"Phép vua thua lệ làng" là gì? Trường hợp pháp luật không quy định thì có được áp dụng tập quán?
"Phép vua thua lệ làng" là một trong những điển hình thể hiện mâu thuẫn giữa quyền lực và truyền thống dân gian. Vậy câu tục ngữ này có ý nghĩa gì? 1. "Phép vua thua lệ làng" là gì? Câu tục ngữ "Phép vua thua lệ làng" thường được dùng để chỉ tình trạng phong tục tập quán của một cộng đồng, một làng xã có sức mạnh lớn đến mức có thể vượt qua cả pháp luật của nhà nước. Nói cách khác, đôi khi những quy định, luật lệ của vua (đại diện cho nhà nước) lại không thể áp dụng một cách triệt để vào cuộc sống của người dân, đặc biệt là ở cấp độ làng xã. - Phép vua: Chính là đại diện cho pháp luật, chế độ, quy định của nhà nước. Đây là những quy tắc chung được áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ. - Lệ làng: Chỉ những phong tục, tập quán, những quy định không thành văn được hình thành và duy trì trong một cộng đồng nhỏ, thường là làng xã. Những quy định này thường mang tính truyền thống, được truyền miệng từ đời này sang đời khác và có sức ràng buộc rất lớn đối với người dân trong làng. Câu tục ngữ gồm hai vế “phép vua” và ‘lệ làng” được liên kết với nhau bởi chữ “thua”, tạo nên một phép so sánh khập khiễng, không ngang bằng. Đồng thời nó cũng cho thấy sự mâu thuẫn bởi một quy định mang tính phổ quát chung lại phải “chào thua” những phong tục trong một cộng đồng nhỏ bé. Mặc dù mỗi thời mỗi khác, thế nhưng phép vua chính là đại diện cho luật pháp, là điều luật có giá trị bao quát đời sống của toàn bộ người dân trong nước. Trong khi lệ làng là những phong tục văn hóa cổ truyền có từ lâu đời, chỉ giới hạn trong phạm nhỏ hẹp. Và cho dù là luật nước hay lệ làng, thì câu nói này cũng đều mang hàm ý ám chỉ tính kỷ luật. 2. Trường hợp pháp luật không quy định thì có được áp dụng tập quán? Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015 thì tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự bao gồm: - Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. - Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. - Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. - Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. - Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Ngoài ra, trong trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. (theo khoản 1 Điều 6 Bộ luật Dân sự 2015) Tuy nhiên cần lưu ý, khi xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. (khoản 1 Điều 7 Bộ luật Dân sự 2015). Tóm lại, mặc dù câu tục ngữ "Phép vua thua lệ làng" được hình thành trong bối cảnh xã hội nông nghiệp truyền thống, nhưng nó vẫn có những ý nghĩa nhất định trong xã hội hiện đại. Nó nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc tôn trọng truyền thống, văn hóa của từng địa phương, đồng thời cũng cho thấy sự cần thiết của việc xây dựng một hệ thống pháp luật linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng miền.
Nhập gia tùy tục nghĩa là gì? Khi nào thì tập tục, tập quán vùng miền được pháp luật áp dụng?
Tôi thấy trong sách báo thường có nhắc đến câu “Nhập gia tùy tục”, vậy cho tôi hỏi ý nghĩa của câu này là gì? Minh Quân - Cần Thơ 1. Nhập gia tùy tục nghĩa là gì? Nhập gia tùy tục là câu thành ngữ được truyền lại từ nhiều thế hệ trước đây của người Việt Nam, nhằm mục đích dạy dỗ con cháu về thái độ ứng xử khi giao tiếp xã hội. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của thành ngữ nhập gia tùy tục, thì ta cần xem nghĩa từng chữ trong câu “Nhập gia tùy tục", cụ thể: - Nhập: gia nhập. - Gia: gia trong gia đình, có thể hiểu rộng hơn đó là một nơi, một địa điểm, một đất nước nào đó. - Tùy: tùy có nghĩa thuận theo, nghe theo - Tục: tục trong phong tục tập quán. Hay có thể hiểu là văn hóa, lối sống của con người tại một vùng một đất nước nào đó. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì nhập gia tùy tục có nghĩa là: - Vào một gia đình, một nơi nào đó thì phải tuân theo, hoà nhập với lối sống, tập quán, lề thói ở đó. - Tham gia vào lĩnh vực nào đó thì phải tuân thủ những nguyên tắc, phương pháp có tính đặc thù của lĩnh vực đó. Như vậy, ý nghĩa cơ bản của câu thành ngữ “Nhập gia tùy tục" là khi vào nhà người khác hoặc đến một cộng đồng mới, chúng ta cần tôn trọng và tuân thủ phong tục, tập quán của nơi đó. Không nên cố ý áp đặt những thói quen, sinh hoạt riêng của mình lên người khác. Thông điệp của câu tục ngữ là khuyên con người cần linh hoạt, thích ứng với môi trường, cộng đồng mới. Điều này thể hiện sự tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt về văn hóa. Ngoài ra, nó cũng thể hiện tinh thần hòa đồng, sẵn sàng học hỏi để hòa nhập. Ngày nay, ý nghĩa của câu tục ngữ vẫn còn nguyên giá trị. Khi chúng ta đi du lịch, công tác, sinh sống ở nước ngoài hay khu vực mới, việc tôn trọng và tuân thủ phong tục tại đó vẫn là điều cần thiết, thể hiện sự tôn trọng và thái độ ứng xử văn minh. Đó cũng chính là tinh thần mà tục ngữ nhắc nhở chúng ta. 2. Khi nào thì tập tục, tập quán của vùng miền được pháp luật áp dụng? Hiện nay, có nhiều thuật ngữ để chỉ những cách xử sự được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen, được nhiều người thừa nhận và tuân theo như “tập quán”, “phong tục”, “tập tục”...một số cách hiểu về những thuật ngữ nói