Tài sản chung vợ chồng thì thể hiện thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào?
Tôi muốn hỏi là vợ chồng tôi có nhu cầu mua một mảnh đất, vậy mảnh đất đó sẽ đứng tên của cả 02 vợ chồng hay chỉ đứng tên một người thôi?
Đất có được sau khi kết hôn đều có phải đều là tài sản chung?
Tài sản có được sau khi kết hôn là tài sản chung hay tài sản riêng? Việc xác định tài sản sau khi kết hôn như thế nào? Đất có được sau khi kết hôn đều có phải đều là tài sản chung? Tài sản chung vợ chồng theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Như vậy, không phải tất cả quyền sử dụng đất được phát sinh sau thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn bao gồm trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì xác định là tài sản riêng, không phải là tài sản chung của vợ chồng. Lưu ý nếu như không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản riêng Đối với tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng xác định là tài sản riêng thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng được quy định: - Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. - Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản. - Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. - Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ. Đối với tài sản riêng có được trong thời kỳ hôn nhân thì có quyền nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung theo quy định tại Điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể: - Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. - Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. - Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy, pháp luật hôn nhân và gia đình quy định cụ thể hướng dẫn xác định tài sản chung, tài sản riêng. Đối với tài sản riêng thì vợ/chồng có quyền quyết định về có nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hay không theo quy định nêu trên.
Hướng dẫn cách bảo toàn tài sản riêng của vợ/chồng khi kết hôn
Hôn nhân là một chuyện tốt đẹp, tuy nhiên việc tài sản riêng của vợ hoặc chồng hay tài sản chung trong hôn nhân cũng là một điều mà chúng ta cần lưu ý để có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Tuy nhiên, trong tình huống xấu nhất, thì việc rõ ràng, minh bạch trong tài sản cũng đem lại sự thuận tiện cho chủ sở hữu. Luật HNGĐ quy định về tài sản riêng của vợ chồng như thế nào? Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ chồng có thể có tài sản chung và tài sản riêng. Tuy nhiên, hiện không có định nghĩa cụ thể về tài sản riêng vợ, chồng mà chỉ có quy định về các loại tài sản được coi là tài sản riêng vợ, chồng. Cụ thể, căn cứ Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình, tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm: - Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; - Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; - Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng khi chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; - Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng; - Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng; - Phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung - Tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng như: + Quyền tài sản với đối tượng sở hữu trí tuệ; + Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác; + Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác thì khi thuộc một trong các loại tài sản nêu trên sẽ được xem là tài sản riêng của vợ, chồng. Ngoài ra, đối với những tài sản bạn hiện có thuộc loại tài sản phải đăng ký thì các văn bản, chứng từ mua bán, chuyển nhượng mang tên bạn có ghi thời điểm giao dịch trước khi kết hôn sẽ là căn cứ chứng minh là tài sản có trước hôn nhân - là tài sản riêng của bạn. Các tài sản riêng này sẽ do bạn toàn quyền quyết định. Bên cạnh đó, Điều 47, 48 Luật hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định trước khi kết hôn, vợ chồng có thể lập văn bản có công chứng, chứng thực về việc Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng để ghi nhận rõ tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Đây là quy định mới so với các quy định của Luật hôn nhân và gia đình trước đây và tùy thuộc vào mối quan hệ tình cảm với người chồng sắp cưới trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình mà bạn có thể lựa chọn phương thức thỏa thuận xác lập tài sản vợ chồng nêu trên để có thể bảo toàn được tài sản của bạn. Một số lưu ý khi phân chia tài sản riêng của vợ/chồng Tuy nhiên, thực tế nếu khi kết hôn mà chúng ta quá rõ ràng về mặt tài sản đôi khi sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ tình cảm. Do đó, những điều mà chúng ta cần lưu ý như sau: - Đối với tài sản cần đăng ký quyền sở hữu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì sẽ đương nhiên là tài sản riêng của vợ/chồng vì được hình thành trước thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, sau khi kết hôn mà một trong hai người chuyển đổi thành tài sản chung của vợ chồng thì khi đó người còn lại cũng sẽ được hưởng một phần tài sản chung đó. - Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu như trang sức đá quý: khi đó việc chứng minh là tài sản riêng của một trong hai sẽ rất khó. Vì thế, để bảo toàn tài sản, chúng ta nên nắm rõ quy định của pháp luật về tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để biết cách tính toán sao cho hợp tình hợp lý, tránh khó xử về sau. Quy định về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng hoặc nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung Theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình thì: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”. Theo đó, vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền quyết định nhập hay không nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình, thì việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện như sau: - Theo thỏa thuận của vợ chồng. - Tài sản được nhập vào tài sản chung nếu theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định, thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. - Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy, vợ hoặc chồng có toàn quyền quyết định đối với tài sản riêng của mình, không ai được ép buộc người vợ, người chồng có tài sản riêng phải nhập tài sản riêng của họ vào khối tài sản chung của vợ chồng.
Ngày 05/6/2023, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Công văn 2160/VKSTC-V14 về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS, BLTTHS, THTG và THAHS. Để nâng cao nhận thức áp dụng các quy định, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân, tại Công văn 2160/VKSTC-V14, Viện Kiểm sát tối cao có ý kiến về phản ánh đề nghị hướng dẫn, giải đáp khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (BLHS năm 2015), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự (THAHS), như sau: Trường hợp 1: Xử lý như thế nào đối với phương tiện, công cụ phạm tội trong 02 trường hợp: (1) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản của người phạm tội đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng; (2) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng? VKSND tối cao trả lời: (1) Theo quy định tại khoản 9 Điều 21 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Trường hợp tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ hoặc bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được xác định là không còn tài sản bảo đảm…”. Và quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định 21/2021/NĐ-CP nêu trên thì “Trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó”. Như vậy, trường hợp bị can sử dụng tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng vào việc phạm tội thì việc xử lý tài sản thực hiện theo quy định Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 tức là bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy. Quyền lợi của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng được giải quyết theo quy định về khởi kiện vụ án dân sự. Xem thêm bài viết liên quan: VKSND tối cao giải đáp một số vướng mắc về hành vi hiếp dâm, giao cấu, mua dâm theo BLHS 2015 (2) Khoản 3 Điều 47 BLHS năm 2015 quy định: “Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu”. Do vậy, trường hợp phương tiện, công cụ phạm tội được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng thì tùy từng trường hợp, nếu xác định được vợ/chồng có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như biết rõ mà vẫn đồng ý hoặc cho phép) thì phương tiện, công cụ phạm tội đó có thể bị tịch thu toàn bộ; nếu xác định vợ/chồng không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như không biết việc chồng/vợ sử dụng vào việc phạm tội sử dụng vào việc phạm tội) thì có thể không tịch thu phần giá trị tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng. Trường hợp 2: Điểm b khoản 1 Điều 90 BLTTHS năm 2015 quy định “vật chứng là