Doanh nghiệp muốn kinh doanh nhận chuyển rút tiền có cần điều kiện gì không?
Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là gì? Doanh nghiệp muốn kinh doanh nhận chuyển rút tiền có cần điều kiện gì không? Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là gì? Tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định: Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là tổ chức không phải là ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Doanh nghiệp muốn kinh doanh nhận chuyển rút tiền có cần điều kiện gì không? Tại Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định về Điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán như sau: -Tổ chức không phải là ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán khi đáp ứng đầy đủ và phải đảm bảo duy trì đủ các điều kiện sau đây trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cụ thể như sau: + Có giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành trong quá trình đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trường hợp cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, tổ chức phải đảm bảo không kinh doanh ngành nghề khác ngoài hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; + Có vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu: 50 tỷ đồng đối với dịch vụ ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ cổng thanh toán điện tử; 300 tỷ đồng đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, dịch vụ bù trừ điện tử; chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn đã góp hoặc vốn được cấp; + Có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt theo Mẫu số 08 ban hành kèm theo Nghị định này; + Điều kiện về nhân sự: Người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức phải có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin và có ít nhất 05 năm kinh nghiệm là người quản lý, người điều hành của tổ chức trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và không thuộc những đối tượng bị cấm theo quy định của pháp luật; phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam (Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền). Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (gồm Trưởng phòng (ban) hoặc tương đương và các cán bộ kỹ thuật) có bằng cao đẳng trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin hoặc lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm; + Có Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật phục vụ cho hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đề nghị cấp Giấy phép được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 theo quy định của pháp luật; + Đối với dịch vụ ví điện tử và dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ cho các khách hàng có tài khoản tại nhiều ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ phải được một tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử được Ngân hàng Nhà nước cấp phép để thực hiện chuyển mạch giao dịch tài chính và xử lý bù trừ các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức; + Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d và điểm đ khoản 2 Điều này, tổ chức cung ứng dịch vụ phải: ++Được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; ++Có thỏa thuận kết nối với ít nhất 50 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tổng vốn điều lệ trong năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chiếm trên 65% tổng vốn điều lệ của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong hệ thống các tổ chức tín dụng và ít nhất 20 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; ++Có cơ sở hạ tầng thông tin đáp ứng tối thiểu theo yêu cầu về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 4 theo quy định của pháp luật, đảm bảo khả năng tích hợp, kết nối được với hệ thống kỹ thuật của tổ chức tham gia có thỏa thuận kết nối; ++Có hệ thống máy chủ thực hiện theo quy định pháp luật và đáp ứng năng lực xử lý tối thiểu 10 triệu giao dịch thanh toán/ngày; Tổ chức tham gia không được kết nối quá 02 tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử; - Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán chuyển mạch tài chính còn hiệu lực; được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; có quy định nội bộ về tiêu chuẩn lựa chọn kết nối các hệ thống thanh toán quốc tế để thực hiện chuyển mạch tài chính các giao dịch thanh toán quốc tế; có quy định nội bộ về quy trình nghiệp vụ kỹ thuật đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế đề nghị cấp phép và tổ chức vận hành hệ thống thanh toán quốc tế kết nối với tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế phải được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài. Như vậy, doanh nghiệp kinh doanh cung ứng dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử phải đáp ứng điều kiện nêu trên.
Quy trình cấp, thu hồi và cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
Dịch vụ trung gian thanh toán là Dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử và Dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán và Các dịch vụ trung gian thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một ngành dịch vụ có điều kiện khi tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định pháp luật, cụ thể khi hoạt động yêu cầu phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Căn cứ quy định tại Điều 16 Nghị định 101/2012/NĐ-CP về Quy trình, thủ tục, hồ sơ cấp, thu hồi và cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Quy trình, thủ tục cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Tổ chức xin cấp Giấy phép gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép (bao gồm 05 bộ) qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tới Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều này. Tổ chức xin cấp Giấy phép phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các thông tin cung cấp; - Căn cứ vào hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép, Ngân hàng Nhà nước tiến hành kiểm tra hồ sơ theo các điều kiện quy định; - Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ thẩm định và cấp Giấy phép hoặc có văn bản từ chối cấp phép trong đó nêu rõ lý do; - Tổ chức được cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Đơn đề nghị cấp Giấy phép theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định; - Biên bản hoặc Nghị quyết họp Hội đồng thành viên, Hội đồng Quản trị (hoặc Đại hội cổ đông phù hợp với quy định tại Điều lệ hoạt động của tổ chức) thông qua Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật và Biên bản nghiệm thu thử nghiệm kỹ thuật với một tổ chức hợp tác; - Hồ sơ về nhân sự: sơ yếu lý lịch, bản sao chứng thực các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của những người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Giấy phép thành lập hoặc đăng ký kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, Điều lệ tổ chức và hoạt động của tổ chức (bản sao chứng thực). Thời hạn của Giấy phép là 10 năm tính từ ngày tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép. Thu hồi Giấy phép - Tổ chức được cấp phép sẽ bị thu hồi Giấy phép và phải chấm dứt hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đối với một trong các trường hợp sau: Trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày được cấp Giấy phép, tổ chức đó không tiến hành triển khai hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp phép mà không có lý do chính đáng; trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước có văn bản thông báo cho tổ chức có vi phạm một trong các điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 15 Nghị định này và phải thực hiện các biện pháp khắc phục nhưng tổ chức không khắc phục được; tổ chức bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật liên quan. - Quy trình, thủ tục thu hồi Giấy phép: + Khi tổ chức được cấp phép vi phạm một trong các trường hợp nêu tại điểm a, khoản 4 Điều này, Ngân hàng Nhà nước sẽ có văn bản gửi tổ chức được cấp phép thông báo về việc thu hồi Giấy phép và thông báo lý do thu hồi Giấy phép. Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố công khai về việc thu hồi Giấy phép của tổ chức đó trên trang tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước. + Ngay khi nhận được thông báo bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước về việc thu hồi Giấy phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tổ chức bị thu hồi Giấy phép phải lập tức ngừng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. + Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức bị thu hồi Giấy phép phải gửi thông báo bằng văn bản tới các tổ chức và cá nhân liên quan để thanh lý hợp đồng và hoàn tất các nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các bên. Như vậy, Quy trình, thủ tục cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện theo quy định trên.