trên: (1) Tập quán được xem là “thói quen” hay “theo thói quen mà thành ra vững chắc. (2) Còn phong tục được xem là “thói quen trong xã hội” hay “đó là một số tập quán và nếp sống có ý nghĩa từ lâu đời và ăn sâu vào đời sống” (3) Tập tục được hiểu là cách nói tắt của tập quán và phong tục (tập là tập quán, tục là phong tục) Tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 thì quy định về việc áp dụng tập quán như sau: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự” Do đó, những tập quán được áp dụng trong giao dịch dân sự phải là các tập quán đã được hình thành trong đời sống dân sự cụ thể, đã được thực hiện và sử dụng thường xuyên được cộng đồng thừa nhận. Từ đó hình thành nên một quy ước để mọi người đều tuân theo nó khi thực hiện các giao dịch. Ví dụ điển hình là việc sử dụng đơn vị cân, đong đếm tại các vùng miền của Việt Nam. Thông thường theo quy tắc toán học một chục được hiểu là mười nhưng trong mua bán hàng hóa nhất là nông sản ở một số địa phương miền Nam thường dùng đơn vị chục thì được tính là 12 (mua một chục trứng thì được 12 quả trứng...). Bên cạnh đó, trong thực hiện và áp dụng pháp luật một số tập tục có thể được áp dụng để giải quyết vụ việc. Trong một số trường hợp, khi quy định về một vấn đề phức tạp đã và đang tồn tại nhiều cách giải quyết phù hợp ở địa phương, nhà làm luật có thể trù liệu là cho phép giải quyết theo tập tục của mỗi địa phương. Chẳng hạn: - Đối với nghĩa vụ của người hưởng dụng tại khoản 4 Điều 262 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi phục tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo quản tài sản.". - Đối với việc giải quyết tranh chấp ranh giới bất động sản tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp…". - Đối với việc đặt tên cho con tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ…”. Theo đó, tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự 2015.". Trong giao dịch dân sự thì sự tự do, tự nguyện trong việc thỏa thuận, cam kết luôn được pháp luật thừa nhận nếu không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Do các giao dịch dân sự trong xã hội luôn phát sinh, thay đổi không ngừng và pháp luật cũng không thể dự liệu hết được. Thừa nhận việc áp dụng tập quán trong giao dịch dân sự giúp cho việc giải quyết các vấn đề phát sinh được thuận lợi, thông suốt, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, để tập quán được áp dụng và giải quyết các giao dịch dân sự thì tập quán đó không được trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự 2015. Như vậy, trong đời sống xã hội thì việc áp dụng tập quán để giải quyết các giao dịch dân sự phát sinh khi không có quy định của pháp luật điều chỉnh là điều thật sự cần thiết. Việc áp dụng những tập quán tiến bộ để giải quyết các vụ việc dân sự là nhu cầu chính đáng và được pháp luật công nhận. Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự giúp cho các chủ thể tham gia giải quyết các vụ việc một cách thấu tình, đạt lý, tuân theo pháp luật góp phần ổn định xã hội. Nguồn tham khảo: http://pbgdpl.camau.gov.vn/
Tập quán pháp và tiền lệ pháp có điểm chung là gì?
Nhận định đúng/sai? Giải thích: Tập quán pháp và tiền lệ pháp có điểm chung là cùng dựa trên cơ sở các quy tắc xử sự đã tồn tại trong cuộc sống để hình thành các quy định pháp luật. Nhận định đúng/sai? Giải thích
04 ví dụ điển hình về việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự
Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cho phép việc áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. 04 ví dụ sau đây sẽ cụ thể hóa việc áp dụng tập quán vào xét xử dân sự tại Việt Nam. 1. Vụ án “Cây chà 19 tiếng” Nhắc đến việc áp dụng tập quán vào xét xử án dân sự không thể không nhắc đến vụ án “Cây chà 19 tiếng”. Vụ án này chính là vụ án điển hình cho việc áp dụng tập quán địa phương trong thực tiễn xét xử tại nước ta. Có thể hiểu tóm tắt nội dung vụ án như sau: Nguyên đơn: Bà Chiêm Thị Mỹ L. Bị đơn: Ông La Văn T. Đây là vụ án tranh chấp quyền đánh bắt hải sản giữa chủ tàu và người làm công do TAND huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thụ lý giải quyết. “Cây chà” là một tổ cá nhân tạo làm bằng cây để thu hút cá và các hải sản khác đến trú ngụ, tạo thuận lợi cho ngư dân đánh bắt cá. Còn “19 tiếng” là chỉ thời gian từ bờ đến cây chà. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả lại cây chà, có nghĩa là trả lại quyền khai thác điểm đánh bắt hải sản xa bờ. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ lời khai bị đơn thừa nhận cây chà vốn là của nguyên đơn nên xử chấp nhận yêu cầu, buộc bị đơn trả lại cây chà cho nguyên đơn. Sau khi xét xử phúc thẩm, cơ quan thi hành án địa phương có công văn phản ánh khó khăn trong thi hành bản án, đặc biệt là đơn khiếu nại của 30 ngư dân huyện Long Đất cho biết theo tập quán địa phương, người chủ cây chà nếu bỏ không khai thác trong 3 tháng thì đương nhiên người khác có quyền khai thác. Vì vậy, Tòa án Tối cao đã xác định trong Quyết định giám đốc thẩm rằng bị đơn khai thác hải sản tại địa điểm có cây chà là phù hợp với tập quán, không trái pháp luật; sau đó tuyên hủy bản án phúc thẩm, trả hồ sơ để xét xử lại theo hương bác yêu cầu của nguyên đơn.