tiền... phải được giám định ngay sau khi thu thập”. Vậy có phải mọi trường hợp vật chứng là tiền thì đều bắt buộc phải trưng cầu giám định không? VKSND tối cao trả lời: Mặc dù điểm b khoản 1 Điều 90 BLTTHS năm 2015 có quy định về giám định, nhưng đây chỉ là quy định về thời điểm giám định: “ngay sau khi thu thập”. Để xác định các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định thì phải áp dụng những quy định cụ thể tại Chương XV BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cụ thể, theo khoản 5 Điều 206 BLTTHS năm 2015, khi cần xác định tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành trưng cầu giám định. Như vậy, trường hợp vật chứng là tiền trong các vụ án đối tượng phạm tội là tiền giả hoặc khi có căn cứ nghi ngờ tiền thu giữ là tiền giả thì cơ quan tiến hành tố tụng mới phải (bắt buộc) trưng cầu giám định, không phải mọi trường hợp vật chứng là tiền thì đều bắt buộc trưng cầu giám định. Trường hợp 3: Trong vụ án giao cấu với bị hại 13 tuổi dẫn đến bị hại có thai và sinh con (bị cáo 20 tuổi), Tòa án xác định bị cáo có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy mức cấp dưỡng nuôi con có phụ thuộc vào độ tuổi của người bị hại hay không? VKSND tối cao trả lời: Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đủ thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Pháp luật không có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng theo độ tuổi của người bị hại (người mẹ). Do đó, không có căn cứ pháp luật để xác định mức cấp dưỡng nuôi con theo độ tuổi của người bị hại. Xem chi tiết tại Công văn 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023. Xem thêm bài viết liên quan: VKSND tối cao giải đáp một số vướng mắc về hành vi hiếp dâm, giao cấu, mua dâm theo BLHS 2015
Công văn 443/VKSTC-V9: Giải đáp vướng mắc nghiệp vụ KSVGQ vụ việc dân sự, HN&GĐ
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao ban hành Công văn 443/VKSTC-V9 về việc giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ KSVGQ các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó, VKSNDTC đã nhận được nhiều ý kiến, câu hỏi liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Trong đó, tổng hợp, lựa chọn một số vấn đề mới nhất về tranh chấp hợp đồng đặt cọc, Về giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt cọc Trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”, tại Hợp đồng đặt cọc các bên thỏa thuận: Bên A giao số tiền đặt cọc cho bên B ngay khi ký hợp đồng; bên B cam kết sẽ hoàn thành các giấy tờ, thủ tục để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên A; Ngoài ra, còn thoả thuận về nghĩa vụ của các bên và việc phạt cọc. Thực hiện hợp đồng, bên A đã giao đủ tiền nhưng bên B không liên hệ cơ quan nhà nước để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục chuyển nhượng cho A. Bên A khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và phạt cọc. Có 02 quan điểm về việc giải quyết vụ án: Quan điểm thứ nhất: Do bên B đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong Hợp đồng nên Tòa án căn cứ Điều 423 và Điều 427 BLDS để hủy hợp đồng đặt cọc và phạt cọc đối với bên B. Quan điểm thứ hai: Phải xác định hợp đồng đặt cọc có hiệu lực, không hủy hợp đồng. Bên B vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì phải chịu các chế tài đã thỏa thuận trong Hợp đồng. Quan điểm nào là đúng? VKSNDTC trả lời: Trong vụ án trên, hợp đồng đặt cọc đã có hiệu lực và đang được thực hiện, bên A đã giao đủ tiền nhưng bên B vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Vi phạm của bên B được xác định là “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng” vì dẫn đến không thể giao kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (do bên B không được cấp GCNQSDĐ), đây là căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015. Điều 427 BLDS về hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng, tại các khoản 1 và 2 có quy định: “1. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thoả thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. 2. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng...”. Vì vậy, Tòa án có thể tuyên hủy hợp đồng đặt cọc theo yêu cầu của bên A. Bên B phải trả lại tiền cọc cho bên A và phải chịu phạt cọc. Nếu Toà án không hủy hợp đồng thì sẽ không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bên A vì trường hợp tiếp tục thực hiện hợp đồng thì bên A không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, trong khi vẫn phải chịu thiệt hại do tiền đặt cọc đã giao cho bên B đầy đủ; Nếu bên A từ chối việc giao kết hợp đồng thì bên A sẽ bị mất tiền đặt cọc theo khoản 2 Điều 328 BLDS, trong khi bên A không có vi phạm trong việc thực hiện hợp đồng đặt cọc. Về giải quyết tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B. Ông A lập hợp đồng tặng cho con là anh K, bà B không ký hợp đồng nhưng bà biết và không phản đối. Hiện anh K phải thi hành án với số tiền hơn 06 tỷ đồng, bà B sợ quyền sử dụng đất đã tặng cho anh K sẽ bị kê biên để thi hành án nên bà khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông A với anh K và hủy GCNQSDĐ của anh K. Anh K đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B. Vụ việc cho thấy có dấu hiệu bà B khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông A với anh K và hủy GCNQSDĐ của anh K là nhằm tẩu tán tài sản để không bị kê biên tài sản thi hành án. Tuy nhiên, do hợp đồng tặng cho không có chữ ký của bà B nên Tòa án đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B. Việc giải quyết của Tòa án có đúng không? VTSNDTC trả lời: - Nếu có tài liệu, chứng cứ chứng minh là bà B biết rõ việc ông A lập hợp đồng tặng cho mà không phản đối (như bà B trực tiếp cất giữ, quản lý GCNQSDĐ của anh K hoặc bà B cùng tham gia vào các giao dịch đối với quyền sử dụng đất do anh K thực hiện…) thì Tòa án có thể công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo Án lệ số 03/2016, tức là không chấp nhận yêu cầu của bà B. - Nếu có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh bà B không biết việc ông A tặng cho quyền sử dụng đất cho anh K thì Tòa án có thể xác định hợp đồng tặng cho vô hiệu đối với phần tài sản của bà B trong khối tài sản chung với ông A, tức là chấp nhận một phần yêu cầu của bà B. Vì vậy, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B, tức là hủy toàn bộ hợp đồng tặng cho và hủy GCNQSDĐ của anh K là không đúng, trái với ý chí của ông A định đoạt phần tài sản của mình. Về trách nhiệm bồi thường khi văn bản công chứng không đúng quy định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại Phòng Công chứng A, sau đó đương sự thực hiện các giao dịch dân sự với các chủ thể khác thì dẫn đến tranh chấp, khởi kiện. Tòa án xác định: Việc công chứng của Công chứng viên là không đúng pháp luật nên các giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng hiện tại Phòng Công chứng A đã được chuyển đổi thành Văn phòng Công chứng B. Vậy chủ thể nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho đương sự? VKSNDTC trả lời: Theo khoản 5 Điều 33, khoản 1 Điều 38 Luật Công chứng 2014 thì “Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên…của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng”. Khoản 1 Điều 4 Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng quy định “Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng đó”. Như vậy, Phòng Công chứng A đã được chuyển đổi thành Văn phòng Công chứng B nên Văn phòng công chứng B phải kế thừa, thực hiện quyền, nghĩa vụ của Phòng Công chứng A, kể cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo khoản 2 Điều 38 Luật Công chứng 2014 thì “Công chứng viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Xem chi tiết tại Công văn 443/VKSTC-V9 ban hành ngày 15/02/2023.
Chuyển mục đích sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân
Vợ hoặc chồng có tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp đã được tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng. Nếu trong thời kỳ hôn nhân đem đi chuyển mục đích sử dụng thành đất ở thì đất ở này có được xét trở thành tài sản chung của cả hai vợ chồng hay không? Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. (Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình). Căn cứ quy định nêu trên, quyền sử dụng đất mà vợ/chồng được tặng cho riêng, thừa kế riêng là tài sản riêng của người vợ/chồng đó. Dù quyền sử dụng đất đó có được chuyển mục đích sử dụng trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Mặc dù vậy, nếu hai vợ chồng có thể thỏa thuận tài sản đó là tài sản chung thì quyền sử dụng đất đó sẽ trở thành tài sản chung của cả hai vợ chồng. Trường hợp muốn xác định rõ ràng quyền sử dụng đất là tài sản riêng để tránh xảy ra tranh chấp thì có thể lập văn bản cam kết, xác nhận tài sản riêng và thực hiện công chứng tại Phòng Công chứng hoặc Văn phòng Công chứng.
Chồng "tặng" nhà, xe cho người thứ ba, vợ có được kiện đòi lại?
