Mẫu viết đơn xin học thêm tại trường cho học sinh các cấp mới nhất
Khi học sinh muốn được học thêm tại trường sau giờ học chính thức thì có phải viết đơn không? Mẫu đơn xin học thêm thế nào? Giáo viên có được dạy thêm ngoài trường? Mẫu viết đơn xin học thêm tại trường cho học sinh các cấp mới nhất Theo Điều 5 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định về tổ chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường như sau: - Học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết. - Hiệu trưởng nhà trường tiếp nhận đơn xin học thêm của học sinh, tổ chức phân nhóm học sinh theo học lực, phân công giáo viên phụ trách môn học và tổ chức dạy thêm theo nhóm học lực của học sinh. - Giáo viên có nguyện vọng dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm; trong đơn có cam kết với nhà trường về việc hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ của giáo viên theo quy định chung và các nhiệm vụ khác do nhà trường phân công, đồng thời thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy thêm, học thêm trong nhà trường. - Hiệu trưởng nhà trường xét duyệt danh sách giáo viên dạy thêm, phân công giáo viên dạy thêm, xếp thời khóa biểu dạy thêm phù hợp với học lực của học sinh. Như vậy, khi học sinh có nguyện vọng học thêm thì phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường và có chữ ký của cha mẹ hoặc người giám hộ. Có thể tham khảo Mẫu viết đơn xin học thêm tại trường cho học sinh các cấp mới nhất: - Mẫu đơn xin học thêm tại trường theo buổi: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/12/don-xin-hoc-them.docx - Mẫu đơn xin học thêm tại trường theo môn: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/12/don-xin-hoc-them-mon-hoc.docx Việc thu học phí dạy thêm trong nhà trường được quy định như thế nào? Theo Điều 7 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định về thu và quản lý tiền học thêm như sau: - Đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường: + Thu tiền học thêm để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm; + Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường; + Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm. - Đối với dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường: + Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm. + Tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm thực hiện các quy định hiện hành về quản lý tài chính đối với tiền học thêm. Như vậy, khi tổ chức thu và quản lý tiền học thêm trong nhà trường thì thu theo mức thoả thuận giữa nhà trường với cha mẹ học sinh, đồng thời nhà trường phải công khai thanh, quyết toán tiền học thêm. Giáo viên có được dạy thêm ngoài trường không? Theo Điều 4 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định các trường hợp không được dạy thêm bao gồm: - Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. - Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống. - Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông. - Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: + Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; + Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó. Như vậy, giáo viên vẫn được tổ chức dạy thêm ngoài trường nhưng không được dạy thêm ngoài nhà trường đối đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó.
Giáo viên và nhà trường có được tổ chức dạy thêm theo hình thức bắt buộc không?
Học thêm là hình thức học ngoài giờ của học sinh trên lớp nhằm giúp cho các em cập nhật, bổ sung kiến thức theo chương trình học. Vậy, việc học thêm tại trường có bắt buộc không? Dạy thêm, học thêm trong nhà trường là gì? Theo Điều 2 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT có quy định như sau: - Dạy thêm, học thêm trong quy định này là hoạt động dạy học phụ thêm có thu tiền của người học, có nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông nhưng ngoài kế hoạch giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. - Dạy thêm, học thêm trong nhà trường là dạy thêm, học thêm do cơ sở giáo dục công lập (gồm: cơ sở giáo dục phổ thông; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học, sau đây gọi chung là nhà trường) tổ chức. - Dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường là dạy thêm, học thêm không do các cơ sở giáo dục trong nhà trường tổ chức. Như vậy, dạy thêm, học thêm trong nhà trường là việc các cơ sở giáo dục công lập tổ chức các buổi dạy thêm, học thêm. Thông thường hình thức này ta thường thấy tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông công lập. Giáo viên và nhà trường có được tổ chức dạy thêm theo hình thức bắt buộc không? Theo khoản 3 Điều 3 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT, đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm. Theo khoản 1 Điều 5 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT, học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết. Theo khoản 1 Điều 7 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định thu và quản lý tiền học thêm đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường như sau: - Thu tiền học thêm để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm; - Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường; - Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm. Tổng hợp lại, việc học sinh học thêm trong nhà trường là tùy theo nhu cầu, tinh thần tự nguyện và sự đồng ý của gia đình, không được ép buộc dưới mọi hình thức. Do đó, giáo viên và nhà trường không được tổ chức dạy thêm theo hình thức bắt buộc và việc thu tiền học thêm phải được cha mẹ thoả thuận với nhà trường. Những trường hợp nào không được dạy thêm dù học sinh tự nguyện? Theo Điều 4 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT về các trường hợp không được dạy thêm bao gồm: - Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. - Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống. - Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông. - Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: + Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; + Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó. Như vậy, việc dạy thêm chỉ được tổ chức cho học sinh trung học trở lên, các học sinh tiêu học chỉ được dạy thêm khi bồi dưỡng nghệ thuật, thể dục thể thao, kỹ năng sống.
