Quy định hệ quả khi rút đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự
Cho tôi hỏi tôi là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bị đơn có yêu cầu phản tố, người liên quan có yêu cầu độc lập. Trước phiên tòa sơ thẩm diễn ra, tôi mới biết bị đơn đã rút yêu cầu phản tố rồi. Trao đổi, hiểu lý do với bị đơn nên tôi là nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện có được không? Nếu tôi rút toàn bộ đơn khởi kiện thì người có yêu cầu độc lập có được thay đổi địa vị tố tụng để đứng vào vị trí nguyên đơn không?
Hỏi về tranh chấp chuyển nhượng QSD đất
Năm 2004, bà Võ Thị L có hỏi mua của bà Võ Thị T thửa đất (thổ cư) để làm nhà. Bà T đề nghị giá 2.000.000 đồng nhưng bà L nói cho mượn đất để làm nhà ở vì đang cần và đưa 1 chỉ vàng và nói chỉ vàng coi như cọc để mượn làm 02 năm sau sẽ trả đủ số tiền 2.000.000 đồng. Bà L xây nhà nhưng không ở và sau đó có chồng ở xa, từ đó không nói đến chuyện đất đai. Xin Luật sư tư vấn giúp việc thỏa thuận (miệng) trên có hiệu lực không và bà T muốn yêu cầu tháo dỡ nhà để lấy lại đất được không (bà T đề nghị người thân thông báo cho bà L hoặc cho địa chỉ liên hệ bà L về giải quyết nhưng người thân bà L không phối hợp, hiện nay thửa đất trên vẫn còn trong giấy CNQSD đất của bà T). Theo quy định của pháp luật, bà T phải gửi đơn đến cơ quan nào giải quyết yêu vụ việc trên.
Công ty của tôi (tạm gọi là bên A) có ký hợp đồng với 1 đơn vị thi công xây dựng (tạm gọi là bên B), trong quá trình thi công xây dựng, bên B có thuê 1 đơn vị thí nghiệm kiểm định (tạm gọi là bên B') thực hiện thí nghiệm một số vật tư, vật liệu xây dựng (bê tông, cát, đá, xi măng, thép, ...). Trong quá trình thi công, đối với các hạng mục cần thực hiện thí nghiệm để kiểm chứng chất lượng thi công, bên B và bên B' đã thực hiện đúng theo yêu cầu của bên A và đảm bảo theo quy định của pháp luật. Sau khi bên B thi công xong và được bên A tổ chức nghiệm thu đưa vào sử dụng và nghiệm thu hoàn thành công tác bảo hành. Đến nay, bên B' có gửi văn bản đến bên A với nội dung huỷ bỏ toàn bộ giá trị pháp lý đối với các kết quả thí nghiệm vật liệu xây dựng đối với công trình do bên B thi công với lý do: bên B chưa thanh toán tiền thực hiện thí nghiệm cho bên B'. Qua đây tôi muốn Luật sư hỗ trợ giải thích giúp tôi bên B' gửi văn bản với nội dung như vậy có phù hợp với quy định của pháp luật không. Và trường hợp này xử lý, quy định tại điều nào, luật nào! Xin trân trọng cảm ơn.
Hỏi về việc đổi trả điện thoại
Dạ em xin hỏi là: Ngày 3/12/2022 em có mua một chiếc điện thoại ip13prm, mà bên điện thoại bị lỗi hệ thống này kia đến ngày 14 em mới nhận đt nhưng mà đến bây giờ em vẫn nhận lại 1 cái điện thoại bị hư pin. Đt đó có giá 23tr và em trả trước 6tr và vay lại bên m credit 17tr. Bây giờ em muốn đổi trả lại điện thoại thì như thế nào ạ. Em tính là sẽ trả hết 17tr còn lại cho bên vay và đến của hàng để đổi trả điện thoại để nhận lại 23tr thì có được ko ạ? em cảm ơn ạ.
