Quyết định giám đốc thẩm vụ ‘đương sự định nhảy lầu sau khi tòa tuyên án’
Tòa án nhân dân cấp cao TP.HCM ra Quyết định giám đốc thẩm số 171/2020/DS-GĐT ngày 24/7/2020 về việc "Tranh chấp quyền sử dụng đất". Ảnh chụp một phần Quyết định giám đốc thẩm Theo đó, căn cứ vào Điều 343, 345 Bộ luật Tố dụng dân sự 2015: - Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 115/2020/KN-DS ngày 15/7/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.HCM. - Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 621/2020/DS-PT ngày 01/7/2020 của Tòa án nhân dân TP.HCM và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 507/2019/DS-ST ngày 07/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, TP.HCM trong vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là ông Phan Quý, bà Lê Thị Bích Thủy với bị đơn là ông Lê Văn Dư, ông Lê Sĩ Thắng và ông Khâu Văn Sĩ. - Giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, TP.HCM xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật. - Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. Xem chi tiết nội dung tại Quyết định giám đốc thẩm số 171/2020/DS-GĐT ngày 24/7/2020.
Tòa có quyền giao cho cá nhân hay tổ chức quản lý, điều hành công ty?
Chế định người quản lý công ty là một chế định điều chỉnh bởi pháp luật doanh nghiệp, theo đó trong công ty cổ phần, người quản lý công ty bao gồm Chủ tịch HĐQT, thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty (khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014). Các chức danh quản lý này do các cơ quan quyền lực (ĐHĐCĐ), cơ quan quản lý (HĐQT)...quyết định việc bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm và do điều lệ, quy chế quản trị nội bộ của công ty quy định (nhưng không được trái luật). Việc ai là thành viên HĐQT phải do ĐHĐCĐ bầu ra theo phương thức bầu dồn phiếu hoặc cách khác do điều lệ quy định (Điều 135, Điều 144 Luật Doanh nghiệp 2014); việc ai giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT, GĐ/TGĐ phải do chính HĐQT quyết định (Điều 149, Điều 152 Luật Doanh nghiệp 2014). Do đó tòa không có quyền giao cho bất kỳ cá nhân nào nắm giữ quyền quản lý công ty. Chỉ trong trường hợp có tranh chấp về việc bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý nêu trên, các bên khởi kiện đến tòa, thì khi đó trong vụ án kinh doanh, thương mại này, tòa sẽ có quyền xem xét, nếu các Nghị quyết này không đảm bảo tính pháp lý thì tòa tuyên hủy bỏ (Nghị quyết của ĐHĐCĐ) hoặc đình chỉ (Nghị quyết của HĐQT), còn ngược lại nếu các Nghị quyết này đảm bảo đúng pháp luật và điều lệ, quy chế quản trị nội bộ công ty thì tòa sẽ bác yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên các Nghị quyết này...chứ tòa không có quyền giao hay không giao cho bất kỳ ai đó đảm trách việc quản lý công ty. Ngoài ra còn một vấn đề về quyết định hoán đổi cổ phần và yêu cầu cổ đông phải chấp nhận để đổi lấy bằng tiền của Tòa vô hình chung đã TƯỚC BỎ HÀNG LOẠT CÁC QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG được nêu trong nghị quyết công ty và quy định pháp luật doanh nghiệp đối với quyền của cổ đông tại công ty cổ phần. Đối với cổ đông khi sở hữu cổ phần không chỉ là vấn đề tiền bạc, mà quan trọng hơn là để xác lập và thực hiện liên tục các nhóm quyền theo quy định, đó mới là giá trị mà cổ đông mong muốn đạt được khi đầu tư góp vốn vào công ty cổ phần.
Quyết định giám đốc thẩm vụ ‘đương sự định nhảy lầu sau khi tòa tuyên án’
Tòa án nhân dân cấp cao TP.HCM ra Quyết định giám đốc thẩm số 171/2020/DS-GĐT ngày 24/7/2020 về việc "Tranh chấp quyền sử dụng đất". Ảnh chụp một phần Quyết định giám đốc thẩm Theo đó, căn cứ vào Điều 343, 345 Bộ luật Tố dụng dân sự 2015: - Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 115/2020/KN-DS ngày 15/7/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.HCM. - Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 621/2020/DS-PT ngày 01/7/2020 của Tòa án nhân dân TP.HCM và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 507/2019/DS-ST ngày 07/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, TP.HCM trong vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là ông Phan Quý, bà Lê Thị Bích Thủy với bị đơn là ông Lê Văn Dư, ông Lê Sĩ Thắng và ông Khâu Văn Sĩ. - Giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, TP.HCM xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật. - Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. Xem chi tiết nội dung tại Quyết định giám đốc thẩm số 171/2020/DS-GĐT ngày 24/7/2020.
Tòa có quyền giao cho cá nhân hay tổ chức quản lý, điều hành công ty?
Chế định người quản lý công ty là một chế định điều chỉnh bởi pháp luật doanh nghiệp, theo đó trong công ty cổ phần, người quản lý công ty bao gồm Chủ tịch HĐQT, thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty (khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014). Các chức danh quản lý này do các cơ quan quyền lực (ĐHĐCĐ), cơ quan quản lý (HĐQT)...quyết định việc bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm và do điều lệ, quy chế quản trị nội bộ của công ty quy định (nhưng không được trái luật). Việc ai là thành viên HĐQT phải do ĐHĐCĐ bầu ra theo phương thức bầu dồn phiếu hoặc cách khác do điều lệ quy định (Điều 135, Điều 144 Luật Doanh nghiệp 2014); việc ai giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT, GĐ/TGĐ phải do chính HĐQT quyết định (Điều 149, Điều 152 Luật Doanh nghiệp 2014). Do đó tòa không có quyền giao cho bất kỳ cá nhân nào nắm giữ quyền quản lý công ty. Chỉ trong trường hợp có tranh chấp về việc bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý nêu trên, các bên khởi kiện đến tòa, thì khi đó trong vụ án kinh doanh, thương mại này, tòa sẽ có quyền xem xét, nếu các Nghị quyết này không đảm bảo tính pháp lý thì tòa tuyên hủy bỏ (Nghị quyết của ĐHĐCĐ) hoặc đình chỉ (Nghị quyết của HĐQT), còn ngược lại nếu các Nghị quyết này đảm bảo đúng pháp luật và điều lệ, quy chế quản trị nội bộ công ty thì tòa sẽ bác yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên các Nghị quyết này...chứ tòa không có quyền giao hay không giao cho bất kỳ ai đó đảm trách việc quản lý công ty. Ngoài ra còn một vấn đề về quyết định hoán đổi cổ phần và yêu cầu cổ đông phải chấp nhận để đổi lấy bằng tiền của Tòa vô hình chung đã TƯỚC BỎ HÀNG LOẠT CÁC QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG được nêu trong nghị quyết công ty và quy định pháp luật doanh nghiệp đối với quyền của cổ đông tại công ty cổ phần. Đối với cổ đông khi sở hữu cổ phần không chỉ là vấn đề tiền bạc, mà quan trọng hơn là để xác lập và thực hiện liên tục các nhóm quyền theo quy định, đó mới là giá trị mà cổ đông mong muốn đạt được khi đầu tư góp vốn vào công ty cổ phần.