NHNN đề xuất các nguyên tắc đảm bảo an toàn, bảo mật dịch vụ Online Banking
Hiện nay Chính phủ đang lấy ý kiến Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng dự kiến thay thế Thông tư 35/2016/TT-NHNN và Thông tư 35/2018/TT-NHNN. Xem toàn văn Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Dự thảo lần 1): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/22/du-thao-tt-thay-the-tt-35.docx Thay thế Internet Banking thành Online Banking Theo Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Dự thảo lần 1) sẽ không còn khái niệm Internet Banking mà được thay thế thành Online Banking, cụ thể tại Điều 2 Dự thảo lần 1 như sau: Dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (gọi tắt là dịch vụ Online Banking) là dịch vụ quy định sau đây được các đơn vị cung cấp cho khách hàng trên môi trường mạng: - Hoạt động ngân hàng (Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản); - Dịch vụ trung gian thanh toán; - Dịch vụ thông tin tín dụng; - Các hoạt động kinh doanh khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận; - Các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, so với quy định hiện hành tại Thông tư 35/2016/TT-NHNN và Thông tư 35/2018/TT-NHNN chỉ quy định dịch vụ ngân hàng trên Internet (Internet Banking) là các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ trung gian thanh toán được các đơn vị cung cấp thông qua mạng Internet, Dự thảo lần 1 đã chỉnh sửa để có khái niệm tổng quát Online Banking bao gồm các dịch vụ của ngành Ngân hàng qua mạng (bao gồm mạng Internet, mạng viễn thông, mạng. NHNN đề xuất các nguyên tắc đảm bảo an toàn, bảo mật dịch vụ Online Banking Theo Điều 3 Dự thảo lần 1 đã quy định các nguyên tắc chung về đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin cho việc cung cấp dịch vụ Online Banking như sau: - Hệ thống Online Banking phải tuân thủ theo quy định về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 trở lên theo quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ và quy định của Ngân hàng Nhà nước về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng. - Đảm bảo tính bí mật, tính toàn vẹn của thông tin khách hàng; đảm bảo tính sẵn sàng của hệ thống Online Banking để cung cấp dịch vụ một cách liên tục. - Các giao dịch của khách hàng được đánh giá mức độ rủi ro tối thiểu theo từng nhóm khách hàng, loại giao dịch, hạn mức giao dịch (nếu có) và trên cơ sở đó cung cấp hình thức xác thực giao dịch phù hợp cho khách hàng lựa chọn, tuân thủ các quy định sau: + Áp dụng xác thực đa yếu tố khi thay đổi thông tin định danh khách hàng; + Áp dụng các hình thức xác thực cho từng nhóm khách hàng, loại giao dịch, hạn mức giao dịch theo quy định tại Thông tư này; + Đối với giao dịch gồm nhiều bước, phải áp dụng tối thiểu biện pháp xác thực tại bước phê duyệt cuối cùng. - Thực hiện kiểm tra, đánh giá an ninh, bảo mật hệ thống Online Banking theo định kỳ hàng năm. - Thường xuyên nhận dạng rủi ro, nguy cơ gây ra rủi ro và xác định nguyên nhân gây ra rủi ro, kịp thời có biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và xử lý rủi ro trong cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet. - Các trang thiết bị hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin cung cấp dịch vụ Online Banking phải có bản quyền, nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Với các trang thiết bị sắp hết vòng đời sản phẩm và sẽ không được nhà sản xuất tiếp tục hỗ trợ, đơn vị phải có kế hoạch nâng cấp, thay thế theo thông báo của nhà sản xuất, bảo đảm các trang thiết bị hạ tầng có khả năng cài đặt phiên bản phần mềm mới. Theo đó, Dự thảo lần 1 đã quy định các nguyên tắc đảm bảo an toàn, bảo mật dịch vụ Online Banking. Đồng thời đã bỏ khái niệm hệ thống thông tin quan trọng theo quy định hiện hành mà thay bằng hệ thống thông tin theo cấp độ để phù hợp với quy định tại Thông tư 09/2020/TT-NHNN. Đề xuất quy định về hệ thống mạng, truyền thông và an ninh bảo mật Theo Điều 4 Dự thảo lần 1, đơn vị phải thiết lập hệ thống mạng, truyền thông và an ninh bảo mật đạt yêu cầu tối thiểu sau: - Có các giải pháp an ninh bảo mật tối thiểu gồm: + Tường lửa ứng dụng; + Tường lửa cơ sở dữ liệu; + Hệ thống giám sát, cảnh báo tập trung đối với các hành vi tấn công hoặc hành vi bất thường. - Thông tin khách hàng không được lưu trữ tại phân vùng kết nối Internet và phân vùng DMZ (phân vùng trung gian giữa mạng nội bộ và mạng Internet). - Thiết lập chính sách hạn chế tối đa các dịch vụ, cổng kết nối vào hệ thống Online Banking. - Kết nối từ bên ngoài mạng nội bộ vào hệ thống Online Banking để quản trị chỉ được thực hiện trong trường hợp không thể kết nối từ mạng nội bộ và bảo đảm an toàn, tuân thủ tối thiểu các quy định sau: + Phải được người có thẩm quyền phê duyệt sau khi xem xét mục đích, cách thức kết nối; + Phải có phương án quản lý truy cập, quản trị hệ thống từ xa an toàn như sử dụng mạng riêng ảo hoặc phương án tương đương; + Thiết bị kết nối phải được cài đặt các phần mềm bảo đảm an ninh bảo mật; phải sử dụng biện pháp xác thực đa yếu tố khi đăng nhập hệ thống; + Sử dụng giao thức truyền thông được mã hóa an toàn và không lưu mã khóa bí mật tại các phần mềm tiện ích. - Đường truyền kết nối mạng cung cấp dịch vụ phải bảo đảm tính sẵn sàng cao và khả năng cung cấp dịch vụ liên tục. Như vậy, so với quy định hiện hành tại Thông tư 35/2016/TT-NHNN và Thông tư 35/2018/TT-NHNN, Dự thảo lần 1 đã lược bỏ những quy định trùng với Thông tư 09/2020/TT-NHNN. Ngoài ra, quy định mới đã bổ sung một số giải pháp tăng cường như: Tường lửa cơ sở dữ liệu; Hệ thống giám sát, cảnh báo tập trung đối với các hành vi tấn công hoặc hành vi bất thường… Xem toàn văn Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Dự thảo lần 1): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/22/du-thao-tt-thay-the-tt-35.docx
Các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ từ 01/7/2024
Ngày 15/5/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt, theo đó các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ như sau: Các dịch vụ trung gian thanh toán Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP, dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm: - Dịch vụ chuyển mạch tài chính - Dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế - Dịch vụ bù trừ điện tử - Dịch vụ ví điện tử - Dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ - Dịch vụ cổng thanh toán điện tử Hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP, tổ chức không phải là ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán khi đáp ứng đầy đủ và phải đảm bảo duy trì đủ các điều kiện sau đây trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cụ thể như sau: - Có giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành trong quá trình đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trường hợp cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, tổ chức phải đảm bảo không kinh doanh ngành nghề khác ngoài hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Có vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu: 50 tỷ đồng đối với dịch vụ ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ cổng thanh toán điện tử; 300 tỷ đồng đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, dịch vụ bù trừ điện tử; chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn đã góp hoặc vốn được cấp; - Có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt theo Mẫu số 08 ban hành kèm theo Nghị định này; - Điều kiện về nhân sự: Người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức phải có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin và có ít nhất 05 năm kinh nghiệm là người quản lý, người điều hành của tổ chức trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và không thuộc những đối tượng bị cấm theo quy định của pháp luật; phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam (Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền). Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (gồm Trưởng phòng (ban) hoặc tương đương và các cán bộ kỹ thuật) có bằng cao đẳng trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin hoặc lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm; - Có Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật phục vụ cho hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đề nghị cấp Giấy phép được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 theo quy định của pháp luật; - Đối với dịch vụ ví điện tử và dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ cho các khách hàng có tài khoản tại nhiều ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ phải được một tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử được Ngân hàng Nhà nước cấp phép để thực hiện chuyển mạch giao dịch tài chính và xử lý bù trừ các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức; - Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d và điểm đ khoản 2 Điều này, tổ chức cung ứng dịch vụ phải: được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; có thỏa thuận kết nối với ít nhất 50 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tổng vốn điều lệ trong năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chiếm trên 65% tổng vốn điều lệ của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong hệ thống các tổ chức tín dụng và ít nhất 20 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; có cơ sở hạ tầng thông tin đáp ứng tối thiểu theo yêu cầu về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 4 theo quy định của pháp luật, đảm bảo khả năng tích hợp, kết nối được với hệ thống kỹ thuật của tổ chức tham gia có thỏa thuận kết nối; có hệ thống máy chủ thực hiện theo quy định pháp luật và đáp ứng năng lực xử lý tối thiểu 10 triệu giao dịch thanh toán/ngày; Tổ chức tham gia không được kết nối quá 02 tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử; - Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán chuyển mạch tài chính còn hiệu lực; được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; có quy định nội bộ về tiêu chuẩn lựa chọn kết nối các hệ thống thanh toán quốc tế để thực hiện chuyển mạch tài chính các giao dịch thanh toán quốc tế; có quy định nội bộ về quy trình nghiệp vụ kỹ thuật đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế đề nghị cấp phép và tổ chức vận hành hệ thống thanh toán quốc tế kết nối với tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế phải được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài. Như vậy, các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ được quy định tại Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