Giao dịch với các bên liên quan
Chào Luật sư, tôi tên là Sơn, thành viên của Diễn Đàn. Hiện nay công ty tôi đang có vướng mắc về giao dịch với các bên liên quan, xin nhờ Luật sư tư vấn và giải đáp giúp. Cụ thể tình huống như sau: 1. Công ty tôi là công ty niêm yết, có thành lập công ty con là công ty TNHH MTV, hoạt động theo mô hình Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc. Các thành viên Hội đồng thành viên và kiểm soát viên của công ty con do công ty tôi bổ nhiệm. Vậy việc HĐTV công ty con chấp thuận hợp đồng, giao dịch giữa công ty con và công ty tôi có phù hợp với các quy định tại điều 86 Luật Doanh nghiệp 2020 hay không? Nếu không thì ai sẽ là người chấp thuận hợp đồng, giao dịch này? 2. Luật sư làm rõ giúp tôi các thuật ngữ sau tại Luật doanh nghiệp 2020: - “Người có liên quan đến các bên” tại khoản 3 điều 86, “thành viên có liên quan đến các bên trong trong hợp đồng, giao dịch” tại khoản 2 điều 67 và “cổ đông có lợi ích liên quan đến các bên trong hợp đồng, giao dịch” tại khoản 4 điều 167 được hiểu như thế nào? - “Người có liên quan” tại khoản 23 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 cá nhân, tổ chức có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại Luật Doanh nghiệp chưa có định nghĩa là người có liên quan với cá nhân. Vậy người có liên quan đến cá nhân (Tổng giám đốc, Thành viên HĐQT, Thành viên BKS…) gồm những đối tượng nào. Trân Trọng cảm ơn Luật Sư!
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ - Bị đơn chết?
- A ký hợp đồng mua bán đất bằng giấy Tay vs B năm 2000 (B chưa được cấp GCNQSDĐ) ( hợp đồng bằng giấy tay có xác nhận của trưởng thôn) - 2007 B được cấp GCNQSDĐ mà A không biết ( theo tờ khai của A tại Tòa án) - 2020 B chuyển nhượng thửa đất đó cho C (hợp pháp, đúng thủ tục) 2021 A khởi kiện B và C - Y/C: + công nhận Hợp Đồng chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay, và hủy đăng ký biến động QSDĐ của B Chuyển nhượng Cho C. - 2022 B chết khi tòa án mới thụ lý đơn khởi kiện: Vấn đề đặt ra: 1. thẩm quyền của Tòa án là Tòa án Huyện hay tỉnh/TP 2. A phải làm gì khi khởi kiện xong thì B lại chết, nhưng còn bị đơn là C 3. C phải làm những thủ tục gì tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của C ( thực ra đây là 1 vụ án thực tế của 1 sinh viên mới ra trường như em được nhận ủy quyền đại diện cho C, nhưng do còn non kinh nghiệm nên mạnh dạn lên đây xin một số hướng giải quyết tốt hơn ạ, xin cảm ơn tất cả mọi người đã dành thời gian đọc ạ)
I. NỘI DUNG VỤ ÁN Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiên trình bày: Ngày 01/5/1997, vợ chồng bà Trần Minh Huệ, ông Võ Kim Hùng viết giấy tay chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hiên diện tích đất 120m2 (ngang 6m, dài 20m) tại tổ dân phố 5, phường Đoàn Kết, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai với giá 3.000.000 đồng (đất chưa được cấp GCNQSDĐ). Ngày 24/6/1997, bà Hiên đã trả đủ tiền. Bà Huệ giao đất cho gia đình bà Hiên. Vợ chồng bà Hiên đã làm một căn nhà gỗ, diện tích 20m2 để ông Đặng Văn Dũng (chồng bà Hiên) sửa xe. Đến năm 2008, ông Dũng bị bệnh nên bà Hiên cho người khác thuê. Năm 2010, căn nhà không có ai ở. Năm 2011, bà Nguyễn Thị Hiên làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì biết toàn bộ phần diện tích đất của Bà đã được cấp GCNQSDĐ cho ông Võ Tấn Sỹ (anh ông Võ Kim Hùng, chồng bà Huệ). Bà Hiên đã khởi kiện đòi lại đất, nhưng bà Huệ hứa để Bà khởi kiện ông Võ Tấn Sỹ, sau đó sẽ trả lại đất cho Bà nên bà Hiên rút đơn khởi kiện. Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2013/QĐST- DS ngày 06/3/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai thể hiện: Ồng Võ Tấn Sỳ đồng ý trả lại cho bà Trần Minh Huệ và các con của bà Huệ (chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Vĩnh Huy, anh Võ Trần Nhật Huy và anh Võ Trần Khắc Huy) diện tích 571,1m2 đất, trong đó có 120m2 đất đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hiên. Sau khi được ông Võ Tấn Sỹ trả đất, bà Trần Minh Huệ đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp GCNQSDĐ số CD 826097 ngày 25/3/2016 đối với thửa đất số 73, tờ bản đồ số 2, diện tích 545,4 m2 cho chị Võ Ngọc Diệu Hiền (là người đại diện cho những người cùng sử dụng đất gồm bà Trần Minh