(1) >>>Xem chi tiết Bản án sơ thẩm vụ án này TẠI ĐÂY 2. Vận dụng “tập quán đạo đức xã hội” vào xét xử Nguyên đơn: cụ Trần Thị Xăng, cụ Nguyễn Văn Hiển Bị đơn: Chị Phan Thị Cẩm Vân Do nguyên đơn già yếu, không còn sức lao động nên gọi bị đơn về sống chung nhà; bị đơn hứa với nguyên đơn sẽ chăm sóc phụng dưỡng nguyên đơn đến khi qua đời. Vì vậy, nguyên đơn làm hợp đồng tặng cho bị đơn toàn bộ diện tích đất cùng với nhà cửa gắn liền trên đất vào năm 2007; sau đó bị đơn đã hoàn thành các thủ tục chuyển đổi quyền sở hữu đối với mảnh đất trên. Trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không có quy định về điều kiện của bên tặng cho đối với bên được tặng cho. Tuy nhiên, sau khi nguyên đơn cho đất và nhà xong thì bị đơn ngược đãi, thậm chí đánh đuổi ra khỏi nhà, không nuôi dưỡng như lời hứa ban đầu. Do đó, nguyên đơn khởi kiện đòi lại nhà đất. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Tại Quyết định giám đốc thẩm của vụ án trên đã tuyên hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, yều cầu xét xử sơ thẩm lại để đảm bảo quyền lợi cho nguyên đơn với lý do sau đây: - Tuy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không có quy định về điều kiện của bên tặng cho đối với bên được tặng cho, nhưng thực tế nguyên đơn ngoài nhà đất đã tặng cho bị đơn thì không còn nhà đất nào khác, nên lời khai của nguyên đơn về điều kiện đặt ra khi tặng, cho bị đơn nhà đất là có cơ sở và cũng phù hợp với tập quán đạo đức xã hội. - Bên cạnh đó, nguyên đơn được quyền đảm bảo về chổ ở theo quy định pháp luật và bị đơn cũng tha thiết mong ông bà sống vui vẻ với bị đơn, được chăm sóc nguyên đơn đến khi qua đời là phù hợp trách nhiệm pháp lý theo luật định và phù hợp với trách nhiệm về đạo lý. - Nếu nguyên đơn yêu cầu được sống riêng thì cần buộc bị đơn phải dành cho nguyên đơn một diện tích nhà đất hợp lý để được sống độc lập tại nhà đất nói trên cho đến khi qua đời (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phần dành cho nguyên đơn vẫn thuộc về bị đơn. Nội dung trên đã được đề xuất lựa chọn làm án lệ. >>>Xem chi tiết nội dung bản án TẠI ĐÂY 3. Tập quán về chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng tài sản(2) Đồng bào dân tộc H’Mông (Lai Châu) có phong tục mượn gia súc như trâu, bò để canh tác. Mỗi khi mượn, người mượn phải mang một chai rượu ngô hoặc rượu gạo và một chút thức ăn thường ngày đến để cùng uống rượu với chủ sở hữu gia súc với ý nghĩa là hàm ơn và là một nghi thức của tập quán. A là chủ sở hữu của một con trâu đực đã yêu cầu B đang chiếm hữu con trâu đó có nghĩa vụ giao trả con trâu đã mượn. B không đáp ứng yêu cầu của A với lý do là A đã bán con trâu đó cho ông 12 tháng rồi. Tuy nhiên, không có một bằng chứng nào về việc giao kết hợp đồng mua bán trâu giữa A và B. Theo tập quán địa phương, B không có nghĩa vụ phải trả lại trâu cho A vì B không phải thực hiện nghi thức là mang rượu và thức ăn đến nhà A để cùng uống và mượn trâu, cho nên việc mượn trâu là không có. Hơn nữa, đồng bào dân tộc H’Mông không có lệ mượn trâu trong thời hạn dài như vậy, mà nếu không thoả thuận về thời hạn mượn thì bên mượn trâu có nghĩa vụ trả lại trâu sau khi mục đích mượn đã đạt được - là cày ruộng xong. Nếu mượn trâu thì A đã yêu cầu B trả lại trâu sau khi đã cày xong nương rẫy, không thể để cho B sử dụng trâu lâu như vậy. Áp dụng tập quán thì rõ ràng, B không mượn trâu của A vì không có việc B mang rượu và đồ ăn để uống và mượn trâu. Sự kiện này chứng tỏ rằng B đã mua con trâu của không có nghĩa vụ trả lại trâu; và B đã là chủ sở hữu của con trâu mua được cách thời điểm tranh chấp 12 tháng. 4. Tập quán về bồi thường (3) Hai dân tộc Êđê và M’nông ở Tây Nguyên đều có luật tục về bồi thường thiệt hại: người gây thiệt hại là người có trách nhiệm bồi thường; mức bồi thường cũng căn cứ vào hình thức lỗi của người gây thiệt hại; ngoài khoản bồi thường vật chất, người gây thiệt hại còn phải thực hiện những nghi lễ nhất định để chuộc lỗi; bồi thường thiệt hại cũng theo nguyên tắc toàn bộ và kịp thời. Ví dụ: Luật tục M’nông quy định hành vi của người đốt rẫy, để cháy sang rẫy của người khác là có lỗi vô ý, phải bồi thường: “rẫy cháy không sạch phải dọn; chòi bị cháy phải đền; không được đòi quá đáng; không được bắt đền to”. Hoặc: “Nuôi lợn cố tình thả rông; nuôi trâu cố tình thả rông; nuôi voi cố tình thả hoang, chúng ăn rẫy phải chịu, phá chòi phải đền. Lợn, trâu, voi làm sai, chủ phải đền.” Luật tục Êđê và M’nông đều quy định về trách nhiệm do gây thiệt hại về tài sản và mức bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do con người gây ra gồm: đốt rẫy cháy lan sang rẫy của người khác, đánh thuốc độc bắt cá suối, không chăm sóc trâu bò bị dịch, trâu bò bị dịch không thông báo, gây hại do cháy rừng, không tắt lửa nhà mình mà gây thiệt hại, gây thiệt hại về gia súc, gia cầm cho người khác, thả rông trâu, bò khi chưa đến mùa, giết gia súc trong vườn, rẫy của người khác. Những thiệt hại do con người gây ra được xác định dựa trên các yếu tố lỗi. Lỗi của người gây thiệt hại về tài sản phần nhiều là lỗi vô ý. *Ghi chú: (1) Theo Tạp chí TAND (2) (3) Theo Người bảo vệ quyền lợi – Trang Web của trung tâm tư vấn pháp luật TP.HCM – TW Hội Luật gia Việt Nam
Pháp luật có công nhận tập quán về hôn nhân và gia đình không?
