Đánh bạc nhiều lần nhưng mỗi lần đều dưới 5.000.000 đồng thì có bị xử lý hình sự không?
Đánh bài thông qua mạng internet, mỗi lần đều đánh dưới 5.000.000 và có đánh nhiều lần. Nếu bị công an phát hiện có truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Về tội đánh bạc Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) thì hành vi đánh bạc sẽ bị truy cứu khi có những điều kiện sau: - Số tiền, hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. - Số tiền, hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Vậy đánh bạc mà số tiền, hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng mà chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi tính số tiền đánh bạc thì công an sẽ tỉnh tổng số tiền đã chơi hay sẽ căn cứ vào từng lần chơi? Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hiện nay đã hết hiệu lực nhưng khi xác định trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi đánh bạc vẫn dựa trên tinh thần của Nghị quyết này, theo đó khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau: - Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc; - Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 5.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó; - Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 5.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần”. - Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 5.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, theo Công văn 136/TANDTC-PC năm 2020 thì ở đây từng lần còn xác định theo tổng số tiền thu được đối với mỗi lần đánh (xét theo những người tham gia) để quyết định, cụ thể: - Đối với vụ án đánh bạc, Tòa án căn cứ vào tổng số tiền thu được hay số tiền mỗi bị cáo dùng đánh bạc để xem xét trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo. Trường hợp này, tùy vào vụ việc cụ thể mà xác định trách nhiệm hình sự và mức hình phạt của các bị cáo. Cụ thể: đối với trường hợp các bị cáo cùng đánh bạc với nhau (như đánh phỏm, đánh chắn, đánh liêng, đánh sâm...) thì căn cứ vào tổng số tiền thu trên chiếu bạc (tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc) để xem xét trách nhiệm hình sự; số tiền mỗi bị cáo dùng vào việc đánh bạc là một trong những căn cứ để Tòa án xem xét, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm khi quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo; đối với trường hợp con bạc đánh với chủ bạc (như lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa...) thì việc xác định khung hình phạt và mức hình phạt phải căn cứ vào số tiền từng bị cáo dùng vào việc đánh bạc.
Phạm nhân trong tù đánh nhau có bị truy cứu hình sự tội cố ý gây thương tích?
Khi đi tù trong quá trình chung sống và sinh hoạt chung cùng các phạm nhân với nhau đôi lúc sẽ có những mâu thuẫn phát sinh và việc đánh nhau có thể là một điều không tránh khỏi, việc bảo vệ các phạm nhân không bị đánh và chế tài nào dành cho hành vi đánh người khác ở trong tù? 1. Các hành vi bị nghiêm cấm trong thi hành án hình sự Theo Điều 10 Luật Thi hành án Hình sự 2019 thì các hành vi sau đây bị nghiêm cấm và tùy vào tính chất mức độ mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau. - Tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, cưỡng bức người khác vi phạm pháp luật về thi hành án hình sự; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người có trách nhiệm thi hành án hình sự; - Tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục người chấp hành án, biện pháp tư pháp; - Kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người, pháp nhân thương mại chấp hành án. 2. Phạm nhân đánh bạn tù bị xử lý như thế nào? - Xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau: Theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP thì phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; - Truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích Theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào cố ý gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: + Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ; tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; + Có tính chất côn đồ; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: + Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên +Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% + Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 BLHS 2015 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm: + Làm chết người; + Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Khung hình phạt cao nhất là bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong trường hợp + Làm chết 02 người trở lên; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 Vậy tùy vào tính chất mức độ trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ; tạm giam, đang chấp hành án phạt tù mà phạm nhân đánh bạn tù gây thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích.
Công an sử dụng súng sai mục đích bị xử lý như thế nào?
Vừa qua đã có sự việc một cán bộ công an chĩa súng vào nhân viên y tế khi bị yêu cầu đảm bảo nguyên tắc phòng ngừa dịch bệnh. Trên nguyên tắc, công an được sử dụng súng nhưng chỉ trong những trường hợp cần thiết khi đang thi hành công vụ để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội chứ không để đe dọa người khác. Việc công an sử dụng súng sai mục đích sẽ bị xử lý như thế nào trong quy định của pháp luật? Công an dùng súng sai mục đích thì bị xử lý như thế nào - Minh họa Để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội thì công an nhân dân là đối tượng được phép sử dụng súng theo quy định tại điểm d Điều 18, Luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ năm 2017. Tuy nhiên, pháp luật quy định nghiêm ngặt về nguyên tắc chỉ sử dụng vũ khí trong trường hợp cần thiết. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 23 Luật này,công an chỉ được dùng súng trong 06 trường hợp sau: 1. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó; 2. Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác; 5. Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ; 6. Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác. Việc sử dụng vũ khí quân dụng sẽ tuân theo nguyên tắc tại điều 22 của luật này, cụ thể như sau: - Phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng; - Chỉ dùng súng khi đang thi hành công vụ nhằm đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội - Chỉ nổ súng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. - Không sử dụng vũ khí quân dụng khi biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; Hậu quả của việc nổ súng gây ra thiệt hại sẽ được chia ra thành hai trường hợp sau: 1. Nếu cán bộ công an sử dụng súng trong khi đang thi đang thi hành công vụ Cán bộ, công an đảm bảo các nguyên tắc sử dụng súng theo đúng các nguyên tắc tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 luật này như đã nêu trên, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc sử dụng súng gây ra. (Căn cứ theo khoản 4, điều 23 luật này) Trường hợp gây thiệt hại rõ ràng quá yêu cầu tình thế cấp thiết, thì cán bộ, công an có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ căn cứ theo Điều 127 Bộ luật hình sự 2015. Mức phạt có thể lên đến 15 năm tù đồng thời có có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm Trường hợp cán bộ, công an trong lúc đang thi hành công vụ mà do lợi dụng, lạm dụng vũ khí để xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác mà không nhằm mục đích thi hành công vụ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người với tình tiết tăng nặng là lợi dụng nghề nghiệp theo điểm k điều 123 Bộ luật hình sự, tùy vào mức độ mà mức phạt có thể từ 12 năm tù đến chung thân, tử hình. 2. Nếu cán bộ công an sử dụng súng khi không đang thi hành công vụ: Người không đang thi hành công vụ mà sử dụng súng sai mục đích thì tùy vào mức độ vi phạm mà sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự: Về trách nhiệm hành chính:Căn cứ Khoản 3 Khoản 3 điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: Công an có thể bị phạt tiền từ mức từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng vũ khí phép nếu việc sử dụng súng chưa gây ra hậu quả. Về trách nhiệm hình sự: Người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều Điều 306 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ. - Nếu họ có hành vi sử dụng súng, lời nói đe dọa giết người và làm cho người bị đe dọa tin rằng mình có thể bị giết thì sẽ là dấu hiệu cấu thành tội “ Đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự” có thể bị phạt tù lên đến 07 năm. - Nếu công an dùng súng làm chết người trong trường hợp này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, mức phạt tù từ 12 năm đến chung thân, tử hình. Tóm lại, việc công an sử dụng súng mà gây ra hậu quả thì phải xem xét đến nhiều yếu tố để kết luận họ sẽ bị xử lý như thế nào. Một trong những yếu tố quan trọng là họ có đang trong thời gian thi hành công vụ hay không, mục đích của việc sử dụng súng có nhằm đảm bảo việc thi hành công vụ, có đáp ứng các nguyên tắc của pháp luật khi sử dụng vũ khí quân dụng hay không. Nếu cán bộ, công an sử dụng sai mục đích thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên.