Huệ, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy) mà không giao đất cho bà Hiên. Diện tích đất của bà Hiên có một phần bị quy hoạch, diện tích còn lại theo kết quả thẩm định là 100,4m2. Bà Hiên đề nghị tòa án giải quyết: - Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa ông Võ Kim Hùng, bà Trần Minh Huệ với bà Nguyễn Thị Hiên. - Buộc anh Võ Trần Nhật Huy, bà Trần Minh Huệ, chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khấc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy trả cho Bà diện tích đất 100,4m2 hoặc bà Trần Minh Huệ cùng các con phải thanh toán giá trị diện tích đất sang nhượng theo kết quả định giá. Bị đơn bà Trần Minh Huệ trình bày: Năm 1995, vợ chồng bà Trần Minh Huệ, ông Võ Kim Hùng được mẹ ông Hùng (cụ Phạm Thị Tin) cho mượn một thửa đất (nay là thửa đất số 269). Lúc đó, bà Nguyễn Thị Hiên có xin thuê đất để ông Đặng Văn Dũng (chồng bà Hiên) sửa xe đạp. Hai bên chỉ thuê bàng miệng, không có hợp đồng. Năm 1997, ông Võ Kim Hùng bị bệnh nặng nên bà Huệ nhiều lần mượn tiền của bà Hiên tổng cộng là 2.400.000 đồng. Sau dó, chồng Bà bị bệnh nặng không có tiền chữa trị nên bà Huệ đã viết giấy sang nhượng đất theo yêu cầu của bà Hiên. Việc sang nhượng này chỉ có bà Huệ biết (mẹ chồng và chồng Bà không biết). Chữ ký của ông Võ Kim Hùng trong Giấy sang nhượng đất là do bà Huệ tự ký. Năm 2000, bà Nguyễn Thị Hiên không ở thửa đất đã thuê và để lại nhà tạm cho đến nay. Bà Huệ đã nhiều lần tìm bà Hiên để trả 3.000.000 đồng, nhưng bà Hiên không lấy. Năm 2015, bà Hiên khởi kiện đòi quyền sử dụng đất nhung sau đó rút đơn. Năm 2016, gia đình bà Huệ được cấp GCNQSDĐ theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 01/2013/QĐ-ST-DS ngày 06/3/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa. Bà Huệ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Hiên chỉ đề nghị trả lại cho bà Hiên 3.000.000 đồng và tính lãi suất theo quy định của Ngân hàng từ năm 1997 đến nay. Người có quyền lợi nghĩa vụ tiên quan: Chị Nguyễn Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và Võ Trần Vĩnh Huy (con bà Huệ) thống nhất với trình bày của bà Huệ và có yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án tuyên bố Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa ông Võ Kim Hùng, bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Hiên vô hiệu. II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2020/DS-ST ngày 17-9-2020, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định: ‘'Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiên. 1. Công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997, giữa bên chuyển nhượng bà Trần Minh Huệ với bên nhận chuyển nhượng ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên. 2. Buộc anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy di dời các tài sản trên đất gồm... ra khỏi diện tích đất tranh chấp. 3. Buộc bà Trần Minh Huệ, chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy trả lại cho bà Nguyễn Thị Hiên diện tích đất đã chuyển nhượng là 100,4m2, thuộc thửa 73 (76), tờ bản đồ số 2, theo GCNQSDĐ số CD826097 ngày 25/3/2016, có tứ cận...(có sơ đồ Trích lục thửa đất kèm theo bản án). Bà Nguyễn Thị Hiên có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện đăng ký cấp quyền sử dụng đất theo quy định. 4. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CD 826097 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 25/3/2016 mang tên Võ Ngọc Diệu Hiền (là người đại diện cho những người cùng sử dụng đất gồm: Bà Trần Minh Huệ, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Khắc Huy, anh Võ Trần Vĩnh Huy). 5. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu, buộc bà Trần Minh Huệ cùng các con thanh toán giá trị diện tích đất sang nhượng theo kết quả định giá và yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ đất số CD 826389 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp cho Võ Ngọc Diệu Hiền ngày 29/8/2016 ”, Kháng cáo: Bị đơn bà Trần Minh Huệ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy kháng cáo toàn bộ bản án. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nằng phát biểu đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn và kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy sang nhượng đất” ngày 01/5/1997 vô hiệu, với nhận định lỗi của bà Nguyễn Thị Hiên và bà Trần Minh Huệ theo tỷ lệ 50/50 và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Bản án dân sự phúc thẩm số 187/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định: “Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. - Chấp nhận kháng cáo của bị đơn là bà Trần Minh Huệ và kháng cáo của những người cổ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2020/DS-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiên về các yêu cầu sau: + Yêu cầu công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy sang nhượng đất’’ ngày 01/5/1997 giữa bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên. + Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số GD 826097 do Sở Tài nguyên và Môi trưòng tỉnh Gia Lai cấp ngày 25/3/2016 mang tên chị Võ Ngọc Diệu Hiền (đại diện cho những người cùng sử dụng đất: Bà Trần Minh Huệ, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy). - Chấp nhận ý kiến phản đối của bị đơn bà Trần Minh Huệ và yêu cầu độc lập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy. + Tuyên giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy sang nhượng đất’’ để ngày 01/5/1997 giữa bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên vô hiệu. + Buộc bà Trần Minh Huệ phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Hiên 642.725.000 đồng (sáu trăm bốn mươi hai triệu, bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM Nguồn gốc thửa đất tranh chấp là của vợ chồng cụ Võ Ngân Hà và cụ Phạm Thị Tin khai hoang từ năm 1966. Cụ Hà và cụ Tin có 03 ngườ'i con (ông Võ Tấn Sỹ, Võ Văn Bốn và Võ Kim Hùng). Năm 1967, cụ Hà chết. Cụ Tin và các con tiếp tục quản lý, sử dụng thửa đất này. Năm 1995, ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên thuê của ông Võ Kim Hùng, bà Trần Thị Huệ một khoảnh đất trống để sửa xe đạp (vợ chồng ông Hùng, bà Huệ ở nhờ trên đất của cụ Tin). Ngày 01/5/1997, bà Trần Minh Huệ (vợ ông Võ Kim Hùng) ký “Giấy sang nhượng đất” cho ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên, diện tích đất 120m2 trong thửa đất 545,4m2 của cụ Phạm Thị Tin. Đến tháng 10/1997, cụ Tin chết. Như vậy, thời điểm bà Trần Minh Huệ viết “Giấy sang nhượng đất” ngày 01/5/1997 cho bà Nguyễn Thị Hiên thì thửa đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của cụ Phạm Thị Tin và cụ Võ Ngân Hà. Cụ Võ Ngân Hà chết, các đồng thừa kế chưa có sự phân chia di sản thừa kế của cụ Hà. Nhưng bà Trần Minh Huệ tự ý chuyển nhưọng đất của gia đình cụ Phạm Thị Tin là vi phạm Điều 6 và khoản 1 Điều 30 của Luật Đất đai năm 1993 và tại thời điểm giao dịch, cụ Phạm Thị Tin vẫn còn sống, nhưng không có sự đồng ý của cụ Tin và những người con của cụ Tin là không đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 bà Huệ thừa nhận tự viết và ký thay ông Võ Kim Hùng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định: Mặc dù, giao dịch chuyển nhượng đất tại thời điểm ngày 01/5/1997, không phù họp về hình thức, nhưng đúng với ý chí, nguyện vọng của các bên, không trái đạo đức xã hội nên áp dụng Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và Án lệ số 16/2017/AL được Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14/12/2017 để công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa ông Võ Kim Hùng, bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Hiên và buộc gia đình bà Huệ phải trả cho bà Nguyễn Thị Hiên diện tích đất đã chuyển nhượng 104,14m2 là không đúng với nội dung Án lệ nêu trên vì: Diện tích 100,4m2 đất bà Huệ chuyển nhượng cho vợ chồng bà Hiên, ông Dũng nằm trong tổng diện tích đất 545,4m2 thuộc thửa đất số 73 (76), tờ bản đồ số 2 là tài sản chung của vợ chồng cụ Võ Ngân Hà và cụ Phạm Thi Tin. Cụ Hà chết chưa được phân chia di sản thừa kế nên không phải là tài sản chung của vợ chồng bà Trần Minh Huệ và ông Võ Kim Hùng. Bà Hiên cũng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng. Vì vậy, vụ án cần xác định Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa bà Nguyễn Thị Hiên với bà Trần Thị Huệ, ông Đặng Văn Dũng bị vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo tỷ lệ lỗi của các đương sự mới đúng quy định tại các Điều 131, 133, 136 và 139 của BLDS năm 1995; Điều 6, khoản 1, Điều 30 của Luật Đất đai.
Thắc mắc về hợp đồng xây dựng?