Gần đây, trên các tờ báo liên tục đăng tin những vụ việc bắt vợ tại các tỉnh miền núi. Đối với người dân tại các địa phương này, tục bắt vợ đã không còn lạ lẫm với một số vùng dân tộc. Tuy nhiên, có trường hợp các cô gái không hề đồng ý. Có những cô gái thậm chị mới chỉ 14, 15 tuổi. Đây vốn là tập quán của mỗi vùng miền, vậy pháp luật có công nhận tập quán này không? Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng cho phép áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc và không vi phạm điều cấm của pháp luật sẽ được áp dụng theo Điều 7 của luật này: "Điều 7. Áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình 1. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng. 2. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này". Như vậy việc bắt vợ sẽ là một nét văn hóa đẹp của văn hóa Việt Nam nếu như không trái với các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về kết hôn. Theo đó cần sự tự nguyện của các bên, cũng như đảm bảo về độ tuổi kết hôn theo đúng quy định.
Văn bản về tập quán và thông lệ quốc tế
cho em hỏi về tập quán và thông lệ quốc tế với ạ văn bản luật càng tốt ạ
Nguyên tắc giải quyết vụ, việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Để giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, những tranh chấp pháp sinh nhưng chưa có điều luật để áp dụng thì Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã cho phép Tòa án áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự pháp luật và áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết; từ đó sẽ giải quyết được triệt để các tranh chấp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Theo đó, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung một điểm mới tại Điều 45 quy định về nguyên tắc giải quyết vụ, việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng như sau: Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự này, các đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật Dân sự. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự (khoản 1 Điều 45). Tập quán áp dụng phải là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Về việc áp dụng tương tự pháp luật được Tòa án thực hiện để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của BLDS năm 2015 và khoản 1 Điều này. Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự (khoản 2 Điều 45). Trường hợp Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của BLDS năm 2015, khoản 1 và khoản 2 Điều này. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự. Còn án lệ sẽ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Đối với lẽ công bằng thì được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó (khoản 3 Điều 45).
Giải quyết vụ việc dân sự thế nào nếu không có điều luật áp dụng?
Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng được quy định, hướng dẫn tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015, có thể tóm tắt một vài ý chính như sau: 1. Việc áp dụng tập quán được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự. 2. Việc áp dụng tương tự pháp luật được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều này. Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. 3. Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều này. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự. Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.
Con rể nghèo, bắt ở rể có thể vi phạm pháp luật
Việt Nam có nhiều tập quán được lưu truyền trong đời sống xã hội, hình thành thói quen lâu đời trong các cộng đồng dân cư. Trong số đó, có nhiều tập quán thể hiện truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc; tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều tập quán lạc hậu cần được xóa bỏ, đặc biệt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Thực tế ngày nay có nhiều trường hợp, khi kết hôn, do gia đình bên chú rễ có điều kiện kinh tế khó khăn hơn phía cô dâu nên bị gia đình cô dâu ra điều kiện phải "ở rễ" nếu muốn kết hôn. Tuy nhiên, hành vi này của gia đình cô dâu không những không "đẹp" về cách ứng xử lại còn vi phạm pháp luật. Cụ thể: Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành Danh mục Các tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình cần vận động xóa bỏ và cấm áp dụng. Cụ thể như sau: 1. Kết hôn trước tuổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. 2. Việc đăng ký kết hôn không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. 3. Cưỡng ép kết hôn do xem “lá số” và do mê tín dị đoan; cản trở hôn nhân do khác dân tộc, tôn giáo. 4. Cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên. 5. Nếu nhà trai không có tiền cưới và đồ sính lễ thì sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho bố, mẹ vợ. 6. Quan hệ gia đình theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ, không bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái. a) Chế độ phụ hệ: Khi ly hôn, nếu do người vợ yêu cầu ly hôn thì nhà gái phải trả lại nhà trai toàn bộ đồ sính lễ và những phí tổn khác; nếu do người chồng yêu cầu ly hôn thì nhà gái vẫn phải trả lại nhà trai một nửa đồ sính lễ. Sau khi ly hôn, nếu người phụ nữ kết hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì. Sau khi cha, mẹ ly hôn, con phải theo cha. Khi người chồng chết, người vợ góa không có quyền hưởng phần di sản của người chồng quá cố để lại. Nếu người vợ góa tái hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì. Khi người cha chết, chỉ các con trai có quyền còn các con gái không có quyền hưởng phần di sản của người cha quá cố để lại. b) Chế độ mẫu hệ: Người con bị bắt buộc phải mang họ của người mẹ. Khi người vợ chết, người chồng góa không có quyền hưởng phần di sản của người vợ quá cố để lại và không được mang tài sản riêng của mình về nhà. Khi người mẹ chết, chỉ các con gái có quyền còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để lại. Sau khi ở rể, người con rể bị “từ hôn” hoặc sau khi ăn hỏi, nhận đồ sính lễ, người con trai bị “từ hôn” thì không được bù trả lại. 7. Không kết hôn giữa người thuộc dân tộc này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo. ... Theo quy định trên thì hàng loạt các hủ tục lạc hậu bị xóa bỏ và cấm áp dụng, trong đó có nhiều “thói quen” vẫn có thể thấy ở nhiều nơi như: Nếu nhà trai không có tiền cưới và đồ sính lễ thì sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho bố, mẹ vợ; Không kết hôn giữa người thuộc dân tộc này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo; hay Cưỡng ép kết hôn do xem “lá số” và do mê tín dị đoan; cản trở hôn nhân do khác dân tộc, tôn giáo. Nên mọi người hãy cẩn thận và khuyên bảo người thân không nên vi phạm nhé.