Tư vấn đề tội cố ý gây thương tích trường hợp thương tích dưới 11%
Nhà ông A, bà A để 03 đống gạch lấn chiếm trước cổng nhà ông B. Ông B sang nói chuyện nhẹ nhà với ông bà A. Ông bà A ko đồng ý. Hôm sau bà A còn chửi mẹ của ông B và thách thức nhà ông B đi kiện chính quyền khi mẹ ông B nhắc nhở. Ông B đi kiện phường giải quyết, Phường đã yêu và bà A đã dọn gọn lại. Bà A sau đó dẹp gọn lại. Tuy nhiên mấy tiếng sau Bà A đã mang cành cây, gốc cây, đá vất vào khu vực đống gạch đã dọn đó. Sau đó Ông B nhìn thấy vậy tức quá đang làm đi về nhà. Và gặp bà A đang ở cổng nhà bà A và chửi và nói to. Rồi hai người cãi cự qua lại. Một lúc sau bà A về nhà và ngay sau đó Bà A và ông A cùng xuất hiện ra. Ông A nói" Tao sẽ đánh chết mày nếu mày chạm vào gạch". Ông B tức giận lao vào chạm đống gạch và nói " Mày đánh đi" thế là ông A lao vào ông B, trong lúc đó Ông B cũng đang tức giận tay cầm mỗi tay 1 viên gạch giơ lên lao vào ông A định đánh ông A xong gạch bị rơi ra ông A ko làm sao. Tiếp đến hai người ôm nhau vật ra ngã và mọi người vào can ngăn. Ông B được can ngăn đã dời xa ông A và ko lao vào ông A nữa. Tuy nhiên ông A vẫn cố gắng lao vào ông B xong ko thành vì có người ngăn. Thấy ông A hung hăng, ông B vào cầm một đoạn ống nước lao ra định đánh ông A thì mọi người ngăn, ông B lập tức đi về nhà vất ống nước đi. Một lúc sau ông A cứ chửi bới nhiều. Ông B lại lao vào đánh nhau với ông A xong hai bên ko ai bị thương vì có mọi người can ngăn. Rồi ai về nhà đó Kết quả: Bà A đã làm đơn tố giác gửi công an, và công an đã mời ông B nên giải quyết. Ông B nhất trí là sẽ giải quyết hòa giải, xong nhà ông bà A, A không chịu, muốn khởi tố ông B. 1. Vậy trong trường hợp này cho mình hỏi: Ông B có bị xử lý hình sự không? Vì theo Điều 134 Khoản a.. Bộ luật hình sự 2015 là dùng hung khí đánh người xong gây thương tích dưới 11% thi vẫn bị khởi tố hình sự. Vì ông A nằng lặc nói là bị xước ở tay 2 vết nhỏ 2cm có thể do ông B gây ra. Và mức độ bị xử như thế nào? 2. Ông B có thể khởi tố ông A do tội " Cố ý giết người xong chưa đạt" của ông A không? Vì hành vi nói: " Tao sẽ đánh chết mày nếu mày chạm vào gạch", ông A lao vào và gây cho ông B bị xung huyết đỏ mắt, dù mặc người can ngăn xong vẫn cố gắng bằng được để lao vào đánh chết ông B xong chưa đạt do khách quan, bị can ngăn nên không thành và khi lao vào ông B, ông A đã ra đánh độc ác vào mắt ông B, may chỉ bị xung huyết và vài ngày sau khỏi.
Trộm đồ giá trị 15 ngàn của siêu thị có bị truy cứu trách nhiệm gì không?
Vài hôm trước, bạn em kể là có đi siêu thị trộm 1 túi mặt nạ giấy giá trị 15k, và máy kêu trộm ở siêu thị báo khi thành toán. Bạn em có bị nhân viên bên siêu thị gọi giải quyết vấn đề như sau: trả thêm tiền đồ đã lấy cắp (nhưng không lập biên bản), chụp lại chứng minh nhân dân. Sau đó, bạn có xin tha thì anh đấy đồng ý. Nhưng về sau bạn em nói rằng thấy anh đấy chụp lại chứng minh thư. Mọi người cho em hỏi như vậy có bị truy cứu trách nhiệm gì không ạ? Bạn em chưa có tiền án tiền sự gì ạ? Em thấy nó cứ nói đi lại vụ này với tâm trạng lo lắng bức rứt nên cũng muốn khuyên bạn. Mong mọi người giúp em với ạ. Em cảm ơn
Đảng viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì xử lý kỷ luật như thế nào?
Mình cần hỗ trợ tư vấn về trường hợp đảng viên bị khởi tố về hành vi: “sử dụng hóa đơn không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế”, tội "Trốn thuế" thì áp dụng theo quy định CỤ THỂ nào của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên?
Cách xác định số tiền dùng để đánh bạc trong truy cứu trách nhiệm hình sự
Mình có chơi đánh bài online trên web bằng hình thức xóc đĩa, nạp tiền và rút tiền bằng tài khoản cá nhân, số tiền nạp mỗi lần chơi từ 2 trăm đến 1 triệu rưỡi nạp vào tài khoản ấy. Trong 1 ngày mình chơi nhiều nhất là mất 3 triệu và được nhiều nhất cũng là 3-4 triệu. Mình muốn hỏi: Công an họ quy tội đánh bạc của mình là 1 lần đặt cược; hay tổng 1 ngày mình nạp rút bao nhiêu tiền; hay tổng sổ tiền mà tài khoản của mình đã nhận và chuyển đi? Thêm thông tin nữa là mình chưa bao giờ nạp tiền 1 ngày đến 5 triệu; hay cược 1 ván 5 triệu, hay thu lợi trong 1 ngày đc 5 triệu cả.
Chơi đá gà ăn tiền có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Căn cứ điều 321 Bộ luật hình sự 2015, Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 người nào có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật tùy theo mức tiền, tình trạng nhân thân thì sẽ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Hành vi chơi đá gà, đặt cược ăn tiền chính là hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền. Do vậy, người có hành vi chơi đá gà ăn tiền có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ khoản 1,2 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì tùy theo mức tiền hay giá trị hiện vật chơi đá gà mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tù: Chơi đá gà được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Trách nhiệm pháp lý khi đưa, nhận tiền “chạy việc”
Hiện nay, vấn nạn "chạy chọt": chạy chức, chạy quyền, chạy việc, chạy biên chế,… đã trở thành thực trạng không còn xa lạ mà việc ngăn chặn hay đẩy lùi (chống “chạy”) là cuộc chiến đầy cam go, dường như là điều vô cùng nan giải. Thời gian này đang là thời điểm tốt nghiệp của nhiều trường cao đẳng, đại học. Mỗi năm lại có thêm hàng trăm ngàn sinh viên ra trường, trong khi đó, nhu cầu tuyển người luôn có giới hạn. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hóa hiện nay, để có được việc làm luôn là áp lực đối với sinh viên, thậm chí ngay cả với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi. Từ đó dẫn đến hiện trạng mhiều sinh viên mới ra trường để có được một việc làm là phải chạy bằng tiền. Vậy, chiếu theo quy định pháp luật thì hành vi “chạy việc” trên có là vi phạm không? Sẽ bị xử lý như thế nào? 1- Hiệu lực của giao dịch đưa, nhận tiền “chạy việc” Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. và theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự phải đảm bảo như sau: - Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; - Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; - Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Giao dịch giữa bên đưa tiền và bên nhận tiền để “chạy việc” được thực hiện hoàn toàn do sự tự nguyện, thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, nhìn về khía cạnh mục đích và nội dung giao dịch thì việc nhận tiền "chạy việc" lại là hành vi trái pháp luật, vi phạm điều cấm; do đó giao dịch trên bị coi là vô hiệu. 2- Hậu quả pháp lý của giao dịch “chạy việc” Hậu quả vô hiệu sẽ được thực hiện theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận. Như vậy, người nhận tiền sẽ phải trả lại số tiền đã nhận. Trường hợp bên chạy việc không trả lại tiền, thì bên đưa tiền để xin việc có thể khởi kiện vụ án dân sự (kèm theo chứng cứ chứng mình việc giao nhận...) để đòi lại khoản tiền. 3- Xử lý trách nhiệm pháp lý >>>Người nhận tiền chạy việc Tùy thuộc vào tình tiết trên thực tế còn có thể xác định hành vi của người nhận tiền để “chạy việc” có cấu thành tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật dân sự: + Trường hợp thực tế người nhận tiền không có khả năng xin được việc mà chỉ đưa ra những thông tin gian dối, giả tạo như hứa hẹn, cam kết, khẳng định… nhằm mục đích để nhận tiền rồi chiếm đoạt thì hành vi đó đã có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật hình sự 2015) + Trong trường hợp bên nhận tiền để “chạy việc” không có mục đích ban đầu mà sau khi có được số tiền đó do hoàn cảnh khách quan mà không xin được việc rồi mới nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền đó, không trả lại thì có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 Bộ luật Hình sự). + Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để tiến hành “chạy việc” theo yêu cầu/lợi ích của người đưa thì có thể cấu thành tội Nhận hối lộ (Điều 354) >>>Người đưa tiền chạy việc Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn tiến hành “chạy việc” yêu cầu thì có thể cấu thành tội Đưa hối lộ (Điều 364).