Xin chào Luật sư! Lời đầu tiên xin chúc Luật sư sức khỏe, hạnh phúc. Em có vấn đề thắc mắc xin Luật sư giải đáp giúp em với ạ. Em có thực hiện gói thầu Tư vấn thiết kế BVTC - Tổng dự toán ban đầu Chủ đầu tư xác định giá trị HĐ dựa trên khái toán và chỉ định thầu, ký HĐ với giá trị HĐ là 100 triệu, thời gian thực hiện HĐ là 30 ngày. Sau khi được các cơ quan chức năng thẩm định và phê duyệt hồ sơ báo cáo Kinh tế kỹ thuật thì giá trị gói thầu theo dự toán được duyệt lúc này giảm xuống còn 90 triệu. Sau khi được phê duyệt BCKTKT thì Chủ đầu tư và nhà thầu tư vấn ký Phụ lục HĐ giảm trừ giá trị xuống còn 90 triệu đồng (sau thời gian 30 ngày thực hiện HĐ). Tuy nhiên, khi thanh toán sang Kho bạc nhà nước lại không đồng ý, trả hồ sơ về với lý do PLHĐ phải được ký trong thời gian thực hiện HĐ (nghĩa là phải ký trong thời gian 30 ngày thực hiện HĐ), đơn vị có giải trình là trong thời gian thực hiện HĐ thì Hồ sơ báo cáo KTKT chưa được phê duyệt nên chưa có cơ sở pháp lý để ký PLHĐ giảm trừ thanh toán. Nhưng Kho nạc không đồng ý và trả hồ sơ. Xin hỏi Luật sư trường hợp trên Kho bạc trả hồ sơ có đúng hay không? Nếu đúng thì cơ sở nào để điều chỉnh giá trị thanh toán như yêu cầu của Kho bạc? Xin chân thành cảm ơn Luật sư! Tha thiết mong Luật sư giải đáp giúp ạ
Cho em hỏi ai có từng dùng luật bang nào của Mỹ để giải quyết tranh chấp hợp đồng chưa ạ?
Mọi người cho em hỏi ai có từng dùng luật bang nào của Mỹ để giải quyết tranh chấp hợp đồng chưa? Và nhân tiện có link các văn bản luật đấy không, chia sẻ giúp em với ạ! Em xin cảm ơn
Tranh chấp giao dịch xác lập bằng lời nói
Chào mọi người, vấn đề mình muốn chia sẻ được thể hiện qua một tình huống như sau: Ông A đã mượn tiền của ông B với số tiền là 15 triệu đồng dùng với mục đích Ông A mua bò giống, do là bạn nên ông B đã tin tưởng và cho vay, việc mượn tiền chỉ được xác lập bằng lời nói, không thông qua bất kỳ giấy tờ ký kết vay nợ nào, đã đến thời hạn trả tiền nhưng ông A lại từ chối không muốn trả. Vậy, trong trường hợp trên ông B có đòi được số tiền cho vay trên hay không? Nếu muốn lấy lại được số tiền cho vay Ông B phải làm như thế nào nếu ông A nhất quyết không trả? Quan điểm của mình về tình huống này thì tại Bộ Luật dân sự 2015 có nêu: Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể... Theo đó, đối với trường hợp vay của ông A và ông B thì hai bên có thể giao kết bằng lời nói mà không bắt buộc phải bằng văn bản. Khi đó, nếu ông A không thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận thì ông B có quyền đòi lại khoản tiền cho vay. Trước tiên vẫn là trên tinh thần thỏa thuận, ông B có thể liên hệ lại ông A để thỏa thuận về việc trả tiền. Nếu ông A không trả thì ông B có thể khởi kiện ông A ra Tòa án nhân dân cấp quận/huyện để yêu cầu trả nợ theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do hai bên giao kết hợp đồng bằng lời nói nên để Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông B thì ông B cần chứng minh giao dịch cho vay đó có xảy ra và ông A đang vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Việc chứng minh có giao dịch này do không có hợp đồng bằng văn bản nên có thể chứng minh thông qua hình ảnh, lời nói, ghi âm, các video clip, sao kê ngân hàng, hay các đoạn tin nhắn, trò chuyện được sao chụp lại giữa ông A và B đề cập về giao dịch này. Khi Thẩm phán thấy đủ cơ sở chứng minh giao dịch này có xảy ra và ông A không thực hiện nghĩa vụ thì Tòa sẽ chấp nhận yêu cầu của ông B, yêu cầu ông A trả tiền cho ông B. Mọi người có cách nào hay hơn để giúp ông B đòi lại tiền thì cùng chia sẻ nhé!
Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm - mất trộm xe ô tô?