"Phép vua thua lệ làng" là gì? Trường hợp pháp luật không quy định thì có được áp dụng tập quán?
"Phép vua thua lệ làng" là một trong những điển hình thể hiện mâu thuẫn giữa quyền lực và truyền thống dân gian. Vậy câu tục ngữ này có ý nghĩa gì? 1. "Phép vua thua lệ làng" là gì? Câu tục ngữ "Phép vua thua lệ làng" thường được dùng để chỉ tình trạng phong tục tập quán của một cộng đồng, một làng xã có sức mạnh lớn đến mức có thể vượt qua cả pháp luật của nhà nước. Nói cách khác, đôi khi những quy định, luật lệ của vua (đại diện cho nhà nước) lại không thể áp dụng một cách triệt để vào cuộc sống của người dân, đặc biệt là ở cấp độ làng xã. - Phép vua: Chính là đại diện cho pháp luật, chế độ, quy định của nhà nước. Đây là những quy tắc chung được áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ. - Lệ làng: Chỉ những phong tục, tập quán, những quy định không thành văn được hình thành và duy trì trong một cộng đồng nhỏ, thường là làng xã. Những quy định này thường mang tính truyền thống, được truyền miệng từ đời này sang đời khác và có sức ràng buộc rất lớn đối với người dân trong làng. Câu tục ngữ gồm hai vế “phép vua” và ‘lệ làng” được liên kết với nhau bởi chữ “thua”, tạo nên một phép so sánh khập khiễng, không ngang bằng. Đồng thời nó cũng cho thấy sự mâu thuẫn bởi một quy định mang tính phổ quát chung lại phải “chào thua” những phong tục trong một cộng đồng nhỏ bé. Mặc dù mỗi thời mỗi khác, thế nhưng phép vua chính là đại diện cho luật pháp, là điều luật có giá trị bao quát đời sống của toàn bộ người dân trong nước. Trong khi lệ làng là những phong tục văn hóa cổ truyền có từ lâu đời, chỉ giới hạn trong phạm nhỏ hẹp. Và cho dù là luật nước hay lệ làng, thì câu nói này cũng đều mang hàm ý ám chỉ tính kỷ luật. 2. Trường hợp pháp luật không quy định thì có được áp dụng tập quán? Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015 thì tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự bao gồm: - Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. - Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. - Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. - Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. - Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Ngoài ra, trong trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. (theo khoản 1 Điều 6 Bộ luật Dân sự 2015) Tuy nhiên cần lưu ý, khi xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. (khoản 1 Điều 7 Bộ luật Dân sự 2015). Tóm lại, mặc dù câu tục ngữ "Phép vua thua lệ làng" được hình thành trong bối cảnh xã hội nông nghiệp truyền thống, nhưng nó vẫn có những ý nghĩa nhất định trong xã hội hiện đại. Nó nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc tôn trọng truyền thống, văn hóa của từng địa phương, đồng thời cũng cho thấy sự cần thiết của việc xây dựng một hệ thống pháp luật linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng miền.
Nhập gia tùy tục nghĩa là gì? Khi nào thì tập tục, tập quán vùng miền được pháp luật áp dụng?
Tôi thấy trong sách báo thường có nhắc đến câu “Nhập gia tùy tục”, vậy cho tôi hỏi ý nghĩa của câu này là gì? Minh Quân - Cần Thơ 1. Nhập gia tùy tục nghĩa là gì? Nhập gia tùy tục là câu thành ngữ được truyền lại từ nhiều thế hệ trước đây của người Việt Nam, nhằm mục đích dạy dỗ con cháu về thái độ ứng xử khi giao tiếp xã hội. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của thành ngữ nhập gia tùy tục, thì ta cần xem nghĩa từng chữ trong câu “Nhập gia tùy tục", cụ thể: - Nhập: gia nhập. - Gia: gia trong gia đình, có thể hiểu rộng hơn đó là một nơi, một địa điểm, một đất nước nào đó. - Tùy: tùy có nghĩa thuận theo, nghe theo - Tục: tục trong phong tục tập quán. Hay có thể hiểu là văn hóa, lối sống của con người tại một vùng một đất nước nào đó. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì nhập gia tùy tục có nghĩa là: - Vào một gia đình, một nơi nào đó thì phải tuân theo, hoà nhập với lối sống, tập quán, lề thói ở đó. - Tham gia vào lĩnh vực nào đó thì phải tuân thủ những nguyên tắc, phương pháp có tính đặc thù của lĩnh vực đó. Như vậy, ý nghĩa cơ bản của câu thành ngữ “Nhập gia tùy tục" là khi vào nhà người khác hoặc đến một cộng đồng mới, chúng ta cần tôn trọng và tuân thủ phong tục, tập quán của nơi đó. Không nên cố ý áp đặt những thói quen, sinh hoạt riêng của mình lên người khác. Thông điệp của câu tục ngữ là khuyên con người cần linh hoạt, thích ứng với môi trường, cộng đồng mới. Điều này thể hiện sự tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt về văn hóa. Ngoài ra, nó cũng thể hiện tinh thần hòa đồng, sẵn sàng học hỏi để hòa nhập. Ngày nay, ý nghĩa của câu tục ngữ vẫn còn nguyên giá trị. Khi chúng ta đi du lịch, công tác, sinh sống ở nước ngoài hay khu vực mới, việc tôn trọng và tuân thủ phong tục tại đó vẫn là điều cần thiết, thể hiện sự tôn trọng và thái độ ứng xử văn minh. Đó cũng chính là tinh thần mà tục ngữ nhắc nhở chúng ta. 2. Khi nào thì tập tục, tập quán của vùng miền được pháp luật áp dụng? Hiện nay, có nhiều thuật ngữ để chỉ những cách xử sự được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen, được nhiều người thừa nhận và tuân theo như “tập quán”, “phong tục”, “tập tục”...một số cách hiểu về những thuật ngữ nói