Sự an toàn từ trong nhà trường
Ngày 31/8/2019 theo như báo vnexpress đưa tin khoảng 16h ngày 30/8, nữ sinh lớp 11 chuyên Hóa kêu cứu trong nhà vệ sinh nữ ở tầng 3 và được cô giáo Khổng Thị Thu Trang chạy tới giúp đỡ. Nạn nhân được đưa ngay vào bệnh viện Đa khoa Quảng Ninh cấp cứu. Việc em bị rạch mặt trong nhà vệ sinh đã được trình báo công an. Dữ liệu camera tại trường cho thấy một nam thanh niên mặc áo mưa che đầu, đeo găng tay đã đi vào nhà vệ sinh nữ trước khi nữ sinh lớp 11 này bước vào. Công an Hạ Long bước đầu xác định được nghi phạm là cựu sinh viên của trường, vừa đậu vào Đại học xây dựng, có tiền sử bệnh trầm cảm. Người có hành vi rạch mặt nữ sinh có thể bị truy tố tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 bộ luật hình sự 2015: “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên; b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên; e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; h) Có tổ chức; i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc; ...” Ngoài xét đến người có hành vi rạch mặt nữ sinh cần phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khi vụ việc thương tâm xảy ra thì nhà trường cũng có một phần trách nhiệm khi để người lạ đột nhập vào trường, và đã có hành vi vi phạm pháp luật. Nhà trường được xem là nơi an toàn nhất lại là nơi xảy vụ việc thương tâm, việc quản lý lỏng lẽo để người lạ vào trường thì nhà trường cũng nên tự xem xét lại sự quản lý của mình.
Mẫu viết đơn xin học thêm tại trường cho học sinh các cấp mới nhất
Khi học sinh muốn được học thêm tại trường sau giờ học chính thức thì có phải viết đơn không? Mẫu đơn xin học thêm thế nào? Giáo viên có được dạy thêm ngoài trường? Mẫu viết đơn xin học thêm tại trường cho học sinh các cấp mới nhất Theo Điều 5 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định về tổ chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường như sau: - Học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết. - Hiệu trưởng nhà trường tiếp nhận đơn xin học thêm của học sinh, tổ chức phân nhóm học sinh theo học lực, phân công giáo viên phụ trách môn học và tổ chức dạy thêm theo nhóm học lực của học sinh. - Giáo viên có nguyện vọng dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm; trong đơn có cam kết với nhà trường về việc hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ của giáo viên theo quy định chung và các nhiệm vụ khác do nhà trường phân công, đồng thời thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy thêm, học thêm trong nhà trường. - Hiệu trưởng nhà trường xét duyệt danh sách giáo viên dạy thêm, phân công giáo viên dạy thêm, xếp thời khóa biểu dạy thêm phù hợp với học lực của học sinh. Như vậy, khi học sinh có nguyện vọng học thêm thì phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường và có chữ ký của cha mẹ hoặc người giám hộ. Có thể tham khảo Mẫu viết đơn xin học thêm tại trường cho học sinh các cấp mới nhất: - Mẫu đơn xin học thêm tại trường theo buổi: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/12/don-xin-hoc-them.docx - Mẫu đơn xin học thêm tại trường theo môn: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/12/don-xin-hoc-them-mon-hoc.docx Việc thu học phí dạy thêm trong nhà trường được quy định như thế nào? Theo Điều 7 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định về thu và quản lý tiền học thêm như sau: - Đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường: + Thu tiền học thêm để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm; + Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường; + Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm. - Đối với dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường: + Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm. + Tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm thực hiện các quy định hiện hành về quản lý tài chính đối với tiền học thêm. Như vậy, khi tổ chức thu và quản lý tiền học thêm trong nhà trường thì thu theo mức thoả thuận giữa nhà trường với cha mẹ học sinh, đồng thời nhà trường phải công khai thanh, quyết toán tiền học thêm. Giáo viên có được dạy thêm ngoài trường không? Theo Điều 4 Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định các trường hợp không được dạy thêm bao gồm: - Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. - Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống. - Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông. - Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: + Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; + Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó. Như vậy, giáo viên vẫn được tổ chức dạy thêm ngoài trường nhưng không được dạy thêm ngoài nhà trường đối đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó.