Tôi biết có một vụ án có nội dung thế này: Khoảng 10 giờ ngày 09/7/2017, Nguyễn Văn V điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 1A để về quê ở thành phố Bắc Giang ăn cỗ. V có giấy phép lái xe theo quy định. Khi đi đến địa phận xã C thì xe mô tô do V điều khiển va vào bà Nguyễn Thị T đi xe đạp cùng chiều. Hậu quả làm bà T ngã xuống đường và bị thương. Bà T được người dân đi đường đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Sau khi gây tai nạn, V để xe mô tô của mình tại hiện trường rồi thuê xe taxi đưa bà T đến đi cấp cứu rồi về quê ăn cỗ. Bà T bị thương nặng được cấp cứu đến 22 giờ cùng ngày thì chết. Ngày hôm sau khi biết tin bà T bị chết, V đến cơ quan Công an đầu thú khai nhận hành vi phạm tội. Chiếc xe mô tô do V điều khiển là của V mua của người khác từ năm 2014 nhưng không làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu. Hiện nay có 02 quan điểm khác nhau về việc xác định hành vi của Nguyễn Văn V có thuộc trường hợp “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm” hay không. - Quan điểm thứ nhất: Hành vi của V là phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự. - Quan điểm thứ hai: Hành vi của V là phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm c Khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm”. Bởi lẽ V không kịp thời trình báo cơ quan Công an sau khi tai nạn xảy ra; mặc dù V để xe mô tô của mình tại hiện trường để đi ăn cỗ nhưng chiếc mô tô này không đăng ký tên của V... Thiết nghĩ, có thể V không nghĩ việc va chạm của mình với bà T lại khiến bà T bị nặng đến như vậy. Nên V đã về quê ăn cỗ tiếp mà không trình báo công an cũng như không chăm sóc bà T tận tình ở bệnh viện. Và hơn nữa, V cũng không hề có ý định bỏ trốn vì V vẫn để xe của mình lại hiện trường và khi nghe tin bà T chết thì V đã trình báo cơ quan điều tra ngay. Vì vậy, theo quan điểm cá nhân thì V không phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 2, Điều 202, Bộ luật hình sự mà chỉ phạm tội theo Khoản 1, Điều 202, BLHS. Quan điểm của mọi người thì như thế nào ạ?
TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI NGƯỜI TỰ SÁT KHÔNG THÀNH CÔNG
“Nam sinh tự tử vì bị bạn gái bỏ rơi”, “tự tử vì nợ nần cờ bạc” hay thậm chí là “Nam sinh lớp 11 tự tử vì bị giữ xe vi phạm an toàn giao thông”, ... Mức độ dày đặt của những mẫu tin, những bài viết tương tự ngày càng phổ biến trên phương tiện truyền thông cùng với những quan điểm trái chiều (thương cảm hay phẫn nộ). Nhưng nhìn chung thì “tự sát” rõ ràng là hành động mang tính tự nguyện của cá nhân, như vậy có gì phải bàn luận? Sau đây mình xin chào sân forum Dân Luật với một vài quan điểm ngắn gọn về vấn đề này (vì mình viết lách kém nên từ ngữ hạn chế, mong mọi người thông cảm ) 1/ Về mặt xã hội, mình có một cái nhìn hơi “máu lạnh”: Nếu một cá nhân thực hiện hành vi tự sát thành công, mọi mối quan hệ, quyền lợi và nghĩa vụ của họ đều kết thúc – điều này đúng, nhưng chỉ với bản thân họ. Mình chỉ xét về khía cạnh gia đình, mỗi người trong chúng ta đều có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Nói một cách thực dụng, đại đa số người trong chúng ta đều được cha mẹ nuôi dưỡng, giáo dục, … tất cả những việc đó ta có thể xét là một dạng đầu tư cho tương lai cho bạn và gia đình bạn. Vậy khi bạn tự sát tức là bạn rũ bỏ trách nhiệm của mình, bạn bỏ lại cha mẹ mình trong đau khổ, bi thương bởi sự mất mát “khoản đầu tư cả về tinh thần lẫn vật chất” là bạn. Thực tế và dễ nhìn thấy nhất: bạn tự sát thành công – chi phí mai táng của bạn do ai chi trả? Ai phụng dưỡng cha mẹ bạn lúc về già? 2/ Về khía cạnh pháp luật Việt Nam: Theo pháp luật thì các quyền của con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, … được quy định trong Hiến pháp; quyền nhân thân được quy định trong Luật dân sự; các quyền công dân khác được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, tuyệt không có quy định về “quyền được chết”. Cụ thể, căn cứ vào điều 19 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tướt đoạt tính mạng trái pháp luật”. Pháp luật quy định: cuộc sống của một người chỉ bị tước đoạt (hoặc được chết) thông qua việc Tòa án xét xử và cho thi hành án phạt tử hình. Căn cứ vào 2 căn cứ trên, việc một người tự kết liễu cuộc sống của mình rõ ràng là hành vi vi hiến và trái pháp luật. Vậy mà họ lại không chịu bất kỳ một hình phạt nào???? Thậm chí điều 131 Bộ Luật hình sự 2015 cũng có quy định về tội “Xúi giục hoặc giúp người khác tự sát”. Theo quy định này thì người xúi giục hoặc giúp người khác tự sát là có tội, nhưng người trực tiếp gây ra tội (tự sát) lại không phải chịu trách nhiệm pháp lý nào???? 3/ Kết luận: Từ những luận điểm trên ta có thể thấy, rõ ràng pháp luật Việt Nam không cho phép một người có “quyền được chết” để chấm dứt cuộc sống của mình, cũng như dựa vào những hậu quả tiêu cực của việc tự sát đối với bản thân người tự sát, gia đình họ và xã hội; tại sao không hề có một hình phạt nào để răn đe những người có ý định tự sát hoặc là tự sát không thành công (vì dĩ nhiên ta không thể truy cứu trách nhiệm với người đã chết)??? Mình biết vẫn còn vô số khía cạnh để khai thác về chủ đề này, nhưng do kiến thức hạn hẹp (và để tránh viết nhiều làm "phiền mắt" người đọc ) nên mình chỉ trình bày những nội dung mình cho là tiêu biểu. Rất hy vọng nhận được sự bàn luận, góp ý sôi nổi của các anh chị, các bạn để ta có cái nhìn chi tiết, khách quan hơn về chủ đề này. Nguồn tham khảo: wikipedia, vnexpress. Best Regards!
Trường hợp nào gây tai nạn giao thông không bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Báo chí hôm nào đăng tin cũng thấy có vụ án tai nạn giao thông, không gây tử vong thì cũng gây thương tích…nhiều bạn sau khi tham gia giao thông, gây tai nạn thì lên Dân Luật hỏi rằng, trường hợp của em thế này, trường hợp thế kia có bị ở tù không?... Nỗi sợ hãi của nhiều người sau khi gây tai nạn giao thông mặc dù vô ý là có ở tù hay không. Vậy thì trường hợp nào gây tai nạn giao thông mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nói rõ ra là không bị ở tù: 1. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ nhưng gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác 2. Điều khiển phương tiện giao thông trong khi bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, hành vi của mình mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác 3. Điều khiển phương tiện giao thông khi dưới 14 tuổi mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác 4. Hết thời hiệu bị truy cứu trách nhiệm hình sự 5. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác mà người điều khiển đã tử vong tại nơi gây thiệt hại Căn cứ Bộ luật hình sự 1999 Còn thiếu trường hợp nào nữa không các bạn nhỉ?