Luật sư Bùi Phan Anh cho biết, tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung". Vợ có thể khởi kiện đòi lại tài sản Theo luật sư Phan Anh, khi có chứng cứ chứng minh đầy đủ, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người vợ có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa tuyên bố giao dịch đó của chồng là vô hiệu. Dựa theo khoản 1 khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là: • Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. • Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Ngoài ra, luật sư Bùi Phan Anh cho biết, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung" Bên cạnh đó, Điều 9, Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP có hướng dẫn chi tiết quy định trên như sau: Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm: •Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng. •Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; •Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng như sau: •Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của vợ, chồng; •Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng Ngoài ra quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ, chồng trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Theo luật sư, phần tài sản chung này được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Xác định Quyền sở hữu đối với tài sản chung Luật sư Bùi Phan Anh cho biết, Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 thì vợ chồng sẽ cùng nhau tạo lập, cùng nhau phát triển và sẽ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung. Sở hữu chung tài sản của vợ chồng là sở hữu chung nhất có thể được phân chia. Việc phân chia này sẽ do vợ chồng thỏa thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP khi vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia. Những tài sản phải đăng ký sở hữu chung của vợ chồng Thỏa thuận định đoạt tài sản chung của vợ chồng những trường hợp sau đây phải bằng văn bản: •Bất động sản; •Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; •Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Khi pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, bao gồm: •Quyền sử dụng đất; •Những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu. Luật sư Phan Anh cho biết thêm, muốn chứng minh phần tài sản chồng đem cho người khác là tài sản chung của vợ chồng, thì cần phải chứng minh rằng việc chồng lấy tài sản chung của hai vợ chồng để cho người khác trái với quy định của pháp luật như: •Việc lấy tài sản chung cho người khác đấy của chồng không đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; •Lúc chồng cho người khác phần tài sản chung của vợ chồng nhưng vợ không đồng ý hoặc không biết; Khi đã chứng minh được việc chồng lấy tài sản chung của vợ chồng để cho người khác là trái với pháp luật thì giao dịch của chồng lúc đó là giao dịch không hợp pháp và người vợ có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu dựa theo Điều 117, 122, 123 Bộ luật Dân sự 2015. Theo Nhịp Sống Việt
Tài sản chung của vợ chồng mà chồng chết thì con cái có được quyền đòi chia thừa kế không?
Vợ chồng ông A và bà C có 4 con, hai người con đã định cư ở nước ngoài, hai người con ở trong nước cùng sử dụng chung với vợ chồng ông là 18000m2 đất nông nghiệp. Mảnh đất đoa do ông A đứng tên làm chủ hộ, năm 2016 ông A chết, bà C làm thủ tục sang tên bà làm chủ hộ. Năm 2017, bà C sang tên cho con trai lớn là anh T với diện tích là 7500m2 đất, con trai thứ 2 là anh K sử dụng chung với bà là 10.500m2. Năm 2018 bà C chuyển về ở với anh T và muốn lấy bớt 1 phần đất do anh K sử dụng cho anh T, nhưng anh K không đồng ý và đòi chia thừa kế quyền sử dụng đất. Bà c gửi đơn kiện lên tòa án. Theo anh/chị, bà C trong vụ việc trên có được pháp luật đất đai hiện hành bảo vệ không? Bảo vệ như thế nào?
Chính sách thuế TNCN, LPTB khi sáp nhập tài sản riêng thành tài sản chung
Hình minh họa: Thuế TNCN,LPTB khi sáp nhập tài sản riêng thành tài sản chung Ngày 23 tháng 6 năm 2020 Tổng cục thuế ra công văn 2559/TCT-DNNCN trả lời Công văn 5097/CT- QLĐ ngày 12/02/2020 của Cục Thuế thành phố Hà Nội phản ánh vướng mắc về nghĩa vụ tài chính đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và lệ phí trước bạ (LPTB) nhà, đất của hộ gia đình, cá nhân khi thành viên gia đình sáp nhập tài sản riêng thành tài sản chung. Vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau: >>> Về căn cứ pháp lý và văn bản thỏa thuận - Tại Điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 quy định về nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung: “1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. 2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. 3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” - Tại khoản 1, khoản 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân ngày 21/11/2007 của Quốc Hội quy định về thu nhập được miễn thuế: “1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. 4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.” - Tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định về Đối tượng chịu lệ phí trước bạ: “1. Nhà, đất....” - Tại Điều 3 Nghị định 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định về người nộp lệ phí trước bạ: “Tổ chức, cá nhân có tài sản thuộc đối tượng chịu lệ phí trước bạ quy định tại Điều 2 Nghị định này phải nộp lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ các trường hợp thuộc diện miễn lệ phí trước bạ theo quy định tại Điều 9 Nghị định này.” - Văn bản thoả thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng lập ngày 18/12/2019 do Văn phòng Công chứng Bùi Bảo Chi, trụ sở 463 Hoàng Quốc Việt, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội chứng thực: nhập tài sản là thửa đất tại địa chỉ số 125 tổ 35, cụm 7, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội nhập vào tài sản chung của gia đình. >>> Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế thành phố Hà Nội trao đổi với cơ quan quản lý đất đai về nhập tài sản riêng thành tài sản chung và căn cứ Văn bản thoả thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng xác định: 1. Về thuế TNCN: Trường hợp việc nhập tài sản riêng (là nhà và quyền sử dụng đất) của chồng thành tài sản chung của vợ chồng không phải là chuyển nhượng hay cho tặng bất động sản không phát sinh thu nhập, do đó không thuộc đối tượng kê khai, nộp thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản. Trường hợp việc nhập tài sản riêng (là nhà và quyền sử dụng đất) của chồng thành tài sản chung của vợ chồng là chuyển nhượng hay cho tặng bất động sản thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 4 Điều 4 Luật Thuế TNCN 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc Hội. 2. Về Lệ phí trước bạ: theo quy định tại Điều 2, Điều 3 Nghị định 140/NĐ-CP của Chính phủ thì trường hợp nhập tài sản riêng của chồng vào tài sản chung của vợ chồng không thuộc trường hợp được miễn LPTB. Mời bạn xem công văn 2559/TCT-DNNCN tại file đính kèm
Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Như chúng ta đã biết, tài sản trong hôn nhân là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Vậy trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung hay không? Việc chia tài sản chung sẽ có những hệ quả gì? Hiện nay pháp luật đã có quy định cụ thể về vấn đề này. * Vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Theo Khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, vợ chồng hoàn toàn có quyền thỏa thuận, định đoạt về việc chia hay không chia, chia một phần hay toàn bộ khối tài sản chung của mình trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật hiện nay đề cao sự thỏa thuận, ý chí của các bên. Nếu các bên không thể tự giải quyết, thỏa thuận với nhau thì có thể yêu cầu đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu. * Hình thức của việc thỏa thuận chia tài sản chung - Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Đây là một điểm mà các cặp vợ chồng khi thỏa thuận chia tài sản chung phải lưu ý. Thỏa thuận này phải được lập thành văn bản cụ thể thì mới có giá trị, tránh trường hợp xảy ra tranh chấp sau này. - Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Như vậy, vợ chồng có thể yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận này. Đối với trường hợp thỏa thuận về việc phân chia tài sản là quyền sử dụng đất thì theo quy định của pháp luật về đất đai, văn bản này cũng phải được công chứng. * Thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. * Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. - Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng. - Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng. * Thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật - Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và Điều 43 của Luật Hôn nhân và gia đình. Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. - Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. * Những trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Việc thỏa thuận chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; - Việc thỏa thuận chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây: + Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; + Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; + Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; + Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; + Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; + Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan. Căn cứ pháp lý: - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; - Nghị định 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
Chào bạn, Đối với trường hợp của bạn, hiện nay đã có quy định khá rõ ràng tại Điều 33 34 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đầu tiên, phải xác định quyền sử dụng đất này có được trước hay sau thời kỳ hôn nhân. Nếu tài sản có được sau khi kết hôn thì được xác định là tài sản chung vợ chồng (theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014). Căn cứ vào Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung vợ chồng thì: 1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. ... Như vậy, bạn phải xác định quyền sử dụng đất này có trước hay sau khi kết hôn; nếu có sau khi hai bạn kết hôn thì GCNQSDĐ phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp hai vợ chồng bạn có thỏa thuận khác.