Xin chào Luật sư. Tôi xin hỏi Luật sư vụ việc liên quan đến tranh chấp Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, cụ thể như sau: 1. Tóm tắt diễn biến vụ việc: Khách hàng mua bảo hiểm vật chất xe ô tô của Công ty tôi ( trong đó có bảo hiểm mất trộm, cướp)/ Trong thời hạn được bảo hiểm, khách hàng báo mất xe ô tô và yêu cầu Công ty tôi bồi thường/ Tôi hướng dẫn khách hàng trình báo Công an - Công an ghi nhận có vụ việc trình báo mất trộm xe ô tô/ sau 1 thời gian, cơ quan Công an ra Quyết định nói rõ: Tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm sau khi tiến hành kiểm tra, xác minh theo quy định của Bộ luật TTHS và Thông tư 01/2017/TTLT-BCA...; Khi nào có tài liệu mới, Công an sẽ phục hồi giải quyết vụ việc. Quan điểm của khách hàng: Tôi mua bảo hiểm (trong đó có bảo hiểm mất trộm, cướp); nay chiếc xe đó mất; Công ty phải bồi thường. Quan điểm của Công ty tôi: Chủ xe báo ô tô bị mất mà Cơ quan Công an chỉ duy nhất ghi nhận là có người đến trình báo mất xe - sau khi tiến hành kiểm tra xác minh đã không khởi tố vụ án hình sự mà ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc ( lưu ý là tạm đình chỉ giải quyết vụ việc) , nên chúng tôi cho rằng chiếc xe trên chưa có bằng chứng là bị mất trộm ( sự việc này - chỉ chủ xe nói là xe bị mất ngoài ra không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào; Công an thì cho rằng chưa đủ bằng chứng để khởi tố...); Điều đáng quan tâm ở đây là 1 chiếc ô tô, để ở giữa trung tâm Hà Nội, báo mất mà Công an không thấy thấy có dấu hiệu của tội phạm nên mới không khởi tố vụ án hình sự... Theo Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới được Bộ Tài chính chấp thuận thì xe ô tô chỉ được coi là mất cắp khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự hay quyết định đình chỉ vụ án hình sự ( tại VN việc mua bán trao tay không sang tên đổi chủ... vẫn tồn tại ) 2. Xin hỏi Luật sư: Theo quan điểm của Luật sư, chiếc xe ô tô nói trên có được coi là bị mất trộm hay không và tại sao? Rất mong nhận được ý kiến của Luật sư. Xin trân trọng cám ơn.
Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần
Kính gửi luật sư: Tôi có mua cổ phần của một công ty cổ phần và đã nộp đầy đủ số tiền nhưng công ty lại không làm thủ tục công nhận tôi là cổ đông của công ty cùng với một vài mâu thuẫn trong công việc.Tôi có ý định khởi kiện công ty ra tòa yêu cầu hoàn trả toàn bộ số vốn đã bỏ ra cùng với tiền lãi nhưng công ty lại không đồng ý trả tiền mà chỉ đồng ý cho tôi sang nhượng cổ phần nếu có người nhận. Xin hỏi luật sư tôi làm như vậy đúng hay sai ? Xin cám ơn luật sư.
Xin hỏi về giải quyết bài tập tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần
Nguyên đơn: Ông Trần A Bị đơn: Công ty Cổ phần SS NỘI DUNG VỤ ÁN Nguyên đơn (ông Nguyễn Trần A.) trình bày Chấp thuận lời đề nghị của Công ty cổ phần SS, ngày 3/12/2004 và 18/2/2005, ông Nguyễn Trần A. đã nộp tiền vào công ty để mua 1.700 cổ phần của công ty với giá 300.000 VNĐ/ cổ phần, tổng cộng là 510.000.000 VNĐ. Sau đó, do Công ty cổ phần SS không chịu làm thủ tục công nhận ông là cổ đông của công ty, đồng thời cũng do bất đồng về quan điểm hợp tác và làm việc, ông A. đã yêu cầu công ty phải hoàn trả toàn bộ khoản tiền mà ông đã nộp cho công ty để mua cổ phần nói trên. Công ty SS đã hoàn trả cho ông A. 70.000.000 VNĐ, nhưng phần tiền còn lại 440.000.000 VNĐ thì không đồng y trả lại mà chỉ đồng ý để ông A. sang nhượng cổ phần. Do đó, ông Nguyễn Trần A. khởi kiện yêu cầu Công ty SS phải hoàn trả cho ông 440.000.000 VNĐ vốn và số tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất 21%/năm, tạm tính cho đến ngày làm đơn kiện (5/6/2008) là 329.997.500 VNĐ và số tiền lãi phát sinh sau khi làm đơn khởi kiện (theo mức lãi suất 10,5%/năm) là 74.786.000 VNĐ, tổng cộng là 844.783.500 VNĐ. Bị đơn (Công ty cổ phần SS) trình bày Không chấp nhận yêu cầu đòi lại tiền của nguyên đơn mà chỉ đồng y làm thủ tục chuyển nhượng nếu có người nhận chuyển nhượng cổ phần của ông A. Em cần sử dụng những lý lẽ, lập luận để bảo vệ nguyên đơn ạ ?