Ly hôn có bị xử lý tảo hôn không ?
Câu hỏi: Chào Luật sư! Tôi xin hỏi như sau: Tôi sinh năm 1989, vợ tôi sinh năm 1995, kết hôn năm 2012. Bây giờ chúng tôi đã có 2 cháu (một trai, một gái). Tôi muốn ly hôn vợ tôi với lý do vợ tôi không chung thủy với tôi, rất hỗn láo với tôi và bố mẹ của tôi. Sự việc xảy ra cuối năm 2015. Vào tháng 11 năm 2015, vợ tôi đi qua đêm và uống rượu bia, ca hát với người khác (trai với gái) không về, không gọi điện về cho tôi và gia đình và lần đấy tôi đã đánh vợ tôi (không thể chịu nổi). Sau đó 3, 4 lần vợ tôi lại tiếp tục tái diễn. Tôi đã điện lên cho nhà bố mẹ vợ tình hình như thế. Quá tam ba bận tôi đã tha thứ vì không muốn tan nát hạnh phúc. Tôi nhu nhược quá phải không. Đến gần đây nhất tháng 5 năm 2016 vợ tôi bỏ về nhà mẹ đẻ của vợ tôi, sau đó đi làm gái tại quán hát cho nhau nghe. Tôi muốn hỏi Luật sư: Ra Tòa tôi bị chịu án Tảo hôn không? Có bị đền bù gì cho vợ tôi không? Vợ tôi muốn tôi đền bù cho vợ tôi. Án phí như thế nào khi tôi viết đơn? Nếu tôi bị kiện bạo hành sẽ bị xử ra sao? Xin cảm ơn Luật sư. Luật sư tư vấn: Về vấn đề tảo hôn Vì bạn không nói rõ ngày sinh của vợ và ngày kết hôn nên rất khó để xác định lúc đó vợ bạn đã đủ tuổi kết hôn hay chưa. Bạn kết hôn vào năm 2012, lúc đó Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đang có hiệu lực, theo quy định thì nữ từ 18 tuổi trở lên sẽ có quyền kết hôn. Từ 18 tuổi được hiểu là đủ 17 tuổi và một ngày. Vì vậy nếu hai bạn kết hôn sau ngày sinh nhật của vợ bạn thì lúc đó vợ bạn đã đủ tuổi kết hôn. Ngược lại, trường hợp các bạn kết hôn trước ngày sinh nhật vợ thì sẽ là tảo hôn. Trong trường hợp tảo hôn thì lúc các bạn kết hôn sẽ chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vì vợ bạn chưa đủ tuổi kết hôn. Nhưng bạn đã có 2 con chung, vậy chắc sau đó 2 bạn đã đi đăng ký kết hôn để còn làm Giấy khai sinh cho con đúng không? Vì bạn không nói rõ đã đăng ký kết hôn chưa nên tôi sẽ tư vấn trong trường hợp các bạn đã có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Còn trong trường hợp các bạn không đăng ký kết hôn thì các bạn sẽ không cần phải tiến hành thủ tục ly hôn. Nay cuộc sống gia đình rạn nứt và bạn muốn ly hôn thì phải nộp đơn ra Tòa án để được giải quyết ly hôn. Về nguyên tắc, thủ tục ly hôn sẽ được áp dụng theo pháp luật hiện hành là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Khoản 2 Điều 11 – Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về Xử lý kết hôn trái pháp luật như sau: Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy, khi bạn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nếu Tòa án xử lý trường hợp của bạn là kết hôn trái pháp luật, nếu các bạn có yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa sẽ công nhận quan hệ hôn nhân đó và xử ly hôn như bình thường (Vì lúc này vợ bạn đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật). Vấn đề đền bù cho vợ Ngoại trừ trách nhiệm về các khoản nợ chung và trách nhiệm đối với con cái thì bạn không có trách nhiệm phải đền bù cho vợ bạn những thứ khác như tuổi thanh xuân… Về án phí Án phí ly hôn theo quy định tại Pháp lệnh số 10/2009 về lệ phí, án phí là 200.000 đồng nếu không có tranh chấp về tài sản chung, do người nộp đơn nộp. Trường hợp có tranh chấp về tài sản chung thì án phí được tính theo ngạch (tỉ lệ theo giá trị tài sản tranh chấp). Về hành vi bạo hành Theo như bạn nói thì bạn chỉ đánh vợ một lần duy nhất đó, hay sau này mỗi lần vợ bạn “hư” là bạn lại đánh? Đánh bằng tay hay có vũ khí? Có gây thương tích gì không? Cho dù là như thế nào bạn cũng cần ngay lập tức dừng lại các hành động xâm phạm đến thân thể, sức khỏe đối với vợ. Theo quy định tại Điều 42 – Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình thì: “Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.” Nghị định số 110/2009/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chồng bạo lực gia đình thì: Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trước hết sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu hành vi có tính chất nghiêm trọng, vi phạm các quy định của luật hình sự thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự./.
Truy cứu trách nhiệm hình sự theo ý chí của nạn nhân
Trách nhiệm hình sự là quan hệ phát sinh giữa Nhà Nước với người thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trong một số trường việc người phạm tội có bị xử lý hay không lại do người bị hại quyết định Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất mà Nhà Nước áp dụng với những người thực hiện tội phạm khi họ xâm phạm tới những quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ. Việc gánh chịu các trách nhiệm hình sự không chỉ để trừng trị người thực hiện tội phạm mà còn để răn đe những người khác. Đồng thời mục đích giáo dục là không thể thiếu. Quan hệ giữa người thực hiện tội phạm và Nhà Nước phát sinh ngay khi người này thực hiện tội phạm. Thông qua hệ thống cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền Nhà Nước thực thi quyền lực của mình. Nhằm đưa các quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, bảo vệ những giá trị tốt đẹp của đất nước. Về mặt nguyên tắc, khi một pháp nhân hay cá nhân thực hiện tội phạm thì Nhà Nước có trách nhiệm xử lý theo đúng quy định để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Nhưng có một số trường hợp, việc phát sinh mối quan hệ pháp luật hình sự lại do người bị hại quyết định. Căn cứ Điều 155 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015, việc có khởi tố vụ án hình sự hay không sẽ phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện của người bị hại dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hoặc đã chết trong các trường hợp thuộc khoản 1 Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156, 226 của Bộ Luật Hình Sự 2015. Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại thuộc các trường hợp về tội xâm phạm sức khỏe, danh dự của nạn nhân. Và mức độ của hành vi là không quá nguy hiểm cho xã hội vì quy định này chỉ áp dụng cho các hành vi thuộc khoản 1, không có cấu thành tăng nặng. Trong trường hợp đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, người này vẫn được quyền rút đơn yêu cầu. Và vụ án phải được đình chỉ. Trừ trường hợp việc rút yêu cầu là trái ý muốn của họ do bị cưỡng ép, đe dọa thì cơ quan có thẩm quyền vẫn có quyền tiếp tục giải quyết vụ án. Lưu ý rằng, một khi người bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu thì họ không có quyền yêu cầu lại trừ trường hợp bị ép buộc, cưỡng bức. Tuy nhiên, trong một trường hợp thực tế nếu người bị hại do lừa dối mà rút đơn khởi kiện thì sẽ ra sao? Quy định của pháp luật chĩ công nhận hai trường hợp "cưỡng ép, đe dọa". Liệu đây có là một thiếu sót của Bộ Luật Tố tụng mới. Không ít các trường hợp trên thực tế, gia đình của nạn nhân bị hiếp dâm vì tin lời nhà trai sẽ cưới mà rút đơn yêu cầu. Nhưng khi rút xong thì nhà trai "quất ngựa truy phong". Do đó, để đảm bảo quyền lợi của mình hy vọng mọi người cẩn trọng, suy nghĩ kỹ trước khi làm việc gì. Minh Trang
Đánh bạc nhiều lần nhưng mỗi lần đều dưới 5.000.000 đồng thì có bị xử lý hình sự không?