Nộp thuế khi mua tài sản chung của vợ chồng
Gửi các luật gia/ luật sư cho tôi xin ý kiến về vụ việc sau: A (Chồng) và B (vợ) kết hôn năm 2010, có tài sản chung là thửa đất và một ngôi nhà. Năm 2012, A,B thế chấp tài sản ra Ngân hàng để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của B. Năm 2014, B kinh doanh vi phạm pháp luật và làm ăn thua lỗ nên nợ một số tiền lớn khoảng 50 tỷ. Năm 2015, A,B xin ly hôn, được Tòa chấp nhận nhưng không yêu cầu phân chia tài sản. Năm 2018, B bị Tòa án hình sự tuyên phạt tù và yêu cầu trả lại 50 tỷ cho chủ nợ. Ngân hàng đã yêu cầu thi hành án xử lý tài sản chung của A và B, cụ thể ngân hàng yêu cầu trả số tiền 6 tỷ, và nhiều chủ nợ yêu cầu tổng số tiền là 20 tỷ. Sau khi, Thi hành án cưỡng chế, kê biên tài sản, A có đơn xin mua lại tài sản chung của A và B. Giá trị định giá ngôi nhà và đất là 10 tỷ. Sau khi thỏa thuận với thi hành án và ngân hàng, A đã thanh toán số tiền 6 tỷ cho ngân hàng và nộp 2 tỷ cho thi hành án. Cuối năm 2018, A được thi hành án và các cơ quan ban ngành bàn giao lại nhà. Tuy nhiên, khi A làm thủ tục sang tên bị vướng mắc về thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng. Có 3 quan điểm về việc này như sau: 1. Chi cục thuế xác định số tiền A(người bán) phải nộp thuế thu nhập cá nhân trên số tiền 10 tỷ theo định giá bán tài sản của thi hành án. 2. A cho rằng mình chỉ phải đóng số tiền 2 tỷ mua phần tài sản chung của B, còn số tiền 6 tỷ là A tự nộp nên không được tính vào, 3. Tôi cho rằng, số tiền thuế phải nộp trong trường hợp này là 10/2 = 5 tỷ, và B là người phải có ngĩa vụ nộp thuế TNCN (chỉ mua lại một nửa số tài sản của B). Tuy nhiên, hiện tại B đang chịu chấp hành hình phạt tù, không thể kê khai thuế TNCN. Do vậy, A có thể khai thay và nộp thuế cho B được không? Rất mong nhận được ý kiến của các chuyên gia trong vụ việc này.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong từng giai đoạn
Trường hợp nam, nữ sống chung mà không đăng ký kết hôn: Việc giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là chia theo thỏa thuận giữa các bên, nếu không thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung thì sẽ áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan để giải quyết vấn đề tài sản chung. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Do đó Theo Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về chia tài sản thuộc sở hữu chung như sau: “Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.” Trong thời kỳ hôn nhân: Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Thỏa thuận phải lập thành văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong một số trường hợp không thể chia tài sản chung. Cụ thể theo quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau: “Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.”’ Việc chia tài sản chung mà lại không thỏa thuận được với nhau thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết và theo các nguyên tắc chia đôi tương tự như chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. Khi ly hôn: Theo Khoản 1, Điều 7 của Thông tư liên tịch Số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP về Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì: Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau: “Không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn; Có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.” Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu theo điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia: “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.” Ngoài ra cũng cần chú ý các nguyên tắc chia tài sản sau đây: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của pháp luật. Trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Tranh chấp nhà đang thuê với tài sản chung vợ chồng
Chào luật sư, Bên em đang có 1 vướng mắc xin nhờ anh/ chị luật sư tư vấn giúp: Cụ thể, bên em có thuê 1 căn nhà (nguyên căn) với mục đính kinh doanh. Hợp đồng thuê nhà có đầy đủ chữ ký của 2 anh chị vợ chồng (tài sải chung) và chữ ký, con dấu của cty em nhưng không có công chứng. Nay 2 vợ chồng cho thuê nhà đang có tranh chấp về căn nhà này. Cụ thể là anh chồng không muốn cho thuê nữa (hợp đồng còn thời hạn) và đòi bên em dọn đi ngay. Bên em muốn hỏi: 1. Hợp đồng thuê nhà bên trên có hợp lệ hay không? Việc anh chồng muốn đòi lại nhà đang thuê có vi phạm pháp luật hay không? 2. Nếu bên em ký kết biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà trên mà chỉ có chữ ký của người vợ thì có hợp pháp hay không? Hợp đồng liên quan tới tài sản chung của vợ chồng có bắt buộc phải có chữ ký của 2 người? Cảm ơn luật sư.
Vợ phải trả tiền thua bài cho chồng
Thời gian qua, có thành viên thắc mắc: “Chồng tôi đánh bài thua và phải mượn tiền của người khác để trả nợ, giờ người ta đến đòi nợ thì tôi mới biết, vậy tôi có phải trả nợ cho chồng hay không? Theo tôi được biết, việc mượn tiền này không có sự đồng ý của tôi và đó là chuyện riêng của chồng nên chỉ có chồng tôi mới có nghĩa vụ trả”. Trả lời: Theo điều 27 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2000 thì tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu hợp nhất. Tài sản ở đây bao gồm: tài sản có (khối tài sản thực có) và tài sản nợ (khối tài sản đang nợ người khác). Như vậy, khoản nợ do người chồng thua bài là tài sản nợ chung của cả hai vợ chồng nên trong trường hợp này vợ và chồng phải có nghĩa vụ trả. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, bởi lẽ người chồng mượn tiền đi đánh bài trong thời kỳ hôn nhân chỉ có thể làm “phình to” hoặc “nhỏ lại” khối tài sản chung chứ không hề ảnh hưởng tới khối tài sản riêng của mình. Nghĩa là, vợ và chồng phải cùng có trách nhiệm trả nợ đối với phần tài sản nợ chung này.
Chồng chết vợ phải đóng thuế TNCN
Theo hướng dẫn tại Công văn 2493/TCT-TNCN của Tổng cục thuế, người vợ sẽ phải nộp thuế TNCN với phân nửa khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi người chồng chết. Theo lập luận của Tổng cục thuế, trong khối tài sản chung hợp nhất sẽ có phân nửa tài sản là của vợ, phân nửa tài sản còn lại là phần tài sản của chồng. Do đó với những tài sản do chồng đứng tên sở hữu riêng (cụ thể theo công văn là vốn cổ phần) mà được xác định là tài sản chung thì khi chuyển quyền sở hữu cho vợ (vì người chồng đã mất), người vợ sẽ phải đóng thuế TNCN theo cách tính sau: - Đối với phần tài sản thuộc về người vợ theo quy định của luật hôn nhân gia đình (1/2 phần tài sản): người vợ không phải đóng thuế TNCN khi nhận chuyển quyền. - Đối với phần tải sản thuộc vế người chồng – và theo đó trở thành di sản thừa kế: người vợ sẽ phải đóng thuế TNCN theo thuế suất dành cho thu nhập từ thừa kế. Công văn 2493/TCT-TNCN Căn cứ các quy định nêu trên, nếu số vốn cổ phần đứng tên chồng có căn cứ xác nhận là tài sản chung của hai vợ chồng thì khi người chồng mất đi, việc xác định phần vốn đứng tên người chồng thuộc sở hữu của người vợ sẽ thực hiện theo thỏa thuận giữa hai vợ chồng, theo di chúc hoặc theo quyết định của Tòa án. Theo đó, nếu phần vốn đứng tên chồng thuộc sở hữu của người vợ theo quy định của pháp luật thì khi chuyển sang tên người vợ không phải là khoản thu nhập từ thừa kế nên không chịu thuế thu nhập cá nhân.Phần vốn đứng tên chồng thuộc sở hữu của người chồng khi chuyển sang tên cho vợ hoặc cho các hàng thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật là khoản thu nhập từ thừa kế chịu thuế thu nhập cá nhân. Như vậy, với hướng dẫn này của Tổng cục Thuế thì người vợ sẽ phải đóng thuế TNCN khi nhận phần tài sản mà chính mình đã góp phần mồ hôi nước mắt để tạo lập ra; điều này liệu có thỏa đáng? Căn cứ theo quy định của luật Hôn nhân Gia đình, tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của hai vợ chồng và đây là Tài sản chung hợp nhất. Căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự thì tài sản chung hợp nhất được hiểu như sau: Điều 217. Sở hữu chung hợp nhất 1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. 2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự thì người vợ, người chồng mỗi người đều có toàn bộ quyền trên khối tài sản chung, không thể phân biệt rằng người này có một nửa quyền trên phần tài sản này, người kia có một nửa quyền trên phần tài sản kia. Và vì lẽ đó, việc người vợ nhận phần tài sản chung sau khi người chồng mất đi chỉ có ý nghĩa là số người có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung đã giảm đi một người, chứ không hề có sự chuyển giao tài sản từ quyền sở hữu của người chồng sang quyền sở hữu của người vợ. Và nếu đã không có việc chuyển giao tài sản từ người chồng sang người vợ thì sao có thể gọi là “Thu nhập từ thừa kế” và áp thuế TNCN lên khối tài sản này ? Phải chăng, Tổng cục Thuế đã quá máy móc khi áp dụng các quy định pháp luật về thuế khi chưa nghiên cứu đầy đủ bản chất của sự việc? Trọng Hiền
Tài sản chung vợ chồng thì thể hiện thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào?