Quy định cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
Ngày 15/05/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Theo đó quy định cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. (1) Quy định cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Theo Điều 25 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, như sau: Ngân hàng Nhà nước cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong các trường hợp sau: - Hết thời hạn Giấy phép Tối thiểu 60 ngày trước ngày hết thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải gửi Hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép cho Ngân hàng Nhà nước. Trường hợp hồ sơ được gửi qua đường bưu điện (dịch vụ bưu chính) hoặc nộp trực tiếp tới Bộ phận Một cửa Ngân hàng Nhà nước, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gửi 03 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép gồm: đơn đề nghị cấp lại Giấy phép theo Mẫu số 11 ban hành kèm theo Nghị định này, báo cáo tình hình thực hiện hoạt động theo Giấy phép kể từ ngày được cấp Giấy phép đến ngày nộp đơn đề nghị cấp lại Giấy phép và bản sao Giấy phép đang có hiệu lực tới Ngân hàng Nhà nước. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép của tổ chức, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét cấp lại Giấy phép hoặc có văn bản thông báo từ chối trong đó nêu rõ lý do; Thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép là 10 năm tính từ ngày tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp lại Giấy phép. - Giấy phép bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị hủy dưới hình thức khác Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gửi đơn đề nghị cấp lại Giấy phép theo Mẫu số 11 ban hành kèm theo Nghị định này trong đó nêu rõ lý do. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị cấp lại Giấy phép của tổ chức, Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp lại Giấy phép hoặc có văn bản thông báo từ chối trong đó nêu rõ lý do; Thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép được giữ nguyên như thời hạn hoạt động trên Giấy phép đã bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị hủy dưới hình thức khác. (2) Quy định sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Theo Điều 26 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, như sau: - Trường hợp thay đổi một trong các nội dung quy định trong Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán sau: tên tổ chức, địa điểm đặt trụ sở chính, ngừng cung cấp một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán đã được cấp phép, kết nối thêm hệ thống thanh toán quốc tế của tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế: + Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gửi 01 bộ hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép gồm: đơn đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán theo Mẫu số 12 ban hành kèm theo Nghị định này; bản sao Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán còn hiệu lực; bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã thay đổi tên doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (nếu có); báo cáo tình hình thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán kể từ ngày được cấp Giấy phép đến ngày nộp hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Trường hợp đề nghị kết nối thêm hệ thống thanh toán quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế bổ sung thêm các tài liệu quy định tại điểm i khoản 2 Điều 24 Nghị định này; + Ngân hàng Nhà nước tiếp nhận và xét tính hợp lệ của hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ và quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp từ chối sửa đổi, bổ sung Giấy phép, Ngân hàng Nhà nước có văn bản trả lời tổ chức trong đó nêu rõ lý do; + Thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép sửa đổi, bổ sung không vượt quá thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; + Đối với dịch vụ trung gian thanh toán đề nghị ngừng cung cấp, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải ngừng cung cấp dịch vụ sau khi Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung Giấy phép và trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung Giấy phép, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải gửi thông báo bằng văn bản tới các tổ chức và cá nhân liên quan để thanh lý hợp đồng và hoàn tất các nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các bên liên quan theo quy định của pháp luật. - Trường hợp thay đổi một trong các nội dung sau: người đại diện theo pháp luật, thay đổi vốn điều lệ, thay đổi tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của chủ sở hữu; thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp, trong thời hạn hiệu lực của Giấy phép, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải làm thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép nhưng phải gửi thông báo cho Ngân hàng Nhà nước bằng văn bản và tài liệu chứng minh các thông tin liên quan (nếu có) trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có các thay đổi nêu trên. Như vậy quy định cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được quy định tại Điều 25, 26 Nghị định 52/2024/NĐ-CP có hiệu lực ngày 01/07/2024.
Từ tháng 01/2023, thí điểm nộp thuế điện tử đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu
Tổng cục hải quan ban hành Quyết định 101/QĐ-TCHQ về việc phê duyệt đề án “thí điểm nộp thuế điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán” Theo đó, Đề án này nhằm giúp người nộp thuế tiếp tục được đơn giản hóa thủ tục nộp thuế, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp, mở thêm kênh thanh toán cho người nộp thuế. Ngoài ra, người nộp thuế có thể chủ động nộp tiền tại bất kỳ nơi nào có internet, vào mọi lúc, mọi nơi, mọi phương tiện. Nộp tiền vào ngân sách nhà nước không phụ thuộc vào thời gian, địa điểm như Kho bạc Nhà nước, các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, còn tránh được sự sai sót các chỉ tiêu thông tin trong việc lập giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước, thống nhất với dữ liệu gốc của hải quan, đảm bảo trừ nợ chính xác, đảm bảo thông quan hàng hóa ngay sau khi nộp thuế. Nộp thuế điện tử đối với đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mang lại những lợi ích sau: Đối với cơ quan quản lý - Tiết kiệm nhân lực, đảm bảo an toàn trong công tác quản lý, đơn giản quy trình thu nộp thuế. - Đảm bảo trừ nợ chính xác khoản nợ thuế kịp thời ngay sau khi người nộp thuế (bao gồm cả tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu) nộp thuế, phí, lệ phí, xử lý thông quan/ giải phóng hàng nhanh chóng, hỗ trợ cá nhân xuất cảnh, nhập cảnh khi phát sinh khoản phải nộp được thực hiện nhanh chóng, chính xác không cần phải có tài khoản tại ngân hàng phối hợp thu. - Hạn chế tối đa phải điều chỉnh chứng từ nộp tiền còn sai sót thông tin - Tăng mức độ hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư quốc tế, cá nhân khi xuất cảnh, nhập cảnh vào Việt Nam. Đối với Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán cho các khách hàng. - Thu hút thêm khách hàng tiềm năng. - Gia tăng kết nối của tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán với các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thanh toán điện tử. Đối với ngân hàng thương mại - Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán cho các khách hàng. - Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Đề án không dùng tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước về tăng cường kết nối với các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. - Kênh thanh toán mới hỗ trợ người nộp thuế, ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong cung cấp dịch vụ cho người nộp thuế. Đối tượng nào sẽ tham gia đề án? - Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tham gia thí điểm - Ngân hàng thương mại đã phối hợp thu với Tổng cục Hải quan - Người nộp thuế thực hiện nộp ngân sách nhà nước qua tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Cơ quan hải quan có các khoản thu ngân sách nhà nước nộp qua tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Thời gian thực hiện Đề án: từ tháng 01 đến tháng 12/2023. Xem chi tiết tại Quyết định 101/QĐ-TCHQ được ban hành ngày 18/02/2023.