Đánh bài thông qua mạng internet, mỗi lần đều đánh dưới 5.000.000 và có đánh nhiều lần. Nếu bị công an phát hiện có truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Về tội đánh bạc Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) thì hành vi đánh bạc sẽ bị truy cứu khi có những điều kiện sau: - Số tiền, hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. - Số tiền, hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Vậy đánh bạc mà số tiền, hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng mà chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi tính số tiền đánh bạc thì công an sẽ tỉnh tổng số tiền đã chơi hay sẽ căn cứ vào từng lần chơi? Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hiện nay đã hết hiệu lực nhưng khi xác định trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi đánh bạc vẫn dựa trên tinh thần của Nghị quyết này, theo đó khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau: - Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc; - Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 5.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó; - Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 5.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần”. - Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 5.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, theo Công văn 136/TANDTC-PC năm 2020 thì ở đây từng lần còn xác định theo tổng số tiền thu được đối với mỗi lần đánh (xét theo những người tham gia) để quyết định, cụ thể: - Đối với vụ án đánh bạc, Tòa án căn cứ vào tổng số tiền thu được hay số tiền mỗi bị cáo dùng đánh bạc để xem xét trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo. Trường hợp này, tùy vào vụ việc cụ thể mà xác định trách nhiệm hình sự và mức hình phạt của các bị cáo. Cụ thể: đối với trường hợp các bị cáo cùng đánh bạc với nhau (như đánh phỏm, đánh chắn, đánh liêng, đánh sâm...) thì căn cứ vào tổng số tiền thu trên chiếu bạc (tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc) để xem xét trách nhiệm hình sự; số tiền mỗi bị cáo dùng vào việc đánh bạc là một trong những căn cứ để Tòa án xem xét, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm khi quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo; đối với trường hợp con bạc đánh với chủ bạc (như lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa...) thì việc xác định khung hình phạt và mức hình phạt phải căn cứ vào số tiền từng bị cáo dùng vào việc đánh bạc.
Phạm nhân trong tù đánh nhau có bị truy cứu hình sự tội cố ý gây thương tích?
Khi đi tù trong quá trình chung sống và sinh hoạt chung cùng các phạm nhân với nhau đôi lúc sẽ có những mâu thuẫn phát sinh và việc đánh nhau có thể là một điều không tránh khỏi, việc bảo vệ các phạm nhân không bị đánh và chế tài nào dành cho hành vi đánh người khác ở trong tù? 1. Các hành vi bị nghiêm cấm trong thi hành án hình sự Theo Điều 10 Luật Thi hành án Hình sự 2019 thì các hành vi sau đây bị nghiêm cấm và tùy vào tính chất mức độ mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau. - Tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, cưỡng bức người khác vi phạm pháp luật về thi hành án hình sự; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người có trách nhiệm thi hành án hình sự; - Tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục người chấp hành án, biện pháp tư pháp; - Kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người, pháp nhân thương mại chấp hành án. 2. Phạm nhân đánh bạn tù bị xử lý như thế nào? - Xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau: Theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP thì phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; - Truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích Theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào cố ý gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: + Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ; tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; + Có tính chất côn đồ; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: + Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên +Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% + Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 BLHS 2015 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm: + Làm chết người; + Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Khung hình phạt cao nhất là bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong trường hợp + Làm chết 02 người trở lên; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 Vậy tùy vào tính chất mức độ trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ; tạm giam, đang chấp hành án phạt tù mà phạm nhân đánh bạn tù gây thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích.
Công an sử dụng súng sai mục đích bị xử lý như thế nào?
Vừa qua đã có sự việc một cán bộ công an chĩa súng vào nhân viên y tế khi bị yêu cầu đảm bảo nguyên tắc phòng ngừa dịch bệnh. Trên nguyên tắc, công an được sử dụng súng nhưng chỉ trong những trường hợp cần thiết khi đang thi hành công vụ để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội chứ không để đe dọa người khác. Việc công an sử dụng súng sai mục đích sẽ bị xử lý như thế nào trong quy định của pháp luật? Công an dùng súng sai mục đích thì bị xử lý như thế nào - Minh họa Để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội thì công an nhân dân là đối tượng được phép sử dụng súng theo quy định tại điểm d Điều 18, Luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ năm 2017. Tuy nhiên, pháp luật quy định nghiêm ngặt về nguyên tắc chỉ sử dụng vũ khí trong trường hợp cần thiết. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 23 Luật này,công an chỉ được dùng súng trong 06 trường hợp sau: 1. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó; 2. Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác; 5. Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ; 6. Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác. Việc sử dụng vũ khí quân dụng sẽ tuân theo nguyên tắc tại điều 22 của luật này, cụ thể như sau: - Phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng; - Chỉ dùng súng khi đang thi hành công vụ nhằm đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội - Chỉ nổ súng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. - Không sử dụng vũ khí quân dụng khi biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; Hậu quả của việc nổ súng gây ra thiệt hại sẽ được chia ra thành hai trường hợp sau: 1. Nếu cán bộ công an sử dụng súng trong khi đang thi đang thi hành công vụ Cán bộ, công an đảm bảo các nguyên tắc sử dụng súng theo đúng các nguyên tắc tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 luật này như đã nêu trên, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc sử dụng súng gây ra. (Căn cứ theo khoản 4, điều 23 luật này) Trường hợp gây thiệt hại rõ ràng quá yêu cầu tình thế cấp thiết, thì cán bộ, công an có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ căn cứ theo Điều 127 Bộ luật hình sự 2015. Mức phạt có thể lên đến 15 năm tù đồng thời có có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm Trường hợp cán bộ, công an trong lúc đang thi hành công vụ mà do lợi dụng, lạm dụng vũ khí để xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác mà không nhằm mục đích thi hành công vụ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người với tình tiết tăng nặng là lợi dụng nghề nghiệp theo điểm k điều 123 Bộ luật hình sự, tùy vào mức độ mà mức phạt có thể từ 12 năm tù đến chung thân, tử hình. 2. Nếu cán bộ công an sử dụng súng khi không đang thi hành công vụ: Người không đang thi hành công vụ mà sử dụng súng sai mục đích thì tùy vào mức độ vi phạm mà sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự: Về trách nhiệm hành chính:Căn cứ Khoản 3 Khoản 3 điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: Công an có thể bị phạt tiền từ mức từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng vũ khí phép nếu việc sử dụng súng chưa gây ra hậu quả. Về trách nhiệm hình sự: Người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều Điều 306 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ. - Nếu họ có hành vi sử dụng súng, lời nói đe dọa giết người và làm cho người bị đe dọa tin rằng mình có thể bị giết thì sẽ là dấu hiệu cấu thành tội “ Đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự” có thể bị phạt tù lên đến 07 năm. - Nếu công an dùng súng làm chết người trong trường hợp này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, mức phạt tù từ 12 năm đến chung thân, tử hình. Tóm lại, việc công an sử dụng súng mà gây ra hậu quả thì phải xem xét đến nhiều yếu tố để kết luận họ sẽ bị xử lý như thế nào. Một trong những yếu tố quan trọng là họ có đang trong thời gian thi hành công vụ hay không, mục đích của việc sử dụng súng có nhằm đảm bảo việc thi hành công vụ, có đáp ứng các nguyên tắc của pháp luật khi sử dụng vũ khí quân dụng hay không. Nếu cán bộ, công an sử dụng sai mục đích thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên.