Kỹ năng nghiên cứu tính pháp lý của hợp đồng khi có tranh chấp
Tham khảo: >>> HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ >>> Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự >>> Tài liệu kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án Dân sự Ngày nay, các tranh chấp về giao kết hợp đồng diễn ra khá phổ biến, như: Tranh chấp về hợp đồng ủy thác; Hợp đồng cho thuê hàng hóa; Hợp đồng vận tải;...vậy trong quá trình nghiên cứu lại các hợp đồng tranh chấp này nên bắt đầu từ đâu? nghiên cứu như thế nào? để tìm những cơ sở có lợi cho mình thì mời các bạn cũng tham khảo bài viết được mình tổng hợp và nêu ra dưới đây như sau: Thứ nhất: Kiểm tra hợp đồng đã giao kết có hiệu lực pháp luật không? Để xác định hợp đồng có hiệu lực pháp luật hay không cần căn cứ các điều luật được quy định tại Bộ luật dân sự 2015 như sau: - Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự; - Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu; - Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; - Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo; - Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn; Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; - Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; - Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức; - Điều 130. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần Ngoài những căn cứ nêu trên, trong quá trình nghiên cứu có thể tìm kiếm thêm các văn bản điều chỉnh khác liên quan đến hợp đồng để xem xét thêm các dấu hiệu khác có thể làm vô hiệu hợp đồng. Ví dụ: Đối với hợp đồng kinh doanh bảo hiểm -> xem thêm tại Luật kinh doanh bảo hiểm có điều khoản nào liên quan dẫn đến vô hiệu hợp đồng không; Hợp đồng vận tải;….. Thêm đó, cần nghiên cứu về tư cách chủ thể ký kết hợp đồng, mục đích và nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật không? người ký hợp đồng có tự nguyện không? quan hệ hợp đồng có được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hay không ? (Lưu ý: đây là điểm hết sức quan trọng bởi trong hoạt động kinh doanh trường hợp các bên xác lập các giao dịch giả tảo nhằm lách luật để hưởng lợi xảy ra không ít), có bị nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng hay đối tượng ký kết không, khi xác lập quan hệ hợp đồng các bên có bị lừa đối, de doạ không… Mặt khác, xem kĩ có vi phạm hình thức lập hợp đồng hay không? như: hợp đồng có bắt buộc phải công chứng, chứng thực không;… Vì để bảo vệ quyền lợi của khách hàng (tức người mình bảo vệ của một trong hai bên thực hiện giao kết) được thực hiện tới tới đâu thì phụ thuộc vào hợp đồng giao kết có hiệu lực hay không? vô hiệu toàn phần? một phần hay như thế nào? Vì tòa án sẽ giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu chứ không xem xét đến các yêu cầu cụ thể của các bên. Thứ hai: Đọc kĩ, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định như thế nào? Sau khi xác định được giao kết hợp đồng có hiệu lực hay không, thì đi sâu vào nghiên cứu các điều khoản do hai bên thỏa thuận. Vì ngoài các quy định của pháp luật, thì thỏa thuận giữa hai bên trong hợp đồng cũng được căn cứ để giải quyết khi xảy ra tranh chấp. Xem thử có điều khoản hai bên thỏa thuận có phù hợp với quy định pháp luật không, điều khoản nào có lợi và điều khoản nào bất lợi, liệu có điều khoản nào ràng buộc trách nhiệm của từng bên hay không? hay những điều khoản nào còn lỏng lẻo, chưa rõ ràng trong hợp đồng để xác định có lợi hay có hại trong quá trình giải quyết... Thứ ba: Hợp đồng có quy định thêm các chế tài khi vi phạm hợp đồng không? Theo đó, các điều khoản do hai bên thỏa thuận về phạt vi phạm cũng hết sức quan trọng. Cần xem các điều khoản đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không? các căn cứ xử phạt đó có hợp lý không và sự nỗ lực khác phục thiệt hại của hai bên được thực hiện như thế nào?... Ví dụ: như trong hợp đồng mua bán hàng hóa có điều khoản về “nếu bên A vi phạm nghĩa vụ giao hàng thì mức bồi thường thiệt hại là 10%”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 301, Luật thương mại 2005 quy định mức phạt bồi thường do hai bên thỏa thuận, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng. Do đó, trong trường hợp hợp đồng quy định chế tài là 10% là vi phạm quy định. Thứ tư: Quá trình thực hiện hợp đồng của hai bên như thế nào? có điều gì bất thường hay không? Dựa vào dữ liệu liên quan, hồ sơ vụ việc, lời khai của người bị hại,...để xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng thì ai là người vi phạm hợp đồng; Mức độ vi phạm như thế nào; Nguyên nhân dẫn đến vi phạm là từ đâu; Thiện chí thực hiện hợp đồng của các bên thể hiện như thế nào;.. Lưu ý: - Khi nghiên cứu về hợp đồng không nên quá cứng nhắc về việc chỉ xem xét các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng, mà cần xem xét trong quá trình thực hiện hợp đồng có việc trao đổi, thương lượng lại giữa các bên về việc thực hiện các nghĩa vụ liên quan hay không? Theo đó, việc trao đổi, thương lượng đó được coi như là những thoả thuận mới, khi đó thoả thuận cũ của hợp đồng không còn hiệu lực. - Việc nghiên cứu hồ sơ sẽ hết sức phiến diện nếu chỉ nghiên cứu nội dung ghi nhận trong hợp đồng, mà cũng nên nghiên cứu thêm các tài liệu liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng như: Hồ sơ pháp nhân; Giấy uỷ quyền; Công văn trao đổi; Hoá đơn chứng từ, biên bản giao nhận…và kiểm tra các tài liệu để xác định tư cách chủ thể ký kết hợp đồng có đúng luật không, như: giấy đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm; biên bản bầu chức danh giám đốc, giấy uỷ quyền ký kết hợp đồng… Trên đây là những hướng dẫn cơ bản về việc nghiên cứu tính pháp lý của hợp đồng khi có tranh chấp trong giao dịch dân sự. Mong rằng sẽ giúp ích cho các bạn. Nếu bạn nào có thêm kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu, có ý bổ sung cùng để lại bình luận để cùng tham khảo nhé.