Paypal và những hệ lụy bạn có thể chưa biết!
Paypal và những hệ lụy Paypal hay một số dịch vụ thanh toán được gọi là “cổng thanh toán quốc tế” đã hoạt động ở Việt Nam không dưới 10 năm. Tuy nhiên, sự phổ biến của phương thức giao dịch này lại không tỷ lệ thuận với độ an toàn của nó và thậm chí Nhà nước vẫn đang từng bước thắt chặt quản lý. Bài viết này sẽ phân tích 2 rủi ro lớn nhất khi sử các dịch vụ thanh toán quốc tế này! 1. Paypal chưa được cấp phép ở Việt Nam Hiện tại, theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức không phải là ngân hàng xin cấp Giấy phép thực hiện một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán phải đáp ứng một số điều kiện quy định tại Nghị định 101/2012/NĐ-CP. Trong các quy định này, Điểm a Khoản 2 Điều 15 Nghị định 101 nêu rõ: “Các tổ chức không phải là ngân hàng muốn cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải đảm bảo đáp ứng đủ các điều kiện sau: a) Có giấy phép thành lập hoặc đăng ký kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, trong đó hoạt dộng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là một trong các hoạt động kinh doanh chính của tổ chức; …” Thực tế, Paypal chưa được cấp phép thành lập và điều đó có nghĩa họ không được phép thực hiện dịch vụ trung gian thanh toán theo pháp luật Việt Nam. Như vậy có thể hiểu, nếu có tranh chấp, khiếu nại đối với các chính sách hoặc rủi ro phát sinh trong khi sử dụng dịch vụ này, bạn sẽ không được pháp luật hỗ trợ. Đồng thời, việc hoạt động của tổ chức này thực tế vẫn chưa có khung pháp lý để xử phạt hành chính hoặc quy trách nhiệm hình sự. 2. Rửa tiền, trốn thuế và các hoạt động lừa đảo thông qua Paypal Theo Nghị định 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, "tổ chức, cá nhân khác" liên quan đến phòng, chống rửa tiền, bao gồm cả "tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán." Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, Paypal không nằm trong nhóm đối tượng cung ứng dịch vụ được Nhà nước quản lý, chính vì vậy hoạt động rửa tiền xảy ra trên nền tảng này là vô cùng khó kiểm soát. Cơ chế hoạt động của Paypal dễ dàng giúp các chủ tài khoản giao dịch mà không tuân thủ theo quy định của NHNN về các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử hay các quy định của pháp luật hiện hành về phòng, chống rửa tiền và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Thêm vào đó, hiện nay Thông tư 32/2013/TT-NHNN (sửa đổi bởi Thông tư 16/2015/TT-NHNN và Thông tư 03/2019/TT-NHNN) có quy định những trường hợp được phép sử dụng, kinh doanh ngoại tệ, và đương nhiên nhiên các hình thức chuyển đổi ngoại tệ thực hiện qua Paypal hoàn toàn không được quản lý! Điều này trực tiếp gây thất thoát thuế của Nhà nước và cũng góp phần tiếp tay cho các tội phạm rửa tiền. Chính vì còn nhiều kẽ hở, đã có nhiều vụ lừa đảo xảy ra khi giao dịch qua Paypal. Người mua hàng đồng ý chuyển tiền trước, nhưng nếu không có người trung gian đứng ra “bảo lãnh”, các giao dịch hoàn toàn có thể bị “lật kèo” vào phút chót và thật khó để người bị hại có thể tố cáo, kiện tụng đòi quyền lợi cho mình (bởi lẽ pháp luật không công nhận những hình thức giao dịch này!). Trên Cổng thông tin điện tử của của Chính phủ, có thông tin Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông kiểm tra vấn đề trên nghiên cứu sớm có biện pháp quản lý tình trạng giao dịch tài chính bất hợp pháp, trốn thuế qua các cổng thanh toán quốc tế hoạt động trái pháp luật. Như vậy, dạo qua một vòng Internet, chúng ta có thể thấy những lợi ích có thật từ Paypal, tuy nhiên rủi ro từ việc sử dụng nó là không hề nhỏ, để bảo vệ quyền lợi của mình, tốt hơn hết người dân nên cẩn trọng, tuân thủ pháp luật khi giao dịch qua trung gian thanh toán!
07 điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
Ngày nay với sự phát triển của xã hội và khoa học công nghệ. Chúng ta đã dần quen với việc thanh toán các chi phí (tiền điện, tiền nước, thuê bao điện thoại, cước viễn thông,...), mua vé xem phim, mua đồ ăn, thức uống mà chỉ cần ngồi tại nhà. Các dịch vụ trung gian mà chúng ta đã rất quen thuộc có thể kể đến hiện nay như ví điện tử Momo, Zalopay, Vnpay, Airpay, các địa điểm hỗ trợ thu hộ, chi hộ. Ngân hàng là các tổ chức được cấp phép dịch vụ trung gian thanh toán. Tuy nhiên, ngoài các ngân hàng thì các tổ chức không phải là ngân hàng cũng có thể được cấp phép cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán nếu đáp ứng được các điều kiện. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về 07 điều kiện (bao gồm các điều kiện vốn điều lệ, nhân sự, kỹ thuật,...) cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức không phải là ngân hàng.
03 loại hình dịch vụ trung gian thanh toán
Ngày nay, chúng ta đã không còn xa lạ với việc các dịch vụ trung gian thanh toán đua nhau nở rộ. Chúng ta đã dễ dàng, nhanh chóng và tiện lợi hơn trong việc thanh toán các chi phí như tiền điện, tiền nước, cước viễn thông, truyền hình cáp,... tại nhà qua ứng dụng mà không cần phải đóng trực tiếp. Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể đặt hàng, đặt các món ăn, thức uống qua các ứng dụng và thanh toán tại ứng dụng đó. Ngoài ra, chúng ta có thể chuyển tiền giữa những người sử dụng cùng một ứng dụng trung gian thanh toán, chúng ta có thể mua vé xem phim, thanh toán các dịch vụ tài chính (vay tiêu dùng, bảo hiểm), mua vé tàu xe và còn rất nhiều tiện ích khác. Những tiện ích này giúp chúng ta tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí. Trong thời đại công nghệ số như hiện nay, có thể gọi đây là “ngồi tại nhà và thanh toán mọi thứ”. Sau đây, chúng ta sẽ cùng sơ lược qua 03 loại hình dịch vụ trung gian thanh toán:
Doanh nghiệp muốn kinh doanh nhận chuyển rút tiền có cần điều kiện gì không?
Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là gì? Doanh nghiệp muốn kinh doanh nhận chuyển rút tiền có cần điều kiện gì không? Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là gì? Tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định: Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là tổ chức không phải là ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Doanh nghiệp muốn kinh doanh nhận chuyển rút tiền có cần điều kiện gì không? Tại Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định về Điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán như sau: -Tổ chức không phải là ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán khi đáp ứng đầy đủ và phải đảm bảo duy trì đủ các điều kiện sau đây trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cụ thể như sau: + Có giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành trong quá trình đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trường hợp cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, tổ chức phải đảm bảo không kinh doanh ngành nghề khác ngoài hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; + Có vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu: 50 tỷ đồng đối với dịch vụ ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ cổng thanh toán điện tử; 300 tỷ đồng đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, dịch vụ bù trừ điện tử; chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn đã góp hoặc vốn được cấp; + Có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt theo Mẫu số 08 ban hành kèm theo Nghị định này; + Điều kiện về nhân sự: Người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức phải có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin và có ít nhất 05 năm kinh nghiệm là người quản lý, người điều hành của tổ chức trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và không thuộc những đối tượng bị cấm theo quy định của pháp luật; phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam (Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền). Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (gồm Trưởng phòng (ban) hoặc tương đương và các cán bộ kỹ thuật) có bằng cao đẳng trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin hoặc lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm; + Có Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật phục vụ cho hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đề nghị cấp Giấy phép được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 theo quy định của pháp luật; + Đối với dịch vụ ví điện tử và dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ cho các khách hàng có tài khoản tại nhiều ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ phải được một tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử được Ngân hàng Nhà nước cấp phép để thực hiện chuyển mạch giao dịch tài chính và xử lý bù trừ các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức; + Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d và điểm đ khoản 2 Điều này, tổ chức cung ứng dịch vụ phải: ++Được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; ++Có thỏa thuận kết nối với ít nhất 50 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tổng vốn điều lệ trong năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chiếm trên 65% tổng vốn điều lệ của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong hệ thống các tổ chức tín dụng và ít nhất 20 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; ++Có cơ sở hạ tầng thông tin đáp ứng tối thiểu theo yêu cầu về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 4 theo quy định của pháp luật, đảm bảo khả năng tích hợp, kết nối được với hệ thống kỹ thuật của tổ chức tham gia có thỏa thuận kết nối; ++Có hệ thống máy chủ thực hiện theo quy định pháp luật và đáp ứng năng lực xử lý tối thiểu 10 triệu giao dịch thanh toán/ngày; Tổ chức tham gia không được kết nối quá 02 tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử; - Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán chuyển mạch tài chính còn hiệu lực; được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; có quy định nội bộ về tiêu chuẩn lựa chọn kết nối các hệ thống thanh toán quốc tế để thực hiện chuyển mạch tài chính các giao dịch thanh toán quốc tế; có quy định nội bộ về quy trình nghiệp vụ kỹ thuật đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế đề nghị cấp phép và tổ chức vận hành hệ thống thanh toán quốc tế kết nối với tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế phải được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài. Như vậy, doanh nghiệp kinh doanh cung ứng dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử phải đáp ứng điều kiện nêu trên.
Quy trình cấp, thu hồi và cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
Dịch vụ trung gian thanh toán là Dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử và Dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán và Các dịch vụ trung gian thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một ngành dịch vụ có điều kiện khi tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định pháp luật, cụ thể khi hoạt động yêu cầu phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Căn cứ quy định tại Điều 16 Nghị định 101/2012/NĐ-CP về Quy trình, thủ tục, hồ sơ cấp, thu hồi và cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Quy trình, thủ tục cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Tổ chức xin cấp Giấy phép gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép (bao gồm 05 bộ) qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tới Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều này. Tổ chức xin cấp Giấy phép phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các thông tin cung cấp; - Căn cứ vào hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép, Ngân hàng Nhà nước tiến hành kiểm tra hồ sơ theo các điều kiện quy định; - Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ thẩm định và cấp Giấy phép hoặc có văn bản từ chối cấp phép trong đó nêu rõ lý do; - Tổ chức được cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Đơn đề nghị cấp Giấy phép theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định; - Biên bản hoặc Nghị quyết họp Hội đồng thành viên, Hội đồng Quản trị (hoặc Đại hội cổ đông phù hợp với quy định tại Điều lệ hoạt động của tổ chức) thông qua Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật và Biên bản nghiệm thu thử nghiệm kỹ thuật với một tổ chức hợp tác; - Hồ sơ về nhân sự: sơ yếu lý lịch, bản sao chứng thực các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của những người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Giấy phép thành lập hoặc đăng ký kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, Điều lệ tổ chức và hoạt động của tổ chức (bản sao chứng thực). Thời hạn của Giấy phép là 10 năm tính từ ngày tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép. Thu hồi Giấy phép - Tổ chức được cấp phép sẽ bị thu hồi Giấy phép và phải chấm dứt hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đối với một trong các trường hợp sau: Trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày được cấp Giấy phép, tổ chức đó không tiến hành triển khai hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp phép mà không có lý do chính đáng; trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước có văn bản thông báo cho tổ chức có vi phạm một trong các điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 15 Nghị định này và phải thực hiện các biện pháp khắc phục nhưng tổ chức không khắc phục được; tổ chức bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật liên quan. - Quy trình, thủ tục thu hồi Giấy phép: + Khi tổ chức được cấp phép vi phạm một trong các trường hợp nêu tại điểm a, khoản 4 Điều này, Ngân hàng Nhà nước sẽ có văn bản gửi tổ chức được cấp phép thông báo về việc thu hồi Giấy phép và thông báo lý do thu hồi Giấy phép. Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố công khai về việc thu hồi Giấy phép của tổ chức đó trên trang tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước. + Ngay khi nhận được thông báo bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước về việc thu hồi Giấy phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tổ chức bị thu hồi Giấy phép phải lập tức ngừng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. + Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức bị thu hồi Giấy phép phải gửi thông báo bằng văn bản tới các tổ chức và cá nhân liên quan để thanh lý hợp đồng và hoàn tất các nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các bên. Như vậy, Quy trình, thủ tục cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện theo quy định trên.