Tư vấn đề tội cố ý gây thương tích trường hợp thương tích dưới 11%
Nhà ông A, bà A để 03 đống gạch lấn chiếm trước cổng nhà ông B. Ông B sang nói chuyện nhẹ nhà với ông bà A. Ông bà A ko đồng ý. Hôm sau bà A còn chửi mẹ của ông B và thách thức nhà ông B đi kiện chính quyền khi mẹ ông B nhắc nhở. Ông B đi kiện phường giải quyết, Phường đã yêu và bà A đã dọn gọn lại. Bà A sau đó dẹp gọn lại. Tuy nhiên mấy tiếng sau Bà A đã mang cành cây, gốc cây, đá vất vào khu vực đống gạch đã dọn đó. Sau đó Ông B nhìn thấy vậy tức quá đang làm đi về nhà. Và gặp bà A đang ở cổng nhà bà A và chửi và nói to. Rồi hai người cãi cự qua lại. Một lúc sau bà A về nhà và ngay sau đó Bà A và ông A cùng xuất hiện ra. Ông A nói" Tao sẽ đánh chết mày nếu mày chạm vào gạch". Ông B tức giận lao vào chạm đống gạch và nói " Mày đánh đi" thế là ông A lao vào ông B, trong lúc đó Ông B cũng đang tức giận tay cầm mỗi tay 1 viên gạch giơ lên lao vào ông A định đánh ông A xong gạch bị rơi ra ông A ko làm sao. Tiếp đến hai người ôm nhau vật ra ngã và mọi người vào can ngăn. Ông B được can ngăn đã dời xa ông A và ko lao vào ông A nữa. Tuy nhiên ông A vẫn cố gắng lao vào ông B xong ko thành vì có người ngăn. Thấy ông A hung hăng, ông B vào cầm một đoạn ống nước lao ra định đánh ông A thì mọi người ngăn, ông B lập tức đi về nhà vất ống nước đi. Một lúc sau ông A cứ chửi bới nhiều. Ông B lại lao vào đánh nhau với ông A xong hai bên ko ai bị thương vì có mọi người can ngăn. Rồi ai về nhà đó Kết quả: Bà A đã làm đơn tố giác gửi công an, và công an đã mời ông B nên giải quyết. Ông B nhất trí là sẽ giải quyết hòa giải, xong nhà ông bà A, A không chịu, muốn khởi tố ông B. 1. Vậy trong trường hợp này cho mình hỏi: Ông B có bị xử lý hình sự không? Vì theo Điều 134 Khoản a.. Bộ luật hình sự 2015 là dùng hung khí đánh người xong gây thương tích dưới 11% thi vẫn bị khởi tố hình sự. Vì ông A nằng lặc nói là bị xước ở tay 2 vết nhỏ 2cm có thể do ông B gây ra. Và mức độ bị xử như thế nào? 2. Ông B có thể khởi tố ông A do tội " Cố ý giết người xong chưa đạt" của ông A không? Vì hành vi nói: " Tao sẽ đánh chết mày nếu mày chạm vào gạch", ông A lao vào và gây cho ông B bị xung huyết đỏ mắt, dù mặc người can ngăn xong vẫn cố gắng bằng được để lao vào đánh chết ông B xong chưa đạt do khách quan, bị can ngăn nên không thành và khi lao vào ông B, ông A đã ra đánh độc ác vào mắt ông B, may chỉ bị xung huyết và vài ngày sau khỏi.
Trộm đồ giá trị 15 ngàn của siêu thị có bị truy cứu trách nhiệm gì không?
Vài hôm trước, bạn em kể là có đi siêu thị trộm 1 túi mặt nạ giấy giá trị 15k, và máy kêu trộm ở siêu thị báo khi thành toán. Bạn em có bị nhân viên bên siêu thị gọi giải quyết vấn đề như sau: trả thêm tiền đồ đã lấy cắp (nhưng không lập biên bản), chụp lại chứng minh nhân dân. Sau đó, bạn có xin tha thì anh đấy đồng ý. Nhưng về sau bạn em nói rằng thấy anh đấy chụp lại chứng minh thư. Mọi người cho em hỏi như vậy có bị truy cứu trách nhiệm gì không ạ? Bạn em chưa có tiền án tiền sự gì ạ? Em thấy nó cứ nói đi lại vụ này với tâm trạng lo lắng bức rứt nên cũng muốn khuyên bạn. Mong mọi người giúp em với ạ. Em cảm ơn
Đảng viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì xử lý kỷ luật như thế nào?
Mình cần hỗ trợ tư vấn về trường hợp đảng viên bị khởi tố về hành vi: “sử dụng hóa đơn không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế”, tội "Trốn thuế" thì áp dụng theo quy định CỤ THỂ nào của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên?
Cách xác định số tiền dùng để đánh bạc trong truy cứu trách nhiệm hình sự
Mình có chơi đánh bài online trên web bằng hình thức xóc đĩa, nạp tiền và rút tiền bằng tài khoản cá nhân, số tiền nạp mỗi lần chơi từ 2 trăm đến 1 triệu rưỡi nạp vào tài khoản ấy. Trong 1 ngày mình chơi nhiều nhất là mất 3 triệu và được nhiều nhất cũng là 3-4 triệu. Mình muốn hỏi: Công an họ quy tội đánh bạc của mình là 1 lần đặt cược; hay tổng 1 ngày mình nạp rút bao nhiêu tiền; hay tổng sổ tiền mà tài khoản của mình đã nhận và chuyển đi? Thêm thông tin nữa là mình chưa bao giờ nạp tiền 1 ngày đến 5 triệu; hay cược 1 ván 5 triệu, hay thu lợi trong 1 ngày đc 5 triệu cả.
Chơi đá gà ăn tiền có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Căn cứ điều 321 Bộ luật hình sự 2015, Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 người nào có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật tùy theo mức tiền, tình trạng nhân thân thì sẽ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Hành vi chơi đá gà, đặt cược ăn tiền chính là hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền. Do vậy, người có hành vi chơi đá gà ăn tiền có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ khoản 1,2 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì tùy theo mức tiền hay giá trị hiện vật chơi đá gà mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tù: Chơi đá gà được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Trách nhiệm pháp lý khi đưa, nhận tiền “chạy việc”
Hiện nay, vấn nạn "chạy chọt": chạy chức, chạy quyền, chạy việc, chạy biên chế,… đã trở thành thực trạng không còn xa lạ mà việc ngăn chặn hay đẩy lùi (chống “chạy”) là cuộc chiến đầy cam go, dường như là điều vô cùng nan giải. Thời gian này đang là thời điểm tốt nghiệp của nhiều trường cao đẳng, đại học. Mỗi năm lại có thêm hàng trăm ngàn sinh viên ra trường, trong khi đó, nhu cầu tuyển người luôn có giới hạn. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hóa hiện nay, để có được việc làm luôn là áp lực đối với sinh viên, thậm chí ngay cả với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi. Từ đó dẫn đến hiện trạng mhiều sinh viên mới ra trường để có được một việc làm là phải chạy bằng tiền. Vậy, chiếu theo quy định pháp luật thì hành vi “chạy việc” trên có là vi phạm không? Sẽ bị xử lý như thế nào? 1- Hiệu lực của giao dịch đưa, nhận tiền “chạy việc” Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. và theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự phải đảm bảo như sau: - Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; - Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; - Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Giao dịch giữa bên đưa tiền và bên nhận tiền để “chạy việc” được thực hiện hoàn toàn do sự tự nguyện, thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, nhìn về khía cạnh mục đích và nội dung giao dịch thì việc nhận tiền "chạy việc" lại là hành vi trái pháp luật, vi phạm điều cấm; do đó giao dịch trên bị coi là vô hiệu. 2- Hậu quả pháp lý của giao dịch “chạy việc” Hậu quả vô hiệu sẽ được thực hiện theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận. Như vậy, người nhận tiền sẽ phải trả lại số tiền đã nhận. Trường hợp bên chạy việc không trả lại tiền, thì bên đưa tiền để xin việc có thể khởi kiện vụ án dân sự (kèm theo chứng cứ chứng mình việc giao nhận...) để đòi lại khoản tiền. 3- Xử lý trách nhiệm pháp lý >>>Người nhận tiền chạy việc Tùy thuộc vào tình tiết trên thực tế còn có thể xác định hành vi của người nhận tiền để “chạy việc” có cấu thành tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật dân sự: + Trường hợp thực tế người nhận tiền không có khả năng xin được việc mà chỉ đưa ra những thông tin gian dối, giả tạo như hứa hẹn, cam kết, khẳng định… nhằm mục đích để nhận tiền rồi chiếm đoạt thì hành vi đó đã có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật hình sự 2015) + Trong trường hợp bên nhận tiền để “chạy việc” không có mục đích ban đầu mà sau khi có được số tiền đó do hoàn cảnh khách quan mà không xin được việc rồi mới nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền đó, không trả lại thì có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 Bộ luật Hình sự). + Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để tiến hành “chạy việc” theo yêu cầu/lợi ích của người đưa thì có thể cấu thành tội Nhận hối lộ (Điều 354) >>>Người đưa tiền chạy việc Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn tiến hành “chạy việc” yêu cầu thì có thể cấu thành tội Đưa hối lộ (Điều 364).
