Sự khác nhau giữa phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong hình sự
Phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng theo quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm của chúng lại hoàn toàn khác nhau, sự khác biệt này sẽ giúp cơ quan tư pháp xác định đúng trách nhiệm đối với người phạm tội. Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 có liệt kê hành vi phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm, tái phạm nguy hiểm là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, trách nhiệm hình sự của người phạm tội ngoài căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ xem xét thêm các dấu hiệu ngoài hình phạt định khung tương ứng với loại tội phạm để đưa vào tăng thêm hoặc giảm nhẹ hình phạt. (1) Phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm là gì? Phạm tội 2 lần trở lên Khái niệm: Là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đồng thời cũng là một tình tiết định khung tăng nặng của nhiều tội theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chưa có một định nghĩa chung mà chỉ có đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần đối với một tội danh cụ thể nào đó. Cụ thể, mục I của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP quy định đặc điểm tình tiết phạm tội nhiều lần là: - Người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau - Nếu tách từng hành vi phạm tội riêng rẽ thì mỗi hành vi ấy đều đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập - Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án,… và cùng bị đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án. - Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại. Như vậy, có thể hiểu phạm tội 2 lần trở lên là người phạm tội ít nhất đã 2 lần thực hiện tội phạm, cùng tội với tội đang bị khởi tố mà nếu tách riêng mỗi lần đó thì đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm và chưa được đưa ra xét xử Tái phạm Khái niệm: Theo khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 định nghĩa tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Từ khái niệm trên có thể thấy được đặc điểm của hành vi tái phạm như sau: - Đã bị kết án - Chưa được xóa án tích - Hành vi phạm tội mới của họ đáp ứng dấu hiệu cấu thành tội phạm độc lập Như vậy, khác với phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm được hiểu là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Tái phạm nguy hiểm Khái niệm: Theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ Luật Hình sự 2015 thì tái phạm nguy hiểm là căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc áp dụng phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm Tái phạm nguy hiểm thể hiện mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tính chất của tội phạm cao hơn so với tái phạm. Theo định của BLHS thì có hai trường hợp bị coi là tái phạm nguy hiểm. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng; tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. (2) So sánh đặc điểm của phạm tội 02 trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm Phạm tội 2 lần trở lên Tái phạm Tái phạm nguy hiểm Cơ sở pháp lý Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 Tội phạm Xâm phạm cùng một tội phạm. Xâm phạm không cùng một tội phạm. Xâm phạm không cùng một tội phạm. Lỗi Cố ý, vô ý. Cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Cố ý. Tần suất phạm tội Từ 02 lần trở lên 02 lần Có thể 02 hoặc 03 lần Truy cứu TNHS Chỉ bị truy cứu TNHS ở cùng một phiên xét xử Đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Xem và tải bảng so sánh phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/13/Bang%20so%20sanh%20dac%20diem%20cua%20tai%20pham%20-%20pham%20toi%2002%20lan%20tro%20len%20-%20tai%20pham%20nguy%20hiem.docx Tóm lại, muốn xác định đúng trách nhiệm của người phạm tội cũng như tránh sự nhầm lẫn khi áp dụng để quyết định hình phạt cần nắm rõ các nội dung và phân biệt rõ ràng các tình tiết về phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm nguy hiểm đối với người phạm tội.
Ngựa quen đường cũ là gì? Tái phạm có phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không?