NHNN đề xuất các nguyên tắc đảm bảo an toàn, bảo mật dịch vụ Online Banking
Hiện nay Chính phủ đang lấy ý kiến Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng dự kiến thay thế Thông tư 35/2016/TT-NHNN và Thông tư 35/2018/TT-NHNN. Xem toàn văn Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Dự thảo lần 1): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/22/du-thao-tt-thay-the-tt-35.docx Thay thế Internet Banking thành Online Banking Theo Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Dự thảo lần 1) sẽ không còn khái niệm Internet Banking mà được thay thế thành Online Banking, cụ thể tại Điều 2 Dự thảo lần 1 như sau: Dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (gọi tắt là dịch vụ Online Banking) là dịch vụ quy định sau đây được các đơn vị cung cấp cho khách hàng trên môi trường mạng: - Hoạt động ngân hàng (Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản); - Dịch vụ trung gian thanh toán; - Dịch vụ thông tin tín dụng; - Các hoạt động kinh doanh khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận; - Các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, so với quy định hiện hành tại Thông tư 35/2016/TT-NHNN và Thông tư 35/2018/TT-NHNN chỉ quy định dịch vụ ngân hàng trên Internet (Internet Banking) là các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ trung gian thanh toán được các đơn vị cung cấp thông qua mạng Internet, Dự thảo lần 1 đã chỉnh sửa để có khái niệm tổng quát Online Banking bao gồm các dịch vụ của ngành Ngân hàng qua mạng (bao gồm mạng Internet, mạng viễn thông, mạng. NHNN đề xuất các nguyên tắc đảm bảo an toàn, bảo mật dịch vụ Online Banking Theo Điều 3 Dự thảo lần 1 đã quy định các nguyên tắc chung về đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin cho việc cung cấp dịch vụ Online Banking như sau: - Hệ thống Online Banking phải tuân thủ theo quy định về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 trở lên theo quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ và quy định của Ngân hàng Nhà nước về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng. - Đảm bảo tính bí mật, tính toàn vẹn của thông tin khách hàng; đảm bảo tính sẵn sàng của hệ thống Online Banking để cung cấp dịch vụ một cách liên tục. - Các giao dịch của khách hàng được đánh giá mức độ rủi ro tối thiểu theo từng nhóm khách hàng, loại giao dịch, hạn mức giao dịch (nếu có) và trên cơ sở đó cung cấp hình thức xác thực giao dịch phù hợp cho khách hàng lựa chọn, tuân thủ các quy định sau: + Áp dụng xác thực đa yếu tố khi thay đổi thông tin định danh khách hàng; + Áp dụng các hình thức xác thực cho từng nhóm khách hàng, loại giao dịch, hạn mức giao dịch theo quy định tại Thông tư này; + Đối với giao dịch gồm nhiều bước, phải áp dụng tối thiểu biện pháp xác thực tại bước phê duyệt cuối cùng. - Thực hiện kiểm tra, đánh giá an ninh, bảo mật hệ thống Online Banking theo định kỳ hàng năm. - Thường xuyên nhận dạng rủi ro, nguy cơ gây ra rủi ro và xác định nguyên nhân gây ra rủi ro, kịp thời có biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và xử lý rủi ro trong cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet. - Các trang thiết bị hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin cung cấp dịch vụ Online Banking phải có bản quyền, nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Với các trang thiết bị sắp hết vòng đời sản phẩm và sẽ không được nhà sản xuất tiếp tục hỗ trợ, đơn vị phải có kế hoạch nâng cấp, thay thế theo thông báo của nhà sản xuất, bảo đảm các trang thiết bị hạ tầng có khả năng cài đặt phiên bản phần mềm mới. Theo đó, Dự thảo lần 1 đã quy định các nguyên tắc đảm bảo an toàn, bảo mật dịch vụ Online Banking. Đồng thời đã bỏ khái niệm hệ thống thông tin quan trọng theo quy định hiện hành mà thay bằng hệ thống thông tin theo cấp độ để phù hợp với quy định tại Thông tư 09/2020/TT-NHNN. Đề xuất quy định về hệ thống mạng, truyền thông và an ninh bảo mật Theo Điều 4 Dự thảo lần 1, đơn vị phải thiết lập hệ thống mạng, truyền thông và an ninh bảo mật đạt yêu cầu tối thiểu sau: - Có các giải pháp an ninh bảo mật tối thiểu gồm: + Tường lửa ứng dụng; + Tường lửa cơ sở dữ liệu; + Hệ thống giám sát, cảnh báo tập trung đối với các hành vi tấn công hoặc hành vi bất thường. - Thông tin khách hàng không được lưu trữ tại phân vùng kết nối Internet và phân vùng DMZ (phân vùng trung gian giữa mạng nội bộ và mạng Internet). - Thiết lập chính sách hạn chế tối đa các dịch vụ, cổng kết nối vào hệ thống Online Banking. - Kết nối từ bên ngoài mạng nội bộ vào hệ thống Online Banking để quản trị chỉ được thực hiện trong trường hợp không thể kết nối từ mạng nội bộ và bảo đảm an toàn, tuân thủ tối thiểu các quy định sau: + Phải được người có thẩm quyền phê duyệt sau khi xem xét mục đích, cách thức kết nối; + Phải có phương án quản lý truy cập, quản trị hệ thống từ xa an toàn như sử dụng mạng riêng ảo hoặc phương án tương đương; + Thiết bị kết nối phải được cài đặt các phần mềm bảo đảm an ninh bảo mật; phải sử dụng biện pháp xác thực đa yếu tố khi đăng nhập hệ thống; + Sử dụng giao thức truyền thông được mã hóa an toàn và không lưu mã khóa bí mật tại các phần mềm tiện ích. - Đường truyền kết nối mạng cung cấp dịch vụ phải bảo đảm tính sẵn sàng cao và khả năng cung cấp dịch vụ liên tục. Như vậy, so với quy định hiện hành tại Thông tư 35/2016/TT-NHNN và Thông tư 35/2018/TT-NHNN, Dự thảo lần 1 đã lược bỏ những quy định trùng với Thông tư 09/2020/TT-NHNN. Ngoài ra, quy định mới đã bổ sung một số giải pháp tăng cường như: Tường lửa cơ sở dữ liệu; Hệ thống giám sát, cảnh báo tập trung đối với các hành vi tấn công hoặc hành vi bất thường… Xem toàn văn Dự thảo Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng (Dự thảo lần 1): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/22/du-thao-tt-thay-the-tt-35.docx
Các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ từ 01/7/2024
Ngày 15/5/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt, theo đó các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ như sau: Các dịch vụ trung gian thanh toán Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP, dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm: - Dịch vụ chuyển mạch tài chính - Dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế - Dịch vụ bù trừ điện tử - Dịch vụ ví điện tử - Dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ - Dịch vụ cổng thanh toán điện tử Hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP, tổ chức không phải là ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán khi đáp ứng đầy đủ và phải đảm bảo duy trì đủ các điều kiện sau đây trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cụ thể như sau: - Có giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và không đang trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản theo quyết định đã được ban hành trong quá trình đề nghị cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trường hợp cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, tổ chức phải đảm bảo không kinh doanh ngành nghề khác ngoài hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; - Có vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu: 50 tỷ đồng đối với dịch vụ ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ cổng thanh toán điện tử; 300 tỷ đồng đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, dịch vụ bù trừ điện tử; chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn đã góp hoặc vốn được cấp; - Có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt theo Mẫu số 08 ban hành kèm theo Nghị định này; - Điều kiện về nhân sự: Người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức phải có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin và có ít nhất 05 năm kinh nghiệm là người quản lý, người điều hành của tổ chức trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và không thuộc những đối tượng bị cấm theo quy định của pháp luật; phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam (Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền). Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) và các cán bộ chủ chốt thực hiện Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (gồm Trưởng phòng (ban) hoặc tương đương và các cán bộ kỹ thuật) có bằng cao đẳng trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin hoặc lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm; - Có Bản thuyết minh giải pháp kỹ thuật phục vụ cho hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đề nghị cấp Giấy phép được cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều lệ của tổ chức phê duyệt đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 theo quy định của pháp luật; - Đối với dịch vụ ví điện tử và dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ cho các khách hàng có tài khoản tại nhiều ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ phải được một tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử được Ngân hàng Nhà nước cấp phép để thực hiện chuyển mạch giao dịch tài chính và xử lý bù trừ các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức; - Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d và điểm đ khoản 2 Điều này, tổ chức cung ứng dịch vụ phải: được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; có thỏa thuận kết nối với ít nhất 50 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tổng vốn điều lệ trong năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chiếm trên 65% tổng vốn điều lệ của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong hệ thống các tổ chức tín dụng và ít nhất 20 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; có cơ sở hạ tầng thông tin đáp ứng tối thiểu theo yêu cầu về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 4 theo quy định của pháp luật, đảm bảo khả năng tích hợp, kết nối được với hệ thống kỹ thuật của tổ chức tham gia có thỏa thuận kết nối; có hệ thống máy chủ thực hiện theo quy định pháp luật và đáp ứng năng lực xử lý tối thiểu 10 triệu giao dịch thanh toán/ngày; Tổ chức tham gia không được kết nối quá 02 tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử; - Đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ phải có Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán chuyển mạch tài chính còn hiệu lực; được một tổ chức thực hiện quyết toán kết quả bù trừ giữa các bên liên quan; có quy định nội bộ về tiêu chuẩn lựa chọn kết nối các hệ thống thanh toán quốc tế để thực hiện chuyển mạch tài chính các giao dịch thanh toán quốc tế; có quy định nội bộ về quy trình nghiệp vụ kỹ thuật đối với dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế đề nghị cấp phép và tổ chức vận hành hệ thống thanh toán quốc tế kết nối với tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế phải được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài. Như vậy, các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ được quy định tại Điều 22 Nghị định 52/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