Tôi muốn hỏi là vợ chồng tôi có nhu cầu mua một mảnh đất, vậy mảnh đất đó sẽ đứng tên của cả 02 vợ chồng hay chỉ đứng tên một người thôi?
Đất có được sau khi kết hôn đều có phải đều là tài sản chung?
Tài sản có được sau khi kết hôn là tài sản chung hay tài sản riêng? Việc xác định tài sản sau khi kết hôn như thế nào? Đất có được sau khi kết hôn đều có phải đều là tài sản chung? Tài sản chung vợ chồng theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Như vậy, không phải tất cả quyền sử dụng đất được phát sinh sau thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn bao gồm trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì xác định là tài sản riêng, không phải là tài sản chung của vợ chồng. Lưu ý nếu như không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản riêng Đối với tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng xác định là tài sản riêng thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng được quy định: - Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. - Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản. - Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. - Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ. Đối với tài sản riêng có được trong thời kỳ hôn nhân thì có quyền nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung theo quy định tại Điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể: - Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. - Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. - Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy, pháp luật hôn nhân và gia đình quy định cụ thể hướng dẫn xác định tài sản chung, tài sản riêng. Đối với tài sản riêng thì vợ/chồng có quyền quyết định về có nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hay không theo quy định nêu trên.
Hướng dẫn cách bảo toàn tài sản riêng của vợ/chồng khi kết hôn
Hôn nhân là một chuyện tốt đẹp, tuy nhiên việc tài sản riêng của vợ hoặc chồng hay tài sản chung trong hôn nhân cũng là một điều mà chúng ta cần lưu ý để có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Tuy nhiên, trong tình huống xấu nhất, thì việc rõ ràng, minh bạch trong tài sản cũng đem lại sự thuận tiện cho chủ sở hữu. Luật HNGĐ quy định về tài sản riêng của vợ chồng như thế nào? Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ chồng có thể có tài sản chung và tài sản riêng. Tuy nhiên, hiện không có định nghĩa cụ thể về tài sản riêng vợ, chồng mà chỉ có quy định về các loại tài sản được coi là tài sản riêng vợ, chồng. Cụ thể, căn cứ Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình, tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm: - Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; - Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; - Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng khi chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; - Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng; - Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng; - Phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung - Tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng như: + Quyền tài sản với đối tượng sở hữu trí tuệ; + Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác; + Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác thì khi thuộc một trong các loại tài sản nêu trên sẽ được xem là tài sản riêng của vợ, chồng. Ngoài ra, đối với những tài sản bạn hiện có thuộc loại tài sản phải đăng ký thì các văn bản, chứng từ mua bán, chuyển nhượng mang tên bạn có ghi thời điểm giao dịch trước khi kết hôn sẽ là căn cứ chứng minh là tài sản có trước hôn nhân - là tài sản riêng của bạn. Các tài sản riêng này sẽ do bạn toàn quyền quyết định. Bên cạnh đó, Điều 47, 48 Luật hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định trước khi kết hôn, vợ chồng có thể lập văn bản có công chứng, chứng thực về việc Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng để ghi nhận rõ tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Đây là quy định mới so với các quy định của Luật hôn nhân và gia đình trước đây và tùy thuộc vào mối quan hệ tình cảm với người chồng sắp cưới trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình mà bạn có thể lựa chọn phương thức thỏa thuận xác lập tài sản vợ chồng nêu trên để có thể bảo toàn được tài sản của bạn. Một số lưu ý khi phân chia tài sản riêng của vợ/chồng Tuy nhiên, thực tế nếu khi kết hôn mà chúng ta quá rõ ràng về mặt tài sản đôi khi sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ tình cảm. Do đó, những điều mà chúng ta cần lưu ý như sau: - Đối với tài sản cần đăng ký quyền sở hữu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì sẽ đương nhiên là tài sản riêng của vợ/chồng vì được hình thành trước thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, sau khi kết hôn mà một trong hai người chuyển đổi thành tài sản chung của vợ chồng thì khi đó người còn lại cũng sẽ được hưởng một phần tài sản chung đó. - Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu như trang sức đá quý: khi đó việc chứng minh là tài sản riêng của một trong hai sẽ rất khó. Vì thế, để bảo toàn tài sản, chúng ta nên nắm rõ quy định của pháp luật về tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để biết cách tính toán sao cho hợp tình hợp lý, tránh khó xử về sau. Quy định về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng hoặc nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung Theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình thì: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”. Theo đó, vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền quyết định nhập hay không nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình, thì việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện như sau: - Theo thỏa thuận của vợ chồng. - Tài sản được nhập vào tài sản chung nếu theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định, thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. - Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy, vợ hoặc chồng có toàn quyền quyết định đối với tài sản riêng của mình, không ai được ép buộc người vợ, người chồng có tài sản riêng phải nhập tài sản riêng của họ vào khối tài sản chung của vợ chồng.
Ngày 05/6/2023, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Công văn 2160/VKSTC-V14 về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS, BLTTHS, THTG và THAHS. Để nâng cao nhận thức áp dụng các quy định, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân, tại Công văn 2160/VKSTC-V14, Viện Kiểm sát tối cao có ý kiến về phản ánh đề nghị hướng dẫn, giải đáp khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (BLHS năm 2015), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự (THAHS), như sau: Trường hợp 1: Xử lý như thế nào đối với phương tiện, công cụ phạm tội trong 02 trường hợp: (1) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản của người phạm tội đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng; (2) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng? VKSND tối cao trả lời: (1) Theo quy định tại khoản 9 Điều 21 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Trường hợp tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ hoặc bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được xác định là không còn tài sản bảo đảm…”. Và quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định 21/2021/NĐ-CP nêu trên thì “Trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó”. Như vậy, trường hợp bị can sử dụng tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng vào việc phạm tội thì việc xử lý tài sản thực hiện theo quy định Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 tức là bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy. Quyền lợi của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng được giải quyết theo quy định về khởi kiện vụ án dân sự. Xem thêm bài viết liên quan: VKSND tối cao giải đáp một số vướng mắc về hành vi hiếp dâm, giao cấu, mua dâm theo BLHS 2015 (2) Khoản 3 Điều 47 BLHS năm 2015 quy định: “Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu”. Do vậy, trường hợp phương tiện, công cụ phạm tội được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng thì tùy từng trường hợp, nếu xác định được vợ/chồng có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như biết rõ mà vẫn đồng ý hoặc cho phép) thì phương tiện, công cụ phạm tội đó có thể bị tịch thu toàn bộ; nếu xác định vợ/chồng không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như không biết việc chồng/vợ sử dụng vào việc phạm tội sử dụng vào việc phạm tội) thì có thể không tịch thu phần giá trị tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng. Trường hợp 2: Điểm b khoản 1 Điều 90 BLTTHS năm 2015 quy định “vật chứng là tiền... phải được giám định ngay sau khi thu thập”. Vậy có phải