trên: (1) Tập quán được xem là “thói quen” hay “theo thói quen mà thành ra vững chắc. (2) Còn phong tục được xem là “thói quen trong xã hội” hay “đó là một số tập quán và nếp sống có ý nghĩa từ lâu đời và ăn sâu vào đời sống” (3) Tập tục được hiểu là cách nói tắt của tập quán và phong tục (tập là tập quán, tục là phong tục) Tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 thì quy định về việc áp dụng tập quán như sau: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự” Do đó, những tập quán được áp dụng trong giao dịch dân sự phải là các tập quán đã được hình thành trong đời sống dân sự cụ thể, đã được thực hiện và sử dụng thường xuyên được cộng đồng thừa nhận. Từ đó hình thành nên một quy ước để mọi người đều tuân theo nó khi thực hiện các giao dịch. Ví dụ điển hình là việc sử dụng đơn vị cân, đong đếm tại các vùng miền của Việt Nam. Thông thường theo quy tắc toán học một chục được hiểu là mười nhưng trong mua bán hàng hóa nhất là nông sản ở một số địa phương miền Nam thường dùng đơn vị chục thì được tính là 12 (mua một chục trứng thì được 12 quả trứng...). Bên cạnh đó, trong thực hiện và áp dụng pháp luật một số tập tục có thể được áp dụng để giải quyết vụ việc. Trong một số trường hợp, khi quy định về một vấn đề phức tạp đã và đang tồn tại nhiều cách giải quyết phù hợp ở địa phương, nhà làm luật có thể trù liệu là cho phép giải quyết theo tập tục của mỗi địa phương. Chẳng hạn: - Đối với nghĩa vụ của người hưởng dụng tại khoản 4 Điều 262 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi phục tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo quản tài sản.". - Đối với việc giải quyết tranh chấp ranh giới bất động sản tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp…". - Đối với việc đặt tên cho con tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ…”. Theo đó, tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự 2015.". Trong giao dịch dân sự thì sự tự do, tự nguyện trong việc thỏa thuận, cam kết luôn được pháp luật thừa nhận nếu không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Do các giao dịch dân sự trong xã hội luôn phát sinh, thay đổi không ngừng và pháp luật cũng không thể dự liệu hết được. Thừa nhận việc áp dụng tập quán trong giao dịch dân sự giúp cho việc giải quyết các vấn đề phát sinh được thuận lợi, thông suốt, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, để tập quán được áp dụng và giải quyết các giao dịch dân sự thì tập quán đó không được trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự 2015. Như vậy, trong đời sống xã hội thì việc áp dụng tập quán để giải quyết các giao dịch dân sự phát sinh khi không có quy định của pháp luật điều chỉnh là điều thật sự cần thiết. Việc áp dụng những tập quán tiến bộ để giải quyết các vụ việc dân sự là nhu cầu chính đáng và được pháp luật công nhận. Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự giúp cho các chủ thể tham gia giải quyết các vụ việc một cách thấu tình, đạt lý, tuân theo pháp luật góp phần ổn định xã hội. Nguồn tham khảo: http://pbgdpl.camau.gov.vn/
Tập quán pháp và tiền lệ pháp có điểm chung là gì?
Nhận định đúng/sai? Giải thích: Tập quán pháp và tiền lệ pháp có điểm chung là cùng dựa trên cơ sở các quy tắc xử sự đã tồn tại trong cuộc sống để hình thành các quy định pháp luật. Nhận định đúng/sai? Giải thích
04 ví dụ điển hình về việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự
Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cho phép việc áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. 04 ví dụ sau đây sẽ cụ thể hóa việc áp dụng tập quán vào xét xử dân sự tại Việt Nam. 1. Vụ án “Cây chà 19 tiếng” Nhắc đến việc áp dụng tập quán vào xét xử án dân sự không thể không nhắc đến vụ án “Cây chà 19 tiếng”. Vụ án này chính là vụ án điển hình cho việc áp dụng tập quán địa phương trong thực tiễn xét xử tại nước ta. Có thể hiểu tóm tắt nội dung vụ án như sau: Nguyên đơn: Bà Chiêm Thị Mỹ L. Bị đơn: Ông La Văn T. Đây là vụ án tranh chấp quyền đánh bắt hải sản giữa chủ tàu và người làm công do TAND huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thụ lý giải quyết. “Cây chà” là một tổ cá nhân tạo làm bằng cây để thu hút cá và các hải sản khác đến trú ngụ, tạo thuận lợi cho ngư dân đánh bắt cá. Còn “19 tiếng” là chỉ thời gian từ bờ đến cây chà. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả lại cây chà, có nghĩa là trả lại quyền khai thác điểm đánh bắt hải sản xa bờ. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ lời khai bị đơn thừa nhận cây chà vốn là của nguyên đơn nên xử chấp nhận yêu cầu, buộc bị đơn trả lại cây chà cho nguyên đơn. Sau khi xét xử phúc thẩm, cơ quan thi hành án địa phương có công văn phản ánh khó khăn trong thi hành bản án, đặc biệt là đơn khiếu nại của 30 ngư dân huyện Long Đất cho biết theo tập quán địa phương, người chủ cây chà nếu bỏ không khai thác trong 3 tháng thì đương nhiên người khác có quyền khai thác. Vì vậy, Tòa án Tối cao đã xác định trong Quyết định giám đốc thẩm rằng bị đơn khai thác hải sản tại địa điểm có cây chà là phù hợp với tập quán, không trái pháp luật; sau đó tuyên hủy bản án phúc thẩm, trả hồ sơ để xét xử lại theo hương bác yêu cầu của nguyên đơn.