Tôi biết có một vụ án có nội dung thế này: Khoảng 10 giờ ngày 09/7/2017, Nguyễn Văn V điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 1A để về quê ở thành phố Bắc Giang ăn cỗ. V có giấy phép lái xe theo quy định. Khi đi đến địa phận xã C thì xe mô tô do V điều khiển va vào bà Nguyễn Thị T đi xe đạp cùng chiều. Hậu quả làm bà T ngã xuống đường và bị thương. Bà T được người dân đi đường đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Sau khi gây tai nạn, V để xe mô tô của mình tại hiện trường rồi thuê xe taxi đưa bà T đến đi cấp cứu rồi về quê ăn cỗ. Bà T bị thương nặng được cấp cứu đến 22 giờ cùng ngày thì chết. Ngày hôm sau khi biết tin bà T bị chết, V đến cơ quan Công an đầu thú khai nhận hành vi phạm tội. Chiếc xe mô tô do V điều khiển là của V mua của người khác từ năm 2014 nhưng không làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu. Hiện nay có 02 quan điểm khác nhau về việc xác định hành vi của Nguyễn Văn V có thuộc trường hợp “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm” hay không. - Quan điểm thứ nhất: Hành vi của V là phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự. - Quan điểm thứ hai: Hành vi của V là phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm c Khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm”. Bởi lẽ V không kịp thời trình báo cơ quan Công an sau khi tai nạn xảy ra; mặc dù V để xe mô tô của mình tại hiện trường để đi ăn cỗ nhưng chiếc mô tô này không đăng ký tên của V... Thiết nghĩ, có thể V không nghĩ việc va chạm của mình với bà T lại khiến bà T bị nặng đến như vậy. Nên V đã về quê ăn cỗ tiếp mà không trình báo công an cũng như không chăm sóc bà T tận tình ở bệnh viện. Và hơn nữa, V cũng không hề có ý định bỏ trốn vì V vẫn để xe của mình lại hiện trường và khi nghe tin bà T chết thì V đã trình báo cơ quan điều tra ngay. Vì vậy, theo quan điểm cá nhân thì V không phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 2, Điều 202, Bộ luật hình sự mà chỉ phạm tội theo Khoản 1, Điều 202, BLHS. Quan điểm của mọi người thì như thế nào ạ?
TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI NGƯỜI TỰ SÁT KHÔNG THÀNH CÔNG
“Nam sinh tự tử vì bị bạn gái bỏ rơi”, “tự tử vì nợ nần cờ bạc” hay thậm chí là “Nam sinh lớp 11 tự tử vì bị giữ xe vi phạm an toàn giao thông”, ... Mức độ dày đặt của những mẫu tin, những bài viết tương tự ngày càng phổ biến trên phương tiện truyền thông cùng với những quan điểm trái chiều (thương cảm hay phẫn nộ). Nhưng nhìn chung thì “tự sát” rõ ràng là hành động mang tính tự nguyện của cá nhân, như vậy có gì phải bàn luận? Sau đây mình xin chào sân forum Dân Luật với một vài quan điểm ngắn gọn về vấn đề này (vì mình viết lách kém nên từ ngữ hạn chế, mong mọi người thông cảm ) 1/ Về mặt xã hội, mình có một cái nhìn hơi “máu lạnh”: Nếu một cá nhân thực hiện hành vi tự sát thành công, mọi mối quan hệ, quyền lợi và nghĩa vụ của họ đều kết thúc – điều này đúng, nhưng chỉ với bản thân họ. Mình chỉ xét về khía cạnh gia đình, mỗi người trong chúng ta đều có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Nói một cách thực dụng, đại đa số người trong chúng ta đều được cha mẹ nuôi dưỡng, giáo dục, … tất cả những việc đó ta có thể xét là một dạng đầu tư cho tương lai cho bạn và gia đình bạn. Vậy khi bạn tự sát tức là bạn rũ bỏ trách nhiệm của mình, bạn bỏ lại cha mẹ mình trong đau khổ, bi thương bởi sự mất mát “khoản đầu tư cả về tinh thần lẫn vật chất” là bạn. Thực tế và dễ nhìn thấy nhất: bạn tự sát thành công – chi phí mai táng của bạn do ai chi trả? Ai phụng dưỡng cha mẹ bạn lúc về già? 2/ Về khía cạnh pháp luật Việt Nam: Theo pháp luật thì các quyền của con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, … được quy định trong Hiến pháp; quyền nhân thân được quy định trong Luật dân sự; các quyền công dân khác được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, tuyệt không có quy định về “quyền được chết”. Cụ thể, căn cứ vào điều 19 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tướt đoạt tính mạng trái pháp luật”. Pháp luật quy định: cuộc sống của một người chỉ bị tước đoạt (hoặc được chết) thông qua việc Tòa án xét xử và cho thi hành án phạt tử hình. Căn cứ vào 2 căn cứ trên, việc một người tự kết liễu cuộc sống của mình rõ ràng là hành vi vi hiến và trái pháp luật. Vậy mà họ lại không chịu bất kỳ một hình phạt nào???? Thậm chí điều 131 Bộ Luật hình sự 2015 cũng có quy định về tội “Xúi giục hoặc giúp người khác tự sát”. Theo quy định này thì người xúi giục hoặc giúp người khác tự sát là có tội, nhưng người trực tiếp gây ra tội (tự sát) lại không phải chịu trách nhiệm pháp lý nào???? 3/ Kết luận: Từ những luận điểm trên ta có thể thấy, rõ ràng pháp luật Việt Nam không cho phép một người có “quyền được chết” để chấm dứt cuộc sống của mình, cũng như dựa vào những hậu quả tiêu cực của việc tự sát đối với bản thân người tự sát, gia đình họ và xã hội; tại sao không hề có một hình phạt nào để răn đe những người có ý định tự sát hoặc là tự sát không thành công (vì dĩ nhiên ta không thể truy cứu trách nhiệm với người đã chết)??? Mình biết vẫn còn vô số khía cạnh để khai thác về chủ đề này, nhưng do kiến thức hạn hẹp (và để tránh viết nhiều làm "phiền mắt" người đọc ) nên mình chỉ trình bày những nội dung mình cho là tiêu biểu. Rất hy vọng nhận được sự bàn luận, góp ý sôi nổi của các anh chị, các bạn để ta có cái nhìn chi tiết, khách quan hơn về chủ đề này. Nguồn tham khảo: wikipedia, vnexpress. Best Regards!
Trường hợp nào gây tai nạn giao thông không bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Báo chí hôm nào đăng tin cũng thấy có vụ án tai nạn giao thông, không gây tử vong thì cũng gây thương tích…nhiều bạn sau khi tham gia giao thông, gây tai nạn thì lên Dân Luật hỏi rằng, trường hợp của em thế này, trường hợp thế kia có bị ở tù không?... Nỗi sợ hãi của nhiều người sau khi gây tai nạn giao thông mặc dù vô ý là có ở tù hay không. Vậy thì trường hợp nào gây tai nạn giao thông mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nói rõ ra là không bị ở tù: 1. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ nhưng gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác 2. Điều khiển phương tiện giao thông trong khi bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, hành vi của mình mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác 3. Điều khiển phương tiện giao thông khi dưới 14 tuổi mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác 4. Hết thời hiệu bị truy cứu trách nhiệm hình sự 5. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm quy định an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác mà người điều khiển đã tử vong tại nơi gây thiệt hại Căn cứ Bộ luật hình sự 1999 Còn thiếu trường hợp nào nữa không các bạn nhỉ?