mọi trường hợp vật chứng là tiền thì đều bắt buộc phải trưng cầu giám định không? VKSND tối cao trả lời: Mặc dù điểm b khoản 1 Điều 90 BLTTHS năm 2015 có quy định về giám định, nhưng đây chỉ là quy định về thời điểm giám định: “ngay sau khi thu thập”. Để xác định các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định thì phải áp dụng những quy định cụ thể tại Chương XV BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cụ thể, theo khoản 5 Điều 206 BLTTHS năm 2015, khi cần xác định tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành trưng cầu giám định. Như vậy, trường hợp vật chứng là tiền trong các vụ án đối tượng phạm tội là tiền giả hoặc khi có căn cứ nghi ngờ tiền thu giữ là tiền giả thì cơ quan tiến hành tố tụng mới phải (bắt buộc) trưng cầu giám định, không phải mọi trường hợp vật chứng là tiền thì đều bắt buộc trưng cầu giám định. Trường hợp 3: Trong vụ án giao cấu với bị hại 13 tuổi dẫn đến bị hại có thai và sinh con (bị cáo 20 tuổi), Tòa án xác định bị cáo có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy mức cấp dưỡng nuôi con có phụ thuộc vào độ tuổi của người bị hại hay không? VKSND tối cao trả lời: Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đủ thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Pháp luật không có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng theo độ tuổi của người bị hại (người mẹ). Do đó, không có căn cứ pháp luật để xác định mức cấp dưỡng nuôi con theo độ tuổi của người bị hại. Xem chi tiết tại Công văn 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023. Xem thêm bài viết liên quan: VKSND tối cao giải đáp một số vướng mắc về hành vi hiếp dâm, giao cấu, mua dâm theo BLHS 2015
Công văn 443/VKSTC-V9: Giải đáp vướng mắc nghiệp vụ KSVGQ vụ việc dân sự, HN&GĐ
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao ban hành Công văn 443/VKSTC-V9 về việc giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ KSVGQ các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó, VKSNDTC đã nhận được nhiều ý kiến, câu hỏi liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Trong đó, tổng hợp, lựa chọn một số vấn đề mới nhất về tranh chấp hợp đồng đặt cọc, Về giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt cọc Trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”, tại Hợp đồng đặt cọc các bên thỏa thuận: Bên A giao số tiền đặt cọc cho bên B ngay khi ký hợp đồng; bên B cam kết sẽ hoàn thành các giấy tờ, thủ tục để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên A; Ngoài ra, còn thoả thuận về nghĩa vụ của các bên và việc phạt cọc. Thực hiện hợp đồng, bên A đã giao đủ tiền nhưng bên B không liên hệ cơ quan nhà nước để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục chuyển nhượng cho A. Bên A khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và phạt cọc. Có 02 quan điểm về việc giải quyết vụ án: Quan điểm thứ nhất: Do bên B đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong Hợp đồng nên Tòa án căn cứ Điều 423 và Điều 427 BLDS để hủy hợp đồng đặt cọc và phạt cọc đối với bên B. Quan điểm thứ hai: Phải xác định hợp đồng đặt cọc có hiệu lực, không hủy hợp đồng. Bên B vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì phải chịu các chế tài đã thỏa thuận trong Hợp đồng. Quan điểm nào là đúng? VKSNDTC trả lời: Trong vụ án trên, hợp đồng đặt cọc đã có hiệu lực và đang được thực hiện, bên A đã giao đủ tiền nhưng bên B vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Vi phạm của bên B được xác định là “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng” vì dẫn đến không thể giao kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (do bên B không được cấp GCNQSDĐ), đây là căn cứ hủy bỏ hợp đồng theo điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015. Điều 427 BLDS về hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng, tại các khoản 1 và 2 có quy định: “1. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thoả thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. 2. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng...”. Vì vậy, Tòa án có thể tuyên hủy hợp đồng đặt cọc theo yêu cầu của bên A. Bên B phải trả lại tiền cọc cho bên A và phải chịu phạt cọc. Nếu Toà án không hủy hợp đồng thì sẽ không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bên A vì trường hợp tiếp tục thực hiện hợp đồng thì bên A không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, trong khi vẫn phải chịu thiệt hại do tiền đặt cọc đã giao cho bên B đầy đủ; Nếu bên A từ chối việc giao kết hợp đồng thì bên A sẽ bị mất tiền đặt cọc theo khoản 2 Điều 328 BLDS, trong khi bên A không có vi phạm trong việc thực hiện hợp đồng đặt cọc. Về giải quyết tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B. Ông A lập hợp đồng tặng cho con là anh K, bà B không ký hợp đồng nhưng bà biết và không phản đối. Hiện anh K phải thi hành án với số tiền hơn 06 tỷ đồng, bà B sợ quyền sử dụng đất đã tặng cho anh K sẽ bị kê biên để thi hành án nên bà khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông A với anh K và hủy GCNQSDĐ của anh K. Anh K đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B. Vụ việc cho thấy có dấu hiệu bà B khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông A với anh K và hủy GCNQSDĐ của anh K là nhằm tẩu tán tài sản để không bị kê biên tài sản thi hành án. Tuy nhiên, do hợp đồng tặng cho không có chữ ký của bà B nên Tòa án đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B. Việc giải quyết của Tòa án có đúng không? VTSNDTC trả lời: - Nếu có tài liệu, chứng cứ chứng minh là bà B biết rõ việc ông A lập hợp đồng tặng cho mà không phản đối (như bà B trực tiếp cất giữ, quản lý GCNQSDĐ của anh K hoặc bà B cùng tham gia vào các giao dịch đối với quyền sử dụng đất do anh K thực hiện…) thì Tòa án có thể công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo Án lệ số 03/2016, tức là không chấp nhận yêu cầu của bà B. - Nếu có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh bà B không biết việc ông A tặng cho quyền sử dụng đất cho anh K thì Tòa án có thể xác định hợp đồng tặng cho vô hiệu đối với phần tài sản của bà B trong khối tài sản chung với ông A, tức là chấp nhận một phần yêu cầu của bà B. Vì vậy, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà B, tức là hủy toàn bộ hợp đồng tặng cho và hủy GCNQSDĐ của anh K là không đúng, trái với ý chí của ông A định đoạt phần tài sản của mình. Về trách nhiệm bồi thường khi văn bản công chứng không đúng quy định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại Phòng Công chứng A, sau đó đương sự thực hiện các giao dịch dân sự với các chủ thể khác thì dẫn đến tranh chấp, khởi kiện. Tòa án xác định: Việc công chứng của Công chứng viên là không đúng pháp luật nên các giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng hiện tại Phòng Công chứng A đã được chuyển đổi thành Văn phòng Công chứng B. Vậy chủ thể nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho đương sự? VKSNDTC trả lời: Theo khoản 5 Điều 33, khoản 1 Điều 38 Luật Công chứng 2014 thì “Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên…của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng”. Khoản 1 Điều 4 Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng quy định “Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng đó”. Như vậy, Phòng Công chứng A đã được chuyển đổi thành Văn phòng Công chứng B nên Văn phòng công chứng B phải kế thừa, thực hiện quyền, nghĩa vụ của Phòng Công chứng A, kể cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo khoản 2 Điều 38 Luật Công chứng 2014 thì “Công chứng viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Xem chi tiết tại Công văn 443/VKSTC-V9 ban hành ngày 15/02/2023.
Chuyển mục đích sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân
Vợ hoặc chồng có tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp đã được tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng. Nếu trong thời kỳ hôn nhân đem đi chuyển mục đích sử dụng thành đất ở thì đất ở này có được xét trở thành tài sản chung của cả hai vợ chồng hay không? Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. (Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình). Căn cứ quy định nêu trên, quyền sử dụng đất mà vợ/chồng được tặng cho riêng, thừa kế riêng là tài sản riêng của người vợ/chồng đó. Dù quyền sử dụng đất đó có được chuyển mục đích sử dụng trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Mặc dù vậy, nếu hai vợ chồng có thể thỏa thuận tài sản đó là tài sản chung thì quyền sử dụng đất đó sẽ trở thành tài sản chung của cả hai vợ chồng. Trường hợp muốn xác định rõ ràng quyền sử dụng đất là tài sản riêng để tránh xảy ra tranh chấp thì có thể lập văn bản cam kết, xác nhận tài sản riêng và thực hiện công chứng tại Phòng Công chứng hoặc Văn phòng Công chứng.
Chồng "tặng" nhà, xe cho người thứ ba, vợ có được kiện đòi lại?