Ngựa quen đường cũ là gì? Tái phạm có phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Ngựa quen đường cũ là gì? Ngựa quen đường cũ là một thành ngữ tiếng Việt được sử dụng trong văn nói hằng ngày. Ngựa quen đường cũ có nghĩa sau: (1) Theo nghĩa đen: Con ngựa đã từng đi qua một con đường nhiều lần sẽ quen thuộc với con đường đó và có thể tự đi mà không cần người dẫn dắt. (2) Theo nghĩa bóng: Con người có xu hướng lặp lại những thói quen, hành vi đã quen thuộc, dù cho những thói quen, hành vi đó có thể là tốt hay xấu. Ví dụ về ngựa quen đường cũ: Một người đã từng nghiện ma túy, sau khi cai nghiện thành công, nếu quay lại môi trường cũ, tiếp xúc với những người bạn nghiện cũ thì rất dễ tái nghiện. Thành ngữ "ngựa quen đường cũ" thường được dùng để: - Khuyên răn mọi người nên tránh xa những thói quen, hành vi xấu. - Nhắc nhở mọi người cần thay đổi bản thân để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thành ngữ ngựa quen đường cũ là một lời nhắc nhở con người về tầm quan trọng của việc thay đổi và phát triển bản thân. Để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, con người cần thoát khỏi vòng luân hồi của những thói quen cũ và hướng đến những điều mới mẻ, tốt đẹp hơn. Lưu ý: Thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo Ngựa quen đường cũ và tái phạm có một số điểm tương đồng như sau: - Cả hai đều thể hiện sự lặp lại hành vi: + Ngựa quen đường cũ là con ngựa đã từng đi qua một con đường nhiều lần sẽ quen thuộc và tự đi mà không cần người dẫn dắt. + Tái phạm là người đã bị kết án về tội phạm do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. - Cả hai đều có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực: + Ngựa quen đường cũ có thể dẫn đến việc con ngựa đi lạc hoặc gặp nguy hiểm. + Tái phạm có thể dẫn đến việc người phạm tội bị phạt tù nặng hơn. Tái phạm có phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Căn cứ Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi điểm b khoản 2 Điều 2 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: - Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: + Phạm tội có tổ chức; + Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; + Phạm tội có tính chất côn đồ; + Phạm tội vì động cơ đê hèn; + Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; + Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; + Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; + Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; + Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; + Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; + Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. - Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Theo quy định trên, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Những trường hợp nào được coi là tái phạm nguy hiểm? Căn cứ Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tái phạm, tái phạm nguy hiểm - Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. - Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: + Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; + Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Theo quy định trên, những trường hợp sau được coi là tái phạm nguy hiểm: - Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; - Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Nhận diện tình tiết Tái phạm và Tái phạm nguy hiểm
Tình tiết tái phạm được quy định tại điều 53 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, tái phạm nguy hiểm còn có ý nghĩa là tình tiết định khung tăng nặng, vậy 02 tình tiết này được xác định như thế nào? Mời bạn xem bảng phân tích dưới đây: Tái phạm Tái phạm nguy hiểm Định nghĩa Là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Dấu hiệu xác định – Một là, người đó đã bị kết án. Người đã bị kết án là người có bản án kết tội của Toà án mà không phụ thuộc vào việc bản án đó có hiệu lực PL hay chưa. Vì vậy, ngay từ khi tuyên án kết tội thứ nhất đối với một người mà người đó lại phạm tội mới theo quy định tại khoản 1 điều 53 thì được coi là tái phạm (quy định này không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội). – Hai là, người bị kết án chưa được xoá án tích. Điều này có nghĩa là điều kiện bắt buộc là việc kết án đó phải phát sinh án tích và án tích chưa được xoá, mà người đó lại phạm tội mới thì mới xem là tái phạm. – Ba là, phạm tội mới do cố ý hoặc tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Để xác định tái phạm, luật hình sự quy định tội phạm mới được thực hiện phải thuộc một số trường hợp phạm tội nhất định như phạm tội mới do cố ý, hoặc tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý, thể