Quy định cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
Ngày 15/05/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Theo đó quy định cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. (1) Quy định cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Theo Điều 25 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, như sau: Ngân hàng Nhà nước cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong các trường hợp sau: - Hết thời hạn Giấy phép Tối thiểu 60 ngày trước ngày hết thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải gửi Hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép cho Ngân hàng Nhà nước. Trường hợp hồ sơ được gửi qua đường bưu điện (dịch vụ bưu chính) hoặc nộp trực tiếp tới Bộ phận Một cửa Ngân hàng Nhà nước, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gửi 03 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép gồm: đơn đề nghị cấp lại Giấy phép theo Mẫu số 11 ban hành kèm theo Nghị định này, báo cáo tình hình thực hiện hoạt động theo Giấy phép kể từ ngày được cấp Giấy phép đến ngày nộp đơn đề nghị cấp lại Giấy phép và bản sao Giấy phép đang có hiệu lực tới Ngân hàng Nhà nước. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép của tổ chức, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét cấp lại Giấy phép hoặc có văn bản thông báo từ chối trong đó nêu rõ lý do; Thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép là 10 năm tính từ ngày tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp lại Giấy phép. - Giấy phép bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị hủy dưới hình thức khác Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gửi đơn đề nghị cấp lại Giấy phép theo Mẫu số 11 ban hành kèm theo Nghị định này trong đó nêu rõ lý do. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị cấp lại Giấy phép của tổ chức, Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp lại Giấy phép hoặc có văn bản thông báo từ chối trong đó nêu rõ lý do; Thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép được giữ nguyên như thời hạn hoạt động trên Giấy phép đã bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị hủy dưới hình thức khác. (2) Quy định sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán Theo Điều 26 Nghị định 52/2024/NĐ-CP quy định sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, như sau: - Trường hợp thay đổi một trong các nội dung quy định trong Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán sau: tên tổ chức, địa điểm đặt trụ sở chính, ngừng cung cấp một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán đã được cấp phép, kết nối thêm hệ thống thanh toán quốc tế của tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế: + Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán gửi 01 bộ hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép gồm: đơn đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán theo Mẫu số 12 ban hành kèm theo Nghị định này; bản sao Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán còn hiệu lực; bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã thay đổi tên doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (nếu có); báo cáo tình hình thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán kể từ ngày được cấp Giấy phép đến ngày nộp hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Trường hợp đề nghị kết nối thêm hệ thống thanh toán quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế bổ sung thêm các tài liệu quy định tại điểm i khoản 2 Điều 24 Nghị định này; + Ngân hàng Nhà nước tiếp nhận và xét tính hợp lệ của hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ và quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp từ chối sửa đổi, bổ sung Giấy phép, Ngân hàng Nhà nước có văn bản trả lời tổ chức trong đó nêu rõ lý do; + Thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép sửa đổi, bổ sung không vượt quá thời hạn hoạt động ghi trên Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; + Đối với dịch vụ trung gian thanh toán đề nghị ngừng cung cấp, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải ngừng cung cấp dịch vụ sau khi Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung Giấy phép và trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung Giấy phép, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải gửi thông báo bằng văn bản tới các tổ chức và cá nhân liên quan để thanh lý hợp đồng và hoàn tất các nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các bên liên quan theo quy định của pháp luật. - Trường hợp thay đổi một trong các nội dung sau: người đại diện theo pháp luật, thay đổi vốn điều lệ, thay đổi tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của chủ sở hữu; thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp, trong thời hạn hiệu lực của Giấy phép, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải làm thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép nhưng phải gửi thông báo cho Ngân hàng Nhà nước bằng văn bản và tài liệu chứng minh các thông tin liên quan (nếu có) trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có các thay đổi nêu trên. Như vậy quy định cấp lại, sửa đổi, bổ sung Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được quy định tại Điều 25, 26 Nghị định 52/2024/NĐ-CP có hiệu lực ngày 01/07/2024.
Từ tháng 01/2023, thí điểm nộp thuế điện tử đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu
Tổng cục hải quan ban hành Quyết định 101/QĐ-TCHQ về việc phê duyệt đề án “thí điểm nộp thuế điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán” Theo đó, Đề án này nhằm giúp người nộp thuế tiếp tục được đơn giản hóa thủ tục nộp thuế, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp, mở thêm kênh thanh toán cho người nộp thuế. Ngoài ra, người nộp thuế có thể chủ động nộp tiền tại bất kỳ nơi nào có internet, vào mọi lúc, mọi nơi, mọi phương tiện. Nộp tiền vào ngân sách nhà nước không phụ thuộc vào thời gian, địa điểm như Kho bạc Nhà nước, các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, còn tránh được sự sai sót các chỉ tiêu thông tin trong việc lập giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước, thống nhất với dữ liệu gốc của hải quan, đảm bảo trừ nợ chính xác, đảm bảo thông quan hàng hóa ngay sau khi nộp thuế. Nộp thuế điện tử đối với đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mang lại những lợi ích sau: Đối với cơ quan quản lý - Tiết kiệm nhân lực, đảm bảo an toàn trong công tác quản lý, đơn giản quy trình thu nộp thuế. - Đảm bảo trừ nợ chính xác khoản nợ thuế kịp thời ngay sau khi người nộp thuế (bao gồm cả tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu) nộp thuế, phí, lệ phí, xử lý thông quan/ giải phóng hàng nhanh chóng, hỗ trợ cá nhân xuất cảnh, nhập cảnh khi phát sinh khoản phải nộp được thực hiện nhanh chóng, chính xác không cần phải có tài khoản tại ngân hàng phối hợp thu. - Hạn chế tối đa phải điều chỉnh chứng từ nộp tiền còn sai sót thông tin - Tăng mức độ hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư quốc tế, cá nhân khi xuất cảnh, nhập cảnh vào Việt Nam. Đối với Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán cho các khách hàng. - Thu hút thêm khách hàng tiềm năng. - Gia tăng kết nối của tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán với các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thanh toán điện tử. Đối với ngân hàng thương mại - Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán cho các khách hàng. - Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Đề án không dùng tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước về tăng cường kết nối với các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. - Kênh thanh toán mới hỗ trợ người nộp thuế, ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong cung cấp dịch vụ cho người nộp thuế. Đối tượng nào sẽ tham gia đề án? - Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tham gia thí điểm - Ngân hàng thương mại đã phối hợp thu với Tổng cục Hải quan - Người nộp thuế thực hiện nộp ngân sách nhà nước qua tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán - Cơ quan hải quan có các khoản thu ngân sách nhà nước nộp qua tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Thời gian thực hiện Đề án: từ tháng 01 đến tháng 12/2023. Xem chi tiết tại Quyết định 101/QĐ-TCHQ được ban hành ngày 18/02/2023.