Luật sư Bùi Phan Anh cho biết, tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung". Vợ có thể khởi kiện đòi lại tài sản Theo luật sư Phan Anh, khi có chứng cứ chứng minh đầy đủ, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người vợ có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa tuyên bố giao dịch đó của chồng là vô hiệu. Dựa theo khoản 1 khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là: • Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. • Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Ngoài ra, luật sư Bùi Phan Anh cho biết, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung" Bên cạnh đó, Điều 9, Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP có hướng dẫn chi tiết quy định trên như sau: Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm: •Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng. •Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; •Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng như sau: •Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của vợ, chồng; •Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng Ngoài ra quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ, chồng trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Theo luật sư, phần tài sản chung này được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Xác định Quyền sở hữu đối với tài sản chung Luật sư Bùi Phan Anh cho biết, Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 thì vợ chồng sẽ cùng nhau tạo lập, cùng nhau phát triển và sẽ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung. Sở hữu chung tài sản của vợ chồng là sở hữu chung nhất có thể được phân chia. Việc phân chia này sẽ do vợ chồng thỏa thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP khi vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia. Những tài sản phải đăng ký sở hữu chung của vợ chồng Thỏa thuận định đoạt tài sản chung của vợ chồng những trường hợp sau đây phải bằng văn bản: •Bất động sản; •Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; •Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Khi pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, bao gồm: •Quyền sử dụng đất; •Những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu. Luật sư Phan Anh cho biết thêm, muốn chứng minh phần tài sản chồng đem cho người khác là tài sản chung của vợ chồng, thì cần phải chứng minh rằng việc chồng lấy tài sản chung của hai vợ chồng để cho người khác trái với quy định của pháp luật như: •Việc lấy tài sản chung cho người khác đấy của chồng không đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; •Lúc chồng cho người khác phần tài sản chung của vợ chồng nhưng vợ không đồng ý hoặc không biết; Khi đã chứng minh được việc chồng lấy tài sản chung của vợ chồng để cho người khác là trái với pháp luật thì giao dịch của chồng lúc đó là giao dịch không hợp pháp và người vợ có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu dựa theo Điều 117, 122, 123 Bộ luật Dân sự 2015. Theo Nhịp Sống Việt
Tài sản chung của vợ chồng mà chồng chết thì con cái có được quyền đòi chia thừa kế không?
Vợ chồng ông A và bà C có 4 con, hai người con đã định cư ở nước ngoài, hai người con ở trong nước cùng sử dụng chung với vợ chồng ông là 18000m2 đất nông nghiệp. Mảnh đất đoa do ông A đứng tên làm chủ hộ, năm 2016 ông A chết, bà C làm thủ tục sang tên bà làm chủ hộ. Năm 2017, bà C sang tên cho con trai lớn là anh T với diện tích là 7500m2 đất, con trai thứ 2 là anh K sử dụng chung với bà là 10.500m2. Năm 2018 bà C chuyển về ở với anh T và muốn lấy bớt 1 phần đất do anh K sử dụng cho anh T, nhưng anh K không đồng ý và đòi chia thừa kế quyền sử dụng đất. Bà c gửi đơn kiện lên tòa án. Theo anh/chị, bà C trong vụ việc trên có được pháp luật đất đai hiện hành bảo vệ không? Bảo vệ như thế nào?
Chính sách thuế TNCN, LPTB khi sáp nhập tài sản riêng thành tài sản chung
Hình minh họa: Thuế TNCN,LPTB khi sáp nhập tài sản riêng thành tài sản chung Ngày 23 tháng 6 năm 2020 Tổng cục thuế ra công văn 2559/TCT-DNNCN trả lời Công văn 5097/CT- QLĐ ngày 12/02/2020 của Cục Thuế thành phố Hà Nội phản ánh vướng mắc về nghĩa vụ tài chính đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và lệ phí trước bạ (LPTB) nhà, đất của hộ gia đình, cá nhân khi thành viên gia đình sáp nhập tài sản riêng thành tài sản chung. Vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau: >>> Về căn cứ pháp lý và văn bản thỏa thuận - Tại Điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 quy định về nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung: “1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. 2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. 3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” - Tại khoản 1, khoản 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân ngày 21/11/2007 của Quốc Hội quy định về thu nhập được miễn thuế: “1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. 4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.” - Tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định về Đối tượng chịu lệ phí trước bạ: “1. Nhà, đất....” - Tại Điều 3 Nghị định 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định về người nộp lệ phí trước bạ: “Tổ chức, cá nhân có tài sản thuộc đối tượng chịu lệ phí trước bạ quy định tại Điều 2 Nghị định này phải nộp lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ các trường hợp thuộc diện miễn lệ phí trước bạ theo quy định tại Điều 9 Nghị định này.” - Văn bản thoả thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng lập ngày 18/12/2019 do Văn phòng Công chứng Bùi Bảo Chi, trụ sở 463 Hoàng Quốc Việt, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội chứng thực: nhập tài sản là thửa đất tại địa chỉ số 125 tổ 35, cụm 7, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội nhập vào tài sản chung của gia đình. >>> Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế thành phố Hà Nội trao đổi với cơ quan quản lý đất đai về nhập tài sản riêng thành tài sản chung và căn cứ Văn bản thoả thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng xác định: 1. Về thuế TNCN: Trường hợp việc nhập tài sản riêng (là nhà và quyền sử dụng đất) của chồng thành tài sản chung của vợ chồng không phải là chuyển nhượng hay cho tặng bất động sản không phát sinh thu nhập, do đó không thuộc đối tượng kê khai, nộp thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản. Trường hợp việc nhập tài sản riêng (là nhà và quyền sử dụng đất) của chồng thành tài sản chung của vợ chồng là chuyển nhượng hay cho tặng bất động sản thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 4 Điều 4 Luật Thuế TNCN 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc Hội. 2. Về Lệ phí trước bạ: theo quy định tại Điều 2, Điều 3 Nghị định 140/NĐ-CP của Chính phủ thì trường hợp nhập tài sản riêng của chồng vào tài sản chung của vợ chồng không thuộc trường hợp được miễn LPTB. Mời bạn xem công văn 2559/TCT-DNNCN tại file đính kèm
Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Như chúng ta đã biết, tài sản trong hôn nhân là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Vậy trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung hay không? Việc chia tài sản chung sẽ có những hệ quả gì? Hiện nay pháp luật đã có quy định cụ thể về vấn đề này. * Vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Theo Khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, vợ chồng hoàn toàn có quyền thỏa thuận, định đoạt về việc chia hay không chia, chia một phần hay toàn bộ khối tài sản chung của mình trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật hiện nay đề cao sự thỏa thuận, ý chí của các bên. Nếu các bên không thể tự giải quyết, thỏa thuận với nhau thì có thể yêu cầu đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu. * Hình thức của việc thỏa thuận chia tài sản chung - Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Đây là một điểm mà các cặp vợ chồng khi thỏa thuận chia tài sản chung phải lưu ý. Thỏa thuận này phải được lập thành văn bản cụ thể thì mới có giá trị, tránh trường hợp xảy ra tranh chấp sau này. - Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Như vậy, vợ chồng có thể yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận này. Đối với trường hợp thỏa thuận về việc phân chia tài sản là quyền sử dụng đất thì theo quy định của pháp luật về đất đai, văn bản này cũng phải được công chứng. * Thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. * Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. - Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng. - Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng. * Thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật - Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và Điều 43 của Luật Hôn nhân và gia đình. Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. - Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. * Những trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Việc thỏa thuận chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; - Việc thỏa thuận chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây: + Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; + Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; + Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; + Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; + Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; + Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan. Căn cứ pháp lý: - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; - Nghị định 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
Chào bạn, Đối với trường hợp của bạn, hiện nay đã có quy định khá rõ ràng tại Điều 33 34 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đầu tiên, phải xác định quyền sử dụng đất này có được trước hay sau thời kỳ hôn nhân. Nếu tài sản có được sau khi kết hôn thì được xác định là tài sản chung vợ chồng (theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014). Căn cứ vào Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung vợ chồng thì: 1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. ... Như vậy, bạn phải xác định quyền sử dụng đất này có trước hay sau khi kết hôn; nếu có sau khi hai bạn kết hôn thì GCNQSDĐ phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp hai vợ chồng bạn có thỏa thuận khác.