hiện nhân thân của người phạm tội không chịu tiếp thu các biện pháp cải tạo giáo dục của pháp luật. Việc xác định một người “tái phạm nguy hiểm” trong trường hợp này phải đảm bảo các dấu hiệu sau: Một là, người phạm tội đã tái phạm. Có nghĩa rằng, trước lần bị đưa xét xử này, người phạm tội đã 02 lần bị kết án về tội phạm độc lập do Bộ luật Hình sự quy định. Đồng thời, trong lần bị kết án thứ hai trước đó, người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tái phạm. Dấu hiệu tái phạm phải được xác định bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi bản án đó chưa được xóa án tích, mà người này lại phạm tội mới thì mới coi là tái phạm nguy hiểm. Mặc dù khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tình tiết tái phạm không nêu dấu hiệu phải được Tòa án xác định bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, việc xác định tình tiết tái phạm không thể tiến hành một cách độc lập mà chúng phải gắn liền với việc xem xét trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Trong khi đó, theo BLHS, BLTTHS, việc tuyên một người có tội thuộc thẩm quyền của Tòa án, quyết định hình phạt cũng chỉ do Tòa án. Đồng thời, khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 chỉ nêu lên dấu hiệu để xác định tái phạm chứ không quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền xác định người phạm tội tái phạm. Cho nên, khi kết án người phạm tội ở lần thứ hai mà Tòa án không xác định người phạm tội tái phạm thì về nguyên tắc khi xét xử tội mới, Tòa án không được áp dụng tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này. Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích. Dấu hiệu này được xác định như trường hợp tái phạm và trường hợp thứ nhất của tái phạm nguy hiểm. Thứ ba, người phạm tội lại phạm tội do cố ý. Theo đó, tội mới là bất kỳ tội phạm cụ thể nào, có thể là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Dấu hiệu này chỉ đòi hỏi tội đó là tội do cố ý, không bao hàm tội phạm do vô ý. Đồng thời, tội này do người phạm tội thực hiện sau và được xử sau và lần phạm tội mới này đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập do BLHS quy định. Căn cứ Khoản 1 điều 53 BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 Khoản 1 điều 53 BLHS sửa đổi, bổ sung 2017
Chưa được xóa án tích có bị xem là tái phạm nguy hiểm không?
LS cho em hỏi. bố em bị bắt về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý lần thứ 3, chưa được xoá án tích. số lượng dưới 1g. như vậy có bị coi là tội tái phạm nguy hiểm không ạh.
Sự khác nhau giữa phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong hình sự
Phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng theo quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm của chúng lại hoàn toàn khác nhau, sự khác biệt này sẽ giúp cơ quan tư pháp xác định đúng trách nhiệm đối với người phạm tội. Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 có liệt kê hành vi phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm, tái phạm nguy hiểm là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, trách nhiệm hình sự của người phạm tội ngoài căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ xem xét thêm các dấu hiệu ngoài hình phạt định khung tương ứng với loại tội phạm để đưa vào tăng thêm hoặc giảm nhẹ hình phạt. (1) Phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm là gì? Phạm tội 2 lần trở lên Khái niệm: Là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đồng thời cũng là một tình tiết định khung tăng nặng của nhiều tội theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chưa có một định nghĩa chung mà chỉ có đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần đối với một tội danh cụ thể nào đó. Cụ thể, mục I của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP quy định đặc điểm tình tiết phạm tội nhiều lần là: - Người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau - Nếu tách từng hành vi phạm tội riêng rẽ thì mỗi hành vi ấy đều đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập - Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án,… và cùng bị đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án. - Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại. Như vậy, có thể hiểu phạm tội 2 lần trở lên là người phạm tội ít nhất đã 2 lần thực hiện tội phạm, cùng tội với tội đang bị khởi tố mà nếu tách riêng mỗi lần đó thì đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm và chưa được đưa ra xét xử Tái phạm Khái niệm: Theo khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 định nghĩa tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Từ khái niệm trên có thể thấy