Paypal và những hệ lụy bạn có thể chưa biết!
Paypal và những hệ lụy Paypal hay một số dịch vụ thanh toán được gọi là “cổng thanh toán quốc tế” đã hoạt động ở Việt Nam không dưới 10 năm. Tuy nhiên, sự phổ biến của phương thức giao dịch này lại không tỷ lệ thuận với độ an toàn của nó và thậm chí Nhà nước vẫn đang từng bước thắt chặt quản lý. Bài viết này sẽ phân tích 2 rủi ro lớn nhất khi sử các dịch vụ thanh toán quốc tế này! 1. Paypal chưa được cấp phép ở Việt Nam Hiện tại, theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức không phải là ngân hàng xin cấp Giấy phép thực hiện một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán phải đáp ứng một số điều kiện quy định tại Nghị định 101/2012/NĐ-CP. Trong các quy định này, Điểm a Khoản 2 Điều 15 Nghị định 101 nêu rõ: “Các tổ chức không phải là ngân hàng muốn cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải đảm bảo đáp ứng đủ các điều kiện sau: a) Có giấy phép thành lập hoặc đăng ký kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, trong đó hoạt dộng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là một trong các hoạt động kinh doanh chính của tổ chức; …” Thực tế, Paypal chưa được cấp phép thành lập và điều đó có nghĩa họ không được phép thực hiện dịch vụ trung gian thanh toán theo pháp luật Việt Nam. Như vậy có thể hiểu, nếu có tranh chấp, khiếu nại đối với các chính sách hoặc rủi ro phát sinh trong khi sử dụng dịch vụ này, bạn sẽ không được pháp luật hỗ trợ. Đồng thời, việc hoạt động của tổ chức này thực tế vẫn chưa có khung pháp lý để xử phạt hành chính hoặc quy trách nhiệm hình sự. 2. Rửa tiền, trốn thuế và các hoạt động lừa đảo thông qua Paypal Theo Nghị định 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, "tổ chức, cá nhân khác" liên quan đến phòng, chống rửa tiền, bao gồm cả "tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán." Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, Paypal không nằm trong nhóm đối tượng cung ứng dịch vụ được Nhà nước quản lý, chính vì vậy hoạt động rửa tiền xảy ra trên nền tảng này là vô cùng khó kiểm soát. Cơ chế hoạt động của Paypal dễ dàng giúp các chủ tài khoản giao dịch mà không tuân thủ theo quy định của NHNN về các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử hay các quy định của pháp luật hiện hành về phòng, chống rửa tiền và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Thêm vào đó, hiện nay Thông tư 32/2013/TT-NHNN (sửa đổi bởi Thông tư 16/2015/TT-NHNN và Thông tư 03/2019/TT-NHNN) có quy định những trường hợp được phép sử dụng, kinh doanh ngoại tệ, và đương nhiên nhiên các hình thức chuyển đổi ngoại tệ thực hiện qua Paypal hoàn toàn không được quản lý! Điều này trực tiếp gây thất thoát thuế của Nhà nước và cũng góp phần tiếp tay cho các tội phạm rửa tiền. Chính vì còn nhiều kẽ hở, đã có nhiều vụ lừa đảo xảy ra khi giao dịch qua Paypal. Người mua hàng đồng ý chuyển tiền trước, nhưng nếu không có người trung gian đứng ra “bảo lãnh”, các giao dịch hoàn toàn có thể bị “lật kèo” vào phút chót và thật khó để người bị hại có thể tố cáo, kiện tụng đòi quyền lợi cho mình (bởi lẽ pháp luật không công nhận những hình thức giao dịch này!). Trên Cổng thông tin điện tử của của Chính phủ, có thông tin Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông kiểm tra vấn đề trên nghiên cứu sớm có biện pháp quản lý tình trạng giao dịch tài chính bất hợp pháp, trốn thuế qua các cổng thanh toán quốc tế hoạt động trái pháp luật. Như vậy, dạo qua một vòng Internet, chúng ta có thể thấy những lợi ích có thật từ Paypal, tuy nhiên rủi ro từ việc sử dụng nó là không hề nhỏ, để bảo vệ quyền lợi của mình, tốt hơn hết người dân nên cẩn trọng, tuân thủ pháp luật khi giao dịch qua trung gian thanh toán!
07 điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
Ngày nay với sự phát triển của xã hội và khoa học công nghệ. Chúng ta đã dần quen với việc thanh toán các chi phí (tiền điện, tiền nước, thuê bao điện thoại, cước viễn thông,...), mua vé xem phim, mua đồ ăn, thức uống mà chỉ cần ngồi tại nhà. Các dịch vụ trung gian mà chúng ta đã rất quen thuộc có thể kể đến hiện nay như ví điện tử Momo, Zalopay, Vnpay, Airpay, các địa điểm hỗ trợ thu hộ, chi hộ. Ngân hàng là các tổ chức được cấp phép dịch vụ trung gian thanh toán. Tuy nhiên, ngoài các ngân hàng thì các tổ chức không phải là ngân hàng cũng có thể được cấp phép cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán nếu đáp ứng được các điều kiện. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về 07 điều kiện (bao gồm các điều kiện vốn điều lệ, nhân sự, kỹ thuật,...) cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán của tổ chức không phải là ngân hàng.
03 loại hình dịch vụ trung gian thanh toán
Ngày nay, chúng ta đã không còn xa lạ với việc các dịch vụ trung gian thanh toán đua nhau nở rộ. Chúng ta đã dễ dàng, nhanh chóng và tiện lợi hơn trong việc thanh toán các chi phí như tiền điện, tiền nước, cước viễn thông, truyền hình cáp,... tại nhà qua ứng dụng mà không cần phải đóng trực tiếp. Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể đặt hàng, đặt các món ăn, thức uống qua các ứng dụng và thanh toán tại ứng dụng đó. Ngoài ra, chúng ta có thể chuyển tiền giữa những người sử dụng cùng một ứng dụng trung gian thanh toán, chúng ta có thể mua vé xem phim, thanh toán các dịch vụ tài chính (vay tiêu dùng, bảo hiểm), mua vé tàu xe và còn rất nhiều tiện ích khác. Những tiện ích này giúp chúng ta tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí. Trong thời đại công nghệ số như hiện nay, có thể gọi đây là “ngồi tại nhà và thanh toán mọi thứ”. Sau đây, chúng ta sẽ cùng sơ lược qua 03 loại hình dịch vụ trung gian thanh toán: