền lợi của nhân dân và nhà nước về vấn đề đất đai. Trong những ngày luận án tại Tòa thì phía Luật sư của bị cáo Luyện tức giám đốc tập đoàn Alibaba đề xuất Viện Kiểm sát thay đổi tội danh từ lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo Bộ luật Hình sự 2015. Vậy phía Luật sư cho rằng tập đoàn Alibaba đề xuất như vậy đã đúng luật hay chưa? Luật sư bào chữa cho bị cáo Luyện cho rằng tập đoàn Alibaba là kinh doanh bất động sản và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng theo Luật Đất đai 2013, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và Hiến pháp 2013 nước Việt Nam. Và không hề vi phạm đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như đại diện Viện Kiểm sát đã đề xuất truy tố. Cụ thể Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015 cho rằng tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được quy định như sau: Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Khung thứ nhất: Phạt tiền từ 50 triệu đồng - 500 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng - 03 năm. Khung thứ hai: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500 triệu đồng - 02 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 02 năm - 07 năm: - Có tổ chức. - Phạm tội 02 lần trở lên. - Tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Qua đó, có thể thấy với tội vi phạm sử dụng đất đai thì dù là hình phạt cao nhất thì người vi phạm chỉ bị phạt tiền từ 500 triệu đồng - 02 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 02 năm - 07 năm. So với độ quy mô và tính chất nguy hiểm do mình gây ra với tổng số tiền mà công ty này lừa đảo và rửa tiền lên đến 2.260 tỷ đồng và hàng ngàn bị hại. So với mức hình phạt mà tội vi phạm các quy định sử dụng đất đai là quá thấp và cũng không thuộc phạm vi tại tội này. Điều này cũng được phía Viện Kiểm sát đưa ra quan điểm như sau: Bởi lẽ, thứ nhất, theo khoản 4 Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 thì các các loại bất động sản đưa vào kinh doanh gồm các loại đất được phép: - Chuyển nhượng. - Cho thuê. - Cho thuê lại quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, trong vụ án này, quá trình điều tra xác minh các loại đất mà Luyện dùng để làm các dự án đều là đất nông nghiệp, có cả đất quốc phòng. Qua đó có thể thấy các loại đất mà tập đoàn Alibaba kinh doanh không được cấp quyền sử dụng đất mà đây là các dự án do công ty này tự vẽ ra và bán ra thị trường. Có thể nói đây là các “dự án ma”, qua đó xét rằng tính chất của vụ án không hề liên quan đến chủ thể là đất đai và bất động sản. Quan điểm thứ hai của Viện Kiểm sát, theo quy định tại Điều 168 Luật Đất đai 2013 thì thời điểm để thực hiện các quyền của người sử dụng đất là sau khi có Giấy chứng nhận QSDĐ. Nhưng trong vụ án này nhiều thửa đất mà Luyện cùng đồng phạm khi mua chưa được đăng bộ sang tên. Khi chưa có chủ quyền trên Giấy chứng nhận mà Luyện đã chỉ đạo “vẽ” dự án bán đất cho người khác là vi phạm quy định của pháp luật. Quan điểm thứ ba, theo quy định tại Điều 12 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 thì dự án đầu tư bất động sản để kinh doanh phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tóm lại trường hợp của Luyện chỉ lợi dụng đất đai ảo trên giấy tờ để thực hiện hành vi lừa đảo với mục đích cuối cùng là chiếm đoạt số tiền đó và rửa tiền từ “đen thành trắng” đây là hành vi hết sức tinh vi và thủ đoạn cao. Cũng theo đại diện Viện Kiểm soát để một dự án đúng theo quy định của pháp luật thì chủ đầu tư phải trải qua các bước như lập dự án, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, đầu tư cơ sở hạ tầng (đường, điện…). Trong những điều kiện này, bị cáo Luyện đều không có nên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Từ vụ Alibaba: Khi nào được xem là vi phạm tội sử dụng đất đai? Như vậy, để truy tố về tội vi phạm sử dụng đất đai thì người vi phạm phải có liên quan trực tiếp và giấy tờ hợp pháp về đất đai thuộc quyền sở hữu của mình và được cơ quan có thẩm quyền quyết định cấp giấy phép. Còn đối với trường của doanh nghiệp Alibaba thì đây là hành vi kinh doanh bất động sản ảo không có giá trị thực tự mình vẽ lên để chiếm đoạt tài sản của người mua.