được đặc điểm của hành vi tái phạm như sau: - Đã bị kết án - Chưa được xóa án tích - Hành vi phạm tội mới của họ đáp ứng dấu hiệu cấu thành tội phạm độc lập Như vậy, khác với phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm được hiểu là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Tái phạm nguy hiểm Khái niệm: Theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ Luật Hình sự 2015 thì tái phạm nguy hiểm là căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc áp dụng phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm Tái phạm nguy hiểm thể hiện mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tính chất của tội phạm cao hơn so với tái phạm. Theo định của BLHS thì có hai trường hợp bị coi là tái phạm nguy hiểm. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng; tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. (2) So sánh đặc điểm của phạm tội 02 trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm Phạm tội 2 lần trở lên Tái phạm Tái phạm nguy hiểm Cơ sở pháp lý Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 Tội phạm Xâm phạm cùng một tội phạm. Xâm phạm không cùng một tội phạm. Xâm phạm không cùng một tội phạm. Lỗi Cố ý, vô ý. Cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Cố ý. Tần suất phạm tội Từ 02 lần trở lên 02 lần Có thể 02 hoặc 03 lần Truy cứu TNHS Chỉ bị truy cứu TNHS ở cùng một phiên xét xử Đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Xem và tải bảng so sánh phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm và tái phạm nguy hiểm tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/13/Bang%20so%20sanh%20dac%20diem%20cua%20tai%20pham%20-%20pham%20toi%2002%20lan%20tro%20len%20-%20tai%20pham%20nguy%20hiem.docx Tóm lại, muốn xác định đúng trách nhiệm của người phạm tội cũng như tránh sự nhầm lẫn khi áp dụng để quyết định hình phạt cần nắm rõ các nội dung và phân biệt rõ ràng các tình tiết về phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm nguy hiểm đối với người phạm tội.
Ngựa quen đường cũ là gì? Tái phạm có phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không?
Ngựa quen đường cũ là gì? Tái phạm có phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Ngựa quen đường cũ là gì? Ngựa quen đường cũ là một thành ngữ tiếng Việt được sử dụng trong văn nói hằng ngày. Ngựa quen đường cũ có nghĩa sau: (1) Theo nghĩa đen: Con ngựa đã từng đi qua một con đường nhiều lần sẽ quen thuộc với con đường đó và có thể tự đi mà không cần người dẫn dắt. (2) Theo nghĩa bóng: Con người có xu hướng lặp lại những thói quen, hành vi đã quen thuộc, dù cho những thói quen, hành vi đó có thể là tốt hay xấu. Ví dụ về ngựa quen đường cũ: Một người đã từng nghiện ma túy, sau khi cai nghiện thành công, nếu quay lại môi trường cũ, tiếp xúc với những người bạn nghiện cũ thì rất dễ tái nghiện. Thành ngữ "ngựa quen đường cũ" thường được dùng để: - Khuyên răn mọi người nên tránh xa những thói quen, hành vi xấu. - Nhắc nhở mọi người cần thay đổi bản thân để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thành ngữ ngựa quen đường cũ là một lời nhắc nhở con người về tầm quan trọng của việc thay đổi và phát triển bản thân. Để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, con người cần thoát khỏi vòng luân hồi của những thói quen cũ và hướng đến những điều mới mẻ, tốt đẹp hơn. Lưu ý: Thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo Ngựa quen đường cũ và tái phạm có một số điểm tương đồng như sau: - Cả hai đều thể hiện sự lặp lại hành vi: + Ngựa quen đường cũ là con ngựa đã từng đi qua một con đường nhiều lần sẽ quen thuộc và tự đi mà không cần người dẫn dắt. + Tái phạm là người đã bị kết án về tội phạm do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. - Cả hai đều có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực: + Ngựa quen đường cũ có thể dẫn đến việc con ngựa đi lạc hoặc gặp nguy hiểm. + Tái phạm có thể dẫn đến việc người phạm tội bị phạt tù nặng hơn. Tái phạm có phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Căn cứ Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi điểm b khoản 2 Điều 2 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: - Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: + Phạm tội có tổ chức; + Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; + Phạm tội có tính chất côn đồ; + Phạm tội vì động cơ đê hèn; + Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; + Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; + Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; + Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; + Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; + Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; + Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. - Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Theo