(1) >>>Xem chi tiết Bản án sơ thẩm vụ án này TẠI ĐÂY 2. Vận dụng “tập quán đạo đức xã hội” vào xét xử Nguyên đơn: cụ Trần Thị Xăng, cụ Nguyễn Văn Hiển Bị đơn: Chị Phan Thị Cẩm Vân Do nguyên đơn già yếu, không còn sức lao động nên gọi bị đơn về sống chung nhà; bị đơn hứa với nguyên đơn sẽ chăm sóc phụng dưỡng nguyên đơn đến khi qua đời. Vì vậy, nguyên đơn làm hợp đồng tặng cho bị đơn toàn bộ diện tích đất cùng với nhà cửa gắn liền trên đất vào năm 2007; sau đó bị đơn đã hoàn thành các thủ tục chuyển đổi quyền sở hữu đối với mảnh đất trên. Trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không có quy định về điều kiện của bên tặng cho đối với bên được tặng cho. Tuy nhiên, sau khi nguyên đơn cho đất và nhà xong thì bị đơn ngược đãi, thậm chí đánh đuổi ra khỏi nhà, không nuôi dưỡng như lời hứa ban đầu. Do đó, nguyên đơn khởi kiện đòi lại nhà đất. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Tại Quyết định giám đốc thẩm của vụ án trên đã tuyên hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, yều cầu xét xử sơ thẩm lại để đảm bảo quyền lợi cho nguyên đơn với lý do sau đây: - Tuy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không có quy định về điều kiện của bên tặng cho đối với bên được tặng cho, nhưng thực tế nguyên đơn ngoài nhà đất đã tặng cho bị đơn thì không còn nhà đất nào khác, nên lời khai của nguyên đơn về điều kiện đặt ra khi tặng, cho bị đơn nhà đất là có cơ sở và cũng phù hợp với tập quán đạo đức xã hội. - Bên cạnh đó, nguyên đơn được quyền đảm bảo về chổ ở theo quy định pháp luật và bị đơn cũng tha thiết mong ông bà sống vui vẻ với bị đơn, được chăm sóc nguyên đơn đến khi qua đời là phù hợp trách nhiệm pháp lý theo luật định và phù hợp với trách nhiệm về đạo lý. - Nếu nguyên đơn yêu cầu được sống riêng thì cần buộc bị đơn phải dành cho nguyên đơn một diện tích nhà đất hợp lý để được sống độc lập tại nhà đất nói trên cho đến khi qua đời (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phần dành cho nguyên đơn vẫn thuộc về bị đơn. Nội dung trên đã được đề xuất lựa chọn làm án lệ. >>>Xem chi tiết nội dung bản án TẠI ĐÂY 3. Tập quán về chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng tài sản(2) Đồng bào dân tộc H’Mông (Lai Châu) có phong tục mượn gia súc như trâu, bò để canh tác. Mỗi khi mượn, người mượn phải mang một chai rượu ngô hoặc rượu gạo và một chút thức ăn thường ngày đến để cùng uống rượu với chủ sở hữu gia súc với ý nghĩa là hàm ơn và là một nghi thức của tập quán. A là chủ sở hữu của một con trâu đực đã yêu cầu B đang chiếm hữu con trâu đó có nghĩa vụ giao trả con trâu đã mượn. B không đáp ứng yêu cầu của A với lý do là A đã bán con trâu đó cho ông 12 tháng rồi. Tuy nhiên, không có một bằng chứng nào về việc giao kết hợp đồng mua bán trâu giữa A và B. Theo tập quán địa phương, B không có nghĩa vụ phải trả lại trâu cho A vì B không phải thực hiện nghi thức là mang rượu và thức ăn đến nhà A để cùng uống và mượn trâu, cho nên việc mượn trâu là không có. Hơn nữa, đồng bào dân tộc H’Mông không có lệ mượn trâu trong thời hạn dài như vậy, mà nếu không thoả thuận về thời hạn mượn thì bên mượn trâu có nghĩa vụ trả lại trâu sau khi mục đích mượn đã đạt được - là cày ruộng xong. Nếu mượn trâu thì A đã yêu cầu B trả lại trâu sau khi đã cày xong nương rẫy, không thể để cho B sử dụng trâu lâu như vậy. Áp dụng tập quán thì rõ ràng, B không mượn trâu của A vì không có việc B mang rượu và đồ ăn để uống và mượn trâu. Sự kiện này chứng tỏ rằng B đã mua con trâu của không có nghĩa vụ trả lại trâu; và B đã là chủ sở hữu của con trâu mua được cách thời điểm tranh chấp 12 tháng. 4. Tập quán về bồi thường (3) Hai dân tộc Êđê và M’nông ở Tây Nguyên đều có luật tục về bồi thường thiệt hại: người gây thiệt hại là người có trách nhiệm bồi thường; mức bồi thường cũng căn cứ vào hình thức lỗi của người gây thiệt hại; ngoài khoản bồi thường vật chất, người gây thiệt hại còn phải thực hiện những nghi lễ nhất định để chuộc lỗi; bồi thường thiệt hại cũng theo nguyên tắc toàn bộ và kịp thời. Ví dụ: Luật tục M’nông quy định hành vi của người đốt rẫy, để cháy sang rẫy của người khác là có lỗi vô ý, phải bồi thường: “rẫy cháy không sạch phải dọn; chòi bị cháy phải đền; không được đòi quá đáng; không được bắt đền to”. Hoặc: “Nuôi lợn cố tình thả rông; nuôi trâu cố tình thả rông; nuôi voi cố tình thả hoang, chúng ăn rẫy phải chịu, phá chòi phải đền. Lợn, trâu, voi làm sai, chủ phải đền.” Luật tục Êđê và M’nông đều quy định về trách nhiệm do gây thiệt hại về tài sản và mức bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do con người gây ra gồm: đốt rẫy cháy lan sang rẫy của người khác, đánh thuốc độc bắt cá suối, không chăm sóc trâu bò bị dịch, trâu bò bị dịch không thông báo, gây hại do cháy rừng, không tắt lửa nhà mình mà gây thiệt hại, gây thiệt hại về gia súc, gia cầm cho người khác, thả rông trâu, bò khi chưa đến mùa, giết gia súc trong vườn, rẫy của người khác. Những thiệt hại do con người gây ra được xác định dựa trên các yếu tố lỗi. Lỗi của người gây thiệt hại về tài sản phần nhiều là lỗi vô ý. *Ghi chú: (1) Theo Tạp chí TAND (2) (3) Theo Người bảo vệ quyền lợi – Trang Web của trung tâm tư vấn pháp luật TP.HCM – TW Hội Luật gia Việt Nam
Pháp luật có công nhận tập quán về hôn nhân và gia đình không?