Giáo viên và nhà trường có được tổ chức dạy thêm theo hình thức bắt buộc không?
Học thêm là hình thức học ngoài giờ của học sinh trên lớp nhằm giúp cho các em cập nhật, bổ sung kiến thức theo chương trình học. Vậy, việc học thêm tại trường có bắt buộc không? Dạy thêm, học thêm trong nhà trường là gì? Theo Điều 2 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT có quy định như sau: - Dạy thêm, học thêm trong quy định này là hoạt động dạy học phụ thêm có thu tiền của người học, có nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông nhưng ngoài kế hoạch giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. - Dạy thêm, học thêm trong nhà trường là dạy thêm, học thêm do cơ sở giáo dục công lập (gồm: cơ sở giáo dục phổ thông; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học, sau đây gọi chung là nhà trường) tổ chức. - Dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường là dạy thêm, học thêm không do các cơ sở giáo dục trong nhà trường tổ chức. Như vậy, dạy thêm, học thêm trong nhà trường là việc các cơ sở giáo dục công lập tổ chức các buổi dạy thêm, học thêm. Thông thường hình thức này ta thường thấy tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông công lập. Giáo viên và nhà trường có được tổ chức dạy thêm theo hình thức bắt buộc không? Theo khoản 3 Điều 3 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT, đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm. Theo khoản 1 Điều 5 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT, học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết. Theo khoản 1 Điều 7 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định thu và quản lý tiền học thêm đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường như sau: - Thu tiền học thêm để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm; - Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường; - Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm. Tổng hợp lại, việc học sinh học thêm trong nhà trường là tùy theo nhu cầu, tinh thần tự nguyện và sự đồng ý của gia đình, không được ép buộc dưới mọi hình thức. Do đó, giáo viên và nhà trường không được tổ chức dạy thêm theo hình thức bắt buộc và việc thu tiền học thêm phải được cha mẹ thoả thuận với nhà trường. Những trường hợp nào không được dạy thêm dù học sinh tự nguyện? Theo Điều 4 Quy định về dạy thêm, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT về các trường hợp không được dạy thêm bao gồm: - Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. - Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống. - Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông. - Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: + Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; + Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của Thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó. Như vậy, việc dạy thêm chỉ được tổ chức cho học sinh trung học trở lên, các học sinh tiêu học chỉ được dạy thêm khi bồi dưỡng nghệ thuật, thể dục thể thao, kỹ năng sống.
Sự an toàn từ trong nhà trường
Ngày 31/8/2019 theo như báo vnexpress đưa tin khoảng 16h ngày 30/8, nữ sinh lớp 11 chuyên Hóa kêu cứu trong nhà vệ sinh nữ ở tầng 3 và được cô giáo Khổng Thị Thu Trang chạy tới giúp đỡ. Nạn nhân được đưa ngay vào bệnh viện Đa khoa Quảng Ninh cấp cứu. Việc em bị rạch mặt trong nhà vệ sinh đã được trình báo công an. Dữ liệu camera tại trường cho thấy một nam thanh niên mặc áo mưa che đầu, đeo găng tay đã đi vào nhà vệ sinh nữ trước khi nữ sinh lớp 11 này bước vào. Công an Hạ Long bước đầu xác định được nghi phạm là cựu sinh viên của trường, vừa đậu vào Đại học xây dựng, có tiền sử bệnh trầm cảm. Người có hành vi rạch mặt nữ sinh có thể bị truy tố tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 bộ luật hình sự 2015: “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên; b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên; e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; h) Có tổ chức; i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc; ...” Ngoài xét đến người có hành vi rạch mặt nữ sinh cần phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khi vụ việc thương tâm xảy ra thì nhà trường cũng có một phần trách nhiệm khi để người lạ đột nhập vào trường, và đã có hành vi vi phạm pháp luật. Nhà trường được xem là nơi an toàn nhất lại là nơi xảy vụ việc thương tâm, việc quản lý lỏng lẽo để người lạ vào trường thì nhà trường cũng nên tự xem xét lại sự quản lý của mình.