Cho mượn tiền không trả có thể kết thành tội lừa đảo không?
Chuyện là như thế này...có 1 người mượn em 1 số tiền ,có ghi giấy mượn kèm theo bản chứng minh photo và trong giay co ghi hẹn 1 tháng sẽ gửi tiền cho e...nhưng đến nay đã 3 tháng mak vẩn chưa gửi cho e thi có kết thành tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản ko ạ...
Phân biệt giữa Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Hiện nay, nhiều trường hợp người bị hại đến trình báo cơ quan Công an tố người phạm tội là lừa đảo, nhưng thực tế, người phạm tội chỉ có hành vi gian dối để kéo dài thời gian trả nợ hoặc có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản mà mình đã vay, mượn của người bị hại trước đó. Vậy làm sao để phân biệt được trường hợp nào là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt, trường hợp nào là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? Cả hai tội này đều có dấu hiệu chung là người phạm tội phải có hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là chiếm đoạt thì rất phức tạp. Mới đây nhất là vụ việc Tổng giám đốc Tập đoàn nước giải khát Tân Hiệp Phát và những người có liên quan đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc khởi tố và bắt tạm giam ông Thanh nằm trong diễn tiến giải quyết đơn tố cáo về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Trốn thuế và Cưỡng đoạt tài sản. Xem thêm bài viết liên quan: Hướng dẫn tố cáo hành vi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tiêu chí Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Cơ sở pháp lý Điều 174 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Điều 175 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Đối tượng Tài sản bị chiếm đoạt do người khác quản lý, có thể là tài sản của Nhà nước. Tài sản bị chiếm đoạt do chính người phạm tội quản lý. Tính chất Thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt phải diễn ra từ trước. Sau khi được giao tài sản (hợp pháp) mới phát sinh hành vi chiếm đoạt. Hành vi Thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng: - Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; - Đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Giá trị tài sản để định tội - Trên 02 triệu đồng - Dưới 02 triệu đồng, thuộc các trường hợp: + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; + Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; + Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; + Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. - Trên 04 triệu đồng - Dưới 04 triệu đồng, thuộc các trường hợp: + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt + Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; + Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Hình phạt - Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Mức phạt tối đa: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm - Mức phạt tối đa: thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Mức xử phạt hành chính đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Căn cứ điểm c, d khoản 1, điểm b, c, e khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP cá nhân vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác mà có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bị xử phạt như sau: - Phạt 02 triệu đồng - 03 triệu đồng đối một trong những hành vi sau đây: Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. - Phạt 03 triệu đồng - 05 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản. + Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác. + Cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, còn bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Lưu ý: Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm thì mức phạt gấp 02 lần. Xem thêm bài viết liên quan: Hướng dẫn tố cáo hành vi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản
Dùng "cò" để bán vé xem đá bóng giả có bị phạt tù không?
Căn cứ Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có quy định như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. ... 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo đó, hành vi bán vé giả sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Từ vụ Alibaba: Khi nào được xem là vi phạm tội sử dụng đất đai?
Đại án Alibaba thời gian vừa qua là một trong những vụ án nổi bật và vẫn đang được bàn tán rất nhiều về tính quy mô, nguy hiểm và nghiêm trọng rất lớn đến quyền lợi của nhân dân và nhà nước về vấn đề đất đai. Trong những ngày luận án tại Tòa thì phía Luật sư của bị cáo Luyện tức giám đốc tập đoàn Alibaba đề xuất Viện Kiểm sát thay đổi tội danh từ lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo Bộ luật Hình sự 2015. Vậy phía Luật sư cho rằng tập đoàn Alibaba đề xuất như vậy đã đúng luật hay chưa? Luật sư bào chữa cho bị cáo Luyện cho rằng tập đoàn Alibaba là kinh doanh bất động sản và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng theo Luật Đất đai 2013, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và Hiến pháp 2013 nước Việt Nam. Và không hề vi phạm đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như đại diện Viện Kiểm sát đã đề xuất truy tố. Cụ thể Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015 cho rằng tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được quy định như sau: Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Khung thứ nhất: Phạt tiền từ 50 triệu đồng - 500 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng - 03 năm. Khung thứ hai: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500 triệu đồng - 02 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 02 năm - 07 năm: - Có tổ chức. - Phạm tội 02 lần trở lên. - Tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Qua đó, có thể thấy với tội vi phạm sử dụng đất đai thì dù là hình phạt cao nhất thì người vi phạm chỉ bị phạt tiền từ 500 triệu đồng - 02 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 02 năm - 07 năm. So với độ quy mô và tính chất nguy hiểm do mình gây ra với tổng số tiền mà công ty này lừa đảo và rửa tiền lên đến 2.260 tỷ đồng và hàng ngàn bị hại. So với mức hình phạt mà tội vi phạm các quy định sử dụng đất đai là quá thấp và cũng không thuộc phạm vi tại tội này. Điều này cũng được phía Viện Kiểm sát đưa ra quan điểm như sau: Bởi lẽ, thứ nhất, theo khoản 4 Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 thì các các loại bất động sản đưa vào kinh doanh gồm các loại đất được phép: - Chuyển nhượng. - Cho thuê. - Cho thuê lại quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, trong vụ án này, quá trình điều tra xác minh các loại đất mà Luyện dùng để làm các dự án đều là đất nông nghiệp, có cả đất quốc phòng. Qua đó có thể thấy các loại đất mà tập đoàn Alibaba kinh doanh không được cấp quyền sử dụng đất mà đây là các dự án do công ty này tự vẽ ra và bán ra thị trường. Có thể nói đây là các “dự án ma”, qua đó xét rằng tính chất của vụ án không hề liên quan đến chủ thể là đất đai và bất động sản. Quan điểm thứ hai của Viện Kiểm sát, theo quy định tại Điều 168 Luật Đất đai 2013 thì thời điểm để thực hiện các quyền của người sử dụng đất là sau khi có Giấy chứng nhận QSDĐ. Nhưng trong vụ án này nhiều thửa đất mà Luyện cùng đồng phạm khi mua chưa được đăng bộ sang tên. Khi chưa có chủ quyền trên Giấy chứng nhận mà Luyện đã chỉ đạo “vẽ” dự án bán đất cho người khác là vi phạm quy định của pháp luật. Quan điểm thứ ba, theo quy định tại Điều 12 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 thì dự án đầu tư bất động sản để kinh doanh phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tóm lại trường hợp của Luyện chỉ lợi dụng đất đai ảo trên giấy tờ để thực hiện hành vi lừa đảo với mục đích cuối cùng là chiếm đoạt số tiền đó và rửa tiền từ “đen thành trắng” đây là hành vi hết sức tinh vi và thủ đoạn cao. Cũng theo đại diện Viện Kiểm soát để một dự án đúng theo quy định của pháp luật thì chủ đầu tư phải trải qua các bước như lập dự án, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, đầu tư cơ sở hạ tầng (đường, điện…). Trong những điều kiện này, bị cáo Luyện đều không có nên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Từ vụ Alibaba: Khi nào được xem là vi phạm tội sử dụng đất đai? Như vậy, để truy tố về tội vi phạm sử dụng đất đai thì người vi phạm phải có liên quan trực tiếp và giấy tờ hợp pháp về đất đai thuộc quyền sở hữu của mình và được cơ quan có thẩm quyền quyết định cấp giấy phép. Còn đối với trường của doanh nghiệp Alibaba thì đây là hành vi kinh doanh bất động sản ảo không có giá trị thực tự mình vẽ lên để chiếm đoạt tài sản của người mua.
Cho mượn tiền không trả có thể kết thành tội lừa đảo không?
Chuyện là như thế này...có 1 người mượn em 1 số tiền ,có ghi giấy mượn kèm theo bản chứng minh photo và trong giay co ghi hẹn 1 tháng sẽ gửi tiền cho e...nhưng đến nay đã 3 tháng mak vẩn chưa gửi cho e thi có kết thành tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản ko ạ...