Ly hôn có bị xử lý tảo hôn không ?
Câu hỏi: Chào Luật sư! Tôi xin hỏi như sau: Tôi sinh năm 1989, vợ tôi sinh năm 1995, kết hôn năm 2012. Bây giờ chúng tôi đã có 2 cháu (một trai, một gái). Tôi muốn ly hôn vợ tôi với lý do vợ tôi không chung thủy với tôi, rất hỗn láo với tôi và bố mẹ của tôi. Sự việc xảy ra cuối năm 2015. Vào tháng 11 năm 2015, vợ tôi đi qua đêm và uống rượu bia, ca hát với người khác (trai với gái) không về, không gọi điện về cho tôi và gia đình và lần đấy tôi đã đánh vợ tôi (không thể chịu nổi). Sau đó 3, 4 lần vợ tôi lại tiếp tục tái diễn. Tôi đã điện lên cho nhà bố mẹ vợ tình hình như thế. Quá tam ba bận tôi đã tha thứ vì không muốn tan nát hạnh phúc. Tôi nhu nhược quá phải không. Đến gần đây nhất tháng 5 năm 2016 vợ tôi bỏ về nhà mẹ đẻ của vợ tôi, sau đó đi làm gái tại quán hát cho nhau nghe. Tôi muốn hỏi Luật sư: Ra Tòa tôi bị chịu án Tảo hôn không? Có bị đền bù gì cho vợ tôi không? Vợ tôi muốn tôi đền bù cho vợ tôi. Án phí như thế nào khi tôi viết đơn? Nếu tôi bị kiện bạo hành sẽ bị xử ra sao? Xin cảm ơn Luật sư. Luật sư tư vấn: Về vấn đề tảo hôn Vì bạn không nói rõ ngày sinh của vợ và ngày kết hôn nên rất khó để xác định lúc đó vợ bạn đã đủ tuổi kết hôn hay chưa. Bạn kết hôn vào năm 2012, lúc đó Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đang có hiệu lực, theo quy định thì nữ từ 18 tuổi trở lên sẽ có quyền kết hôn. Từ 18 tuổi được hiểu là đủ 17 tuổi và một ngày. Vì vậy nếu hai bạn kết hôn sau ngày sinh nhật của vợ bạn thì lúc đó vợ bạn đã đủ tuổi kết hôn. Ngược lại, trường hợp các bạn kết hôn trước ngày sinh nhật vợ thì sẽ là tảo hôn. Trong trường hợp tảo hôn thì lúc các bạn kết hôn sẽ chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vì vợ bạn chưa đủ tuổi kết hôn. Nhưng bạn đã có 2 con chung, vậy chắc sau đó 2 bạn đã đi đăng ký kết hôn để còn làm Giấy khai sinh cho con đúng không? Vì bạn không nói rõ đã đăng ký kết hôn chưa nên tôi sẽ tư vấn trong trường hợp các bạn đã có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Còn trong trường hợp các bạn không đăng ký kết hôn thì các bạn sẽ không cần phải tiến hành thủ tục ly hôn. Nay cuộc sống gia đình rạn nứt và bạn muốn ly hôn thì phải nộp đơn ra Tòa án để được giải quyết ly hôn. Về nguyên tắc, thủ tục ly hôn sẽ được áp dụng theo pháp luật hiện hành là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Khoản 2 Điều 11 – Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về Xử lý kết hôn trái pháp luật như sau: Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy, khi bạn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nếu Tòa án xử lý trường hợp của bạn là kết hôn trái pháp luật, nếu các bạn có yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa sẽ công nhận quan hệ hôn nhân đó và xử ly hôn như bình thường (Vì lúc này vợ bạn đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật). Vấn đề đền bù cho vợ Ngoại trừ trách nhiệm về các khoản nợ chung và trách nhiệm đối với con cái thì bạn không có trách nhiệm phải đền bù cho vợ bạn những thứ khác như tuổi thanh xuân… Về án phí Án phí ly hôn theo quy định tại Pháp lệnh số 10/2009 về lệ phí, án phí là 200.000 đồng nếu không có tranh chấp về tài sản chung, do người nộp đơn nộp. Trường hợp có tranh chấp về tài sản chung thì án phí được tính theo ngạch (tỉ lệ theo giá trị tài sản tranh chấp). Về hành vi bạo hành Theo như bạn nói thì bạn chỉ đánh vợ một lần duy nhất đó, hay sau này mỗi lần vợ bạn “hư” là bạn lại đánh? Đánh bằng tay hay có vũ khí? Có gây thương tích gì không? Cho dù là như thế nào bạn cũng cần ngay lập tức dừng lại các hành động xâm phạm đến thân thể, sức khỏe đối với vợ. Theo quy định tại Điều 42 – Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình thì: “Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.” Nghị định số 110/2009/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chồng bạo lực gia đình thì: Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trước hết sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu hành vi có tính chất nghiêm trọng, vi phạm các quy định của luật hình sự thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự./.
Truy cứu trách nhiệm hình sự theo ý chí của nạn nhân
Trách nhiệm hình sự là quan hệ phát sinh giữa Nhà Nước với người thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trong một số trường việc người phạm tội có bị xử lý hay không lại do người bị hại quyết định Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất mà Nhà Nước áp dụng với những người thực hiện tội phạm khi họ xâm phạm tới những quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ. Việc gánh chịu các trách nhiệm hình sự không chỉ để trừng trị người thực hiện tội phạm mà còn để răn đe những người khác. Đồng thời mục đích giáo dục là không thể thiếu. Quan hệ giữa người thực hiện tội phạm và Nhà Nước phát sinh ngay khi người này thực hiện tội phạm. Thông qua hệ thống cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền Nhà Nước thực thi quyền lực của mình. Nhằm đưa các quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, bảo vệ những giá trị tốt đẹp của đất nước. Về mặt nguyên tắc, khi một pháp nhân hay cá nhân thực hiện tội phạm thì Nhà Nước có trách nhiệm xử lý theo đúng quy định để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Nhưng có một số trường hợp, việc phát sinh mối quan hệ pháp luật hình sự lại do người bị hại quyết định. Căn cứ Điều 155 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015, việc có khởi tố vụ án hình sự hay không sẽ phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện của người bị hại dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hoặc đã chết trong các trường hợp thuộc khoản 1 Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156, 226 của Bộ Luật Hình Sự 2015. Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại thuộc các trường hợp về tội xâm phạm sức khỏe, danh dự của nạn nhân. Và mức độ của hành vi là không quá nguy hiểm cho xã hội vì quy định này chỉ áp dụng cho các hành vi thuộc khoản 1, không có cấu thành tăng nặng. Trong trường hợp đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, người này vẫn được quyền rút đơn yêu cầu. Và vụ án phải được đình chỉ. Trừ trường hợp việc rút yêu cầu là trái ý muốn của họ do bị cưỡng ép, đe dọa thì cơ quan có thẩm quyền vẫn có quyền tiếp tục giải quyết vụ án. Lưu ý rằng, một khi người bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu thì họ không có quyền yêu cầu lại trừ trường hợp bị ép buộc, cưỡng bức. Tuy nhiên, trong một trường hợp thực tế nếu người bị hại do lừa dối mà rút đơn khởi kiện thì sẽ ra sao? Quy định của pháp luật chĩ công nhận hai trường hợp "cưỡng ép, đe dọa". Liệu đây có là một thiếu sót của Bộ Luật Tố tụng mới. Không ít các trường hợp trên thực tế, gia đình của nạn nhân bị hiếp dâm vì tin lời nhà trai sẽ cưới mà rút đơn yêu cầu. Nhưng khi rút xong thì nhà trai "quất ngựa truy phong". Do đó, để đảm bảo quyền lợi của mình hy vọng mọi người cẩn trọng, suy nghĩ kỹ trước khi làm việc gì. Minh Trang