Nộp thuế khi mua tài sản chung của vợ chồng
Gửi các luật gia/ luật sư cho tôi xin ý kiến về vụ việc sau: A (Chồng) và B (vợ) kết hôn năm 2010, có tài sản chung là thửa đất và một ngôi nhà. Năm 2012, A,B thế chấp tài sản ra Ngân hàng để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của B. Năm 2014, B kinh doanh vi phạm pháp luật và làm ăn thua lỗ nên nợ một số tiền lớn khoảng 50 tỷ. Năm 2015, A,B xin ly hôn, được Tòa chấp nhận nhưng không yêu cầu phân chia tài sản. Năm 2018, B bị Tòa án hình sự tuyên phạt tù và yêu cầu trả lại 50 tỷ cho chủ nợ. Ngân hàng đã yêu cầu thi hành án xử lý tài sản chung của A và B, cụ thể ngân hàng yêu cầu trả số tiền 6 tỷ, và nhiều chủ nợ yêu cầu tổng số tiền là 20 tỷ. Sau khi, Thi hành án cưỡng chế, kê biên tài sản, A có đơn xin mua lại tài sản chung của A và B. Giá trị định giá ngôi nhà và đất là 10 tỷ. Sau khi thỏa thuận với thi hành án và ngân hàng, A đã thanh toán số tiền 6 tỷ cho ngân hàng và nộp 2 tỷ cho thi hành án. Cuối năm 2018, A được thi hành án và các cơ quan ban ngành bàn giao lại nhà. Tuy nhiên, khi A làm thủ tục sang tên bị vướng mắc về thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng. Có 3 quan điểm về việc này như sau: 1. Chi cục thuế xác định số tiền A(người bán) phải nộp thuế thu nhập cá nhân trên số tiền 10 tỷ theo định giá bán tài sản của thi hành án. 2. A cho rằng mình chỉ phải đóng số tiền 2 tỷ mua phần tài sản chung của B, còn số tiền 6 tỷ là A tự nộp nên không được tính vào, 3. Tôi cho rằng, số tiền thuế phải nộp trong trường hợp này là 10/2 = 5 tỷ, và B là người phải có ngĩa vụ nộp thuế TNCN (chỉ mua lại một nửa số tài sản của B). Tuy nhiên, hiện tại B đang chịu chấp hành hình phạt tù, không thể kê khai thuế TNCN. Do vậy, A có thể khai thay và nộp thuế cho B được không? Rất mong nhận được ý kiến của các chuyên gia trong vụ việc này.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong từng giai đoạn
Trường hợp nam, nữ sống chung mà không đăng ký kết hôn: Việc giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là chia theo thỏa thuận giữa các bên, nếu không thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung thì sẽ áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan để giải quyết vấn đề tài sản chung. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Do đó Theo Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về chia tài sản thuộc sở hữu chung như sau: “Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.” Trong thời kỳ hôn nhân: Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Thỏa thuận phải lập thành văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong một số trường hợp không thể chia tài sản chung. Cụ thể theo quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau: “Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.”’ Việc chia tài sản chung mà lại không thỏa thuận được với nhau thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết và theo các nguyên tắc chia đôi tương tự như chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. Khi ly hôn: Theo Khoản 1, Điều 7 của Thông tư liên tịch Số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP về Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì: Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau: “Không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn; Có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.” Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu theo điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia: “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.” Ngoài ra cũng cần chú ý các nguyên tắc chia tài sản sau đây: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của pháp luật. Trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Tranh chấp nhà đang thuê với tài sản chung vợ chồng
Chào luật sư, Bên em đang có 1 vướng mắc xin nhờ anh/ chị luật sư tư vấn giúp: Cụ thể, bên em có thuê 1 căn nhà (nguyên căn) với mục đính kinh doanh. Hợp đồng thuê nhà có đầy đủ chữ ký của 2 anh chị vợ chồng (tài sải chung) và chữ ký, con dấu của cty em nhưng không có công chứng. Nay 2 vợ chồng cho thuê nhà đang có tranh chấp về căn nhà này. Cụ thể là anh chồng không muốn cho thuê nữa (hợp đồng còn thời hạn) và đòi bên em dọn đi ngay. Bên em muốn hỏi: 1. Hợp đồng thuê nhà bên trên có hợp lệ hay không? Việc anh chồng muốn đòi lại nhà đang thuê có vi phạm pháp luật hay không? 2. Nếu bên em ký kết biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà trên mà chỉ có chữ ký của người vợ thì có hợp pháp hay không? Hợp đồng liên quan tới tài sản chung của vợ chồng có bắt buộc phải có chữ ký của 2 người? Cảm ơn luật sư.
Vợ phải trả tiền thua bài cho chồng
Thời gian qua, có thành viên thắc mắc: “Chồng tôi đánh bài thua và phải mượn tiền của người khác để trả nợ, giờ người ta đến đòi nợ thì tôi mới biết, vậy tôi có phải trả nợ cho chồng hay không? Theo tôi được biết, việc mượn tiền này không có sự đồng ý của tôi và đó là chuyện riêng của chồng nên chỉ có chồng tôi mới có nghĩa vụ trả”. Trả lời: Theo điều 27 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2000 thì tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu hợp nhất. Tài sản ở đây bao gồm: tài sản có (khối tài sản thực có) và tài sản nợ (khối tài sản đang nợ người khác). Như vậy, khoản nợ do người chồng thua bài là tài sản nợ chung của cả hai vợ chồng nên trong trường hợp này vợ và chồng phải có nghĩa vụ trả. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, bởi lẽ người chồng mượn tiền đi đánh bài trong thời kỳ hôn nhân chỉ có thể làm “phình to” hoặc “nhỏ lại” khối tài sản chung chứ không hề ảnh hưởng tới khối tài sản riêng của mình. Nghĩa là, vợ và chồng phải cùng có trách nhiệm trả nợ đối với phần tài sản nợ chung này.
Chồng chết vợ phải đóng thuế TNCN
Theo hướng dẫn tại Công văn 2493/TCT-TNCN của Tổng cục thuế, người vợ sẽ phải nộp thuế TNCN với phân nửa khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi người chồng chết. Theo lập luận của Tổng cục thuế, trong khối tài sản chung hợp nhất sẽ có phân nửa tài sản là của vợ, phân nửa tài sản còn lại là phần tài sản của chồng. Do đó với những tài sản do chồng đứng tên sở hữu riêng (cụ thể theo công văn là vốn cổ phần) mà được xác định là tài sản chung thì khi chuyển quyền sở hữu cho vợ (vì người chồng đã mất), người vợ sẽ phải đóng thuế TNCN theo cách tính sau: - Đối với phần tài sản thuộc về người vợ theo quy định của luật hôn nhân gia đình (1/2 phần tài sản): người vợ không phải đóng thuế TNCN khi nhận chuyển quyền. - Đối với phần tải sản thuộc vế người chồng – và theo đó trở thành di sản thừa kế: người vợ sẽ phải đóng thuế TNCN theo thuế suất dành cho thu nhập từ thừa kế. Công văn 2493/TCT-TNCN Căn cứ các quy định nêu trên, nếu số vốn cổ phần đứng tên chồng có căn cứ xác nhận là tài sản chung của hai vợ chồng thì khi người chồng mất đi, việc xác định phần vốn đứng tên người chồng thuộc sở hữu của người vợ sẽ thực hiện theo thỏa thuận giữa hai vợ chồng, theo di chúc hoặc theo quyết định của Tòa án. Theo đó, nếu phần vốn đứng tên chồng thuộc sở hữu của người vợ theo quy định của pháp luật thì khi chuyển sang tên người vợ không phải là khoản thu nhập từ thừa kế nên không chịu thuế thu nhập cá nhân.Phần vốn đứng tên chồng thuộc sở hữu của người chồng khi chuyển sang tên cho vợ hoặc cho các hàng thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật là khoản thu nhập từ thừa kế chịu thuế thu nhập cá nhân. Như vậy, với hướng dẫn này của Tổng cục Thuế thì người vợ sẽ phải đóng thuế TNCN khi nhận phần tài sản mà chính mình đã góp phần mồ hôi nước mắt để tạo lập ra; điều này liệu có thỏa đáng? Căn cứ theo quy định của luật Hôn nhân Gia đình, tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của hai vợ chồng và đây là Tài sản chung hợp nhất. Căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự thì tài sản chung hợp nhất được hiểu như sau: Điều 217. Sở hữu chung hợp nhất 1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. 2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự thì người vợ, người chồng mỗi người đều có toàn bộ quyền trên khối tài sản chung, không thể phân biệt rằng người này có một nửa quyền trên phần tài sản này, người kia có một nửa quyền trên phần tài sản kia. Và vì lẽ đó, việc người vợ nhận phần tài sản chung sau khi người chồng mất đi chỉ có ý nghĩa là số người có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung đã giảm đi một người, chứ không hề có sự chuyển giao tài sản từ quyền sở hữu của người chồng sang quyền sở hữu của người vợ. Và nếu đã không có việc chuyển giao tài sản từ người chồng sang người vợ thì sao có thể gọi là “Thu nhập từ thừa kế” và áp thuế TNCN lên khối tài sản này ? Phải chăng, Tổng cục Thuế đã quá máy móc khi áp dụng các quy định pháp luật về thuế khi chưa nghiên cứu đầy đủ bản chất của sự việc? Trọng Hiền