quy định trên, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Những trường hợp nào được coi là tái phạm nguy hiểm? Căn cứ Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tái phạm, tái phạm nguy hiểm - Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. - Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: + Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; + Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Theo quy định trên, những trường hợp sau được coi là tái phạm nguy hiểm: - Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; - Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Nhận diện tình tiết Tái phạm và Tái phạm nguy hiểm
Tình tiết tái phạm được quy định tại điều 53 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, tái phạm nguy hiểm còn có ý nghĩa là tình tiết định khung tăng nặng, vậy 02 tình tiết này được xác định như thế nào? Mời bạn xem bảng phân tích dưới đây: Tái phạm Tái phạm nguy hiểm Định nghĩa Là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Dấu hiệu xác định – Một là, người đó đã bị kết án. Người đã bị kết án là người có bản án kết tội của Toà án mà không phụ thuộc vào việc bản án đó có hiệu lực PL hay chưa. Vì vậy, ngay từ khi tuyên án kết tội thứ nhất đối với một người mà người đó lại phạm tội mới theo quy định tại khoản 1 điều 53 thì được coi là tái phạm (quy định này không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội). – Hai là, người bị kết án chưa được xoá án tích. Điều này có nghĩa là điều kiện bắt buộc là việc kết án đó phải phát sinh án tích và án tích chưa được xoá, mà người đó lại phạm tội mới thì mới xem là tái phạm. – Ba là, phạm tội mới do cố ý hoặc tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Để xác định tái phạm, luật hình sự quy định tội phạm mới được thực hiện phải thuộc một số trường hợp phạm tội nhất định như phạm tội mới do cố ý, hoặc tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý, thể hiện nhân thân của người phạm tội không chịu tiếp thu các biện pháp cải tạo giáo dục của pháp luật. Việc xác định một người “tái phạm nguy hiểm” trong trường hợp này phải đảm bảo các dấu hiệu sau: Một là, người phạm tội đã tái phạm. Có nghĩa rằng, trước lần bị đưa xét xử này, người phạm tội đã 02 lần bị kết án về tội phạm độc lập do Bộ luật Hình sự quy định. Đồng thời, trong lần bị kết án thứ hai trước đó, người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tái phạm. Dấu hiệu tái phạm phải được xác định bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi bản án đó chưa được xóa án tích, mà người này lại phạm tội mới thì mới coi là tái phạm nguy hiểm. Mặc dù khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tình tiết tái phạm không nêu dấu hiệu phải được Tòa án xác định bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, việc xác định tình tiết tái phạm không thể tiến hành một cách độc lập mà chúng phải gắn liền với việc xem xét trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Trong khi đó, theo BLHS, BLTTHS, việc tuyên một người có tội thuộc thẩm quyền của Tòa án, quyết định hình phạt cũng chỉ do Tòa án. Đồng thời, khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 chỉ nêu lên dấu hiệu để xác định tái phạm chứ không quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền xác định người phạm tội tái phạm. Cho nên, khi kết án người phạm tội ở lần thứ hai mà Tòa án không xác định người phạm tội tái phạm thì về nguyên tắc khi xét xử tội mới, Tòa án không được áp dụng tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này. Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích. Dấu hiệu này được xác định như trường hợp tái phạm và trường hợp thứ nhất của tái phạm nguy hiểm. Thứ ba, người phạm tội lại phạm tội do cố ý. Theo đó, tội mới là bất kỳ tội phạm cụ thể nào, có thể là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Dấu hiệu này chỉ đòi hỏi tội đó là tội do cố ý, không bao hàm tội phạm do vô ý. Đồng thời, tội này do người phạm tội thực hiện sau và được xử sau và lần phạm tội mới này đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập do BLHS quy định. Căn cứ Khoản 1 điều 53 BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 Khoản 1 điều 53 BLHS sửa đổi, bổ sung 2017
Chưa được xóa án tích có bị xem là tái phạm nguy hiểm không?
LS cho em hỏi. bố em bị bắt về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý lần thứ 3, chưa được xoá án tích. số lượng dưới 1g. như vậy có bị coi là tội tái phạm nguy hiểm không ạh.