Gần đây, trên các tờ báo liên tục đăng tin những vụ việc bắt vợ tại các tỉnh miền núi. Đối với người dân tại các địa phương này, tục bắt vợ đã không còn lạ lẫm với một số vùng dân tộc. Tuy nhiên, có trường hợp các cô gái không hề đồng ý. Có những cô gái thậm chị mới chỉ 14, 15 tuổi. Đây vốn là tập quán của mỗi vùng miền, vậy pháp luật có công nhận tập quán này không? Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng cho phép áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc và không vi phạm điều cấm của pháp luật sẽ được áp dụng theo Điều 7 của luật này: "Điều 7. Áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình 1. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng. 2. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này". Như vậy việc bắt vợ sẽ là một nét văn hóa đẹp của văn hóa Việt Nam nếu như không trái với các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về kết hôn. Theo đó cần sự tự nguyện của các bên, cũng như đảm bảo về độ tuổi kết hôn theo đúng quy định.
Văn bản về tập quán và thông lệ quốc tế
cho em hỏi về tập quán và thông lệ quốc tế với ạ văn bản luật càng tốt ạ
Nguyên tắc giải quyết vụ, việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Để giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, những tranh chấp pháp sinh nhưng chưa có điều luật để áp dụng thì Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã cho phép Tòa án áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự pháp luật và áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết; từ đó sẽ giải quyết được triệt để các tranh chấp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Theo đó, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung một điểm mới tại Điều 45 quy định về nguyên tắc giải quyết vụ, việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng như sau: Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự này, các đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật Dân sự. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự (khoản 1 Điều 45). Tập quán áp dụng phải là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Về việc áp dụng tương tự pháp luật được Tòa án thực hiện để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của BLDS năm 2015 và khoản 1 Điều này. Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự (khoản 2 Điều 45). Trường hợp Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của BLDS năm 2015, khoản 1 và khoản 2 Điều này. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự. Còn án lệ sẽ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Đối với lẽ công bằng thì được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó (khoản 3 Điều 45).
Giải quyết vụ việc dân sự thế nào nếu không có điều luật áp dụng?
Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng được quy định, hướng dẫn tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015, có thể tóm tắt một vài ý chính như sau: 1. Việc áp dụng tập quán được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự. 2. Việc áp dụng tương tự pháp luật được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều này. Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. 3. Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau: Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều này. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự. Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.
Con rể nghèo, bắt ở rể có thể vi phạm pháp luật
Việt Nam có nhiều tập quán được lưu truyền trong đời sống xã hội, hình thành thói quen lâu đời trong các cộng đồng dân cư. Trong số đó, có nhiều tập quán thể hiện truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc; tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều tập quán lạc hậu cần được xóa bỏ, đặc biệt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Thực tế ngày nay có nhiều trường hợp, khi kết hôn, do gia đình bên chú rễ có điều kiện kinh tế khó khăn hơn phía cô dâu nên bị gia đình cô dâu ra điều kiện phải "ở rễ" nếu muốn kết hôn. Tuy nhiên, hành vi này của gia đình cô dâu không những không "đẹp" về cách ứng xử lại còn vi phạm pháp luật. Cụ thể: Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành Danh mục Các tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình cần vận động xóa bỏ và cấm áp dụng. Cụ thể như sau: 1. Kết hôn trước tuổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. 2. Việc đăng ký kết hôn không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. 3. Cưỡng ép kết hôn do xem “lá số” và do mê tín dị đoan; cản trở hôn nhân do khác dân tộc, tôn giáo. 4. Cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên. 5. Nếu nhà trai không có tiền cưới và đồ sính lễ thì sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho bố, mẹ vợ. 6. Quan hệ gia đình theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ, không bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái. a) Chế độ phụ hệ: Khi ly hôn, nếu do người vợ yêu cầu ly hôn thì nhà gái phải trả lại nhà trai toàn bộ đồ sính lễ và những phí tổn khác; nếu do người chồng yêu cầu ly hôn thì nhà gái vẫn phải trả lại nhà trai một nửa đồ sính lễ. Sau khi ly hôn, nếu người phụ nữ kết hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì. Sau khi cha, mẹ ly hôn, con phải theo cha. Khi người chồng chết, người vợ góa không có quyền hưởng phần di sản của người chồng quá cố để lại. Nếu người vợ góa tái hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì. Khi người cha chết, chỉ các con trai có quyền còn các con gái không có quyền hưởng phần di sản của người cha quá cố để lại. b) Chế độ mẫu hệ: Người con bị bắt buộc phải mang họ của người mẹ. Khi người vợ chết, người chồng góa không có quyền hưởng phần di sản của người vợ quá cố để lại và không được mang tài sản riêng của mình về nhà. Khi người mẹ chết, chỉ các con gái có quyền còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để lại. Sau khi ở rể, người con rể bị “từ hôn” hoặc sau khi ăn hỏi, nhận đồ sính lễ, người con trai bị “từ hôn” thì không được bù trả lại. 7. Không kết hôn giữa người thuộc dân tộc này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo. ... Theo quy định trên thì hàng loạt các hủ tục lạc hậu bị xóa bỏ và cấm áp dụng, trong đó có nhiều “thói quen” vẫn có thể thấy ở nhiều nơi như: Nếu nhà trai không có tiền cưới và đồ sính lễ thì sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho bố, mẹ vợ; Không kết hôn giữa người thuộc dân tộc này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo; hay Cưỡng ép kết hôn do xem “lá số” và do mê tín dị đoan; cản trở hôn nhân do khác dân tộc, tôn giáo. Nên mọi người hãy cẩn thận và khuyên bảo người thân không nên vi phạm nhé.