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất
A/C luật sư cho tôi hỏi vấn đề thế nay! Chuyện là ngoại tôi năm nay 83t .có bán cho người hàng xóm 1 miếng đất (cũng hơn 10 năm rồi ) mà chưa cắt sổ gì hết . Đến năm 2018 này người đó đến nhà hỏi mượn sổ để cắt (phần đã bán cho người đó ) nhưng khi làm thì người đó không làm thủ tục cắt sổ. Mà làm thủ tục hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích sổ đứng tên ngoại tôi qua tên người đó. Khi gia đình tôi biết chuyện và có nhờ ban hòa giải ở thôn giải quyết. Ban hòa giải thôn giải quyết thì người đó hứa hẹn sẽ sang tên sổ lại cho ngoại tôi. Nhưng đến nay gần 1 năm trôi qua người đó vẫn hẹn tới hẹn lui không muốn trả sổ. Nay tôi A/C vụ việc này có thể khởi kiện không ? và thủ tục cách viết đơn thế nào. Được biết phần đất ngoại tôi bán cho không nằm trong sổ ngoại tôi đứng tên. Ngoại tôi già 83t không đọc được. Người đó lừa lên UBND ký chứng thực hợp đồng chuyển nhượng. Không biết có phải lừa đảo chiếm đoạt tài sản không luật sư.
04 vấn đề phải biết khi khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Không ít trường hợp cho người khác vay tiền mà không đòi được buộc phải khởi kiện ra tòa để nhờ Tòa án phân xử dùm. Có trường hợp thì đòi được cả gốc lẫn lãi nhưng cũng có trường hợp không đòi được gì cả. Cùng mình điểm qua một số nguyên nhân khiến bạn không đòi được tiền Một là, hết thời hiệu khởi kiện Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Theo quy định này, cần phải lưu ý đến vấn đề thời gian khởi kiện. Đây là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Chúng ta sẽ không được khởi kiện ra tòa để đòi tiền được nữa. Hai là, chứng cứ không đủ giá trị chứng minh Trong những tranh chấp dân sự thì vấn đề quan trọng nhất đó là những chứng cứ và khả năng chứng minh của các đương sự, đó là những vấn đề có tính chất quyết định. Thông thường, trong các vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, chứng cứ duy nhất mà bên cho vay xuất trình rất sơ sài, thường chỉ là biên nhận tiền. Điều này đôi khi sẽ gây khó khăn cho việc khởi kiện. Chẳng hạn Tòa án khó xác định rằng bên vay đã vi phạm thời gian trả nợ hay chưa, chỉ khi bên vay vi phạm thời gian trả nợ thì mới đủ căn cứ để Tòa án giải quyết hoặc bị đơn không thừa nhận chữ ký, chữ viết trong giấy biên nhận vay tiền, lúc đó lại tốn thời gian trong việc xác minh thông tin trên biên nhận. Ba là, xác định lãi suất, thời điểm tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản Đây là một dung vừa được làm rõ trong Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm sẽ có hiệu lực vào ngày 15/03/2019. Việc xác định lãi suất và thời gian chậm trả để đưa ra số tiền yêu cầu bên kia sẽ trả sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi và số tiền án phí phải nộp. Bốn là, vấn đề án phí Số tiền yêu cầu bên vay trả cũng là một vấn đề cần lưu ý vì nó sẽ liên quan đến số tiền đóng án phí, chúng ta nên đòi số tiền mà có đủ bằng chứng và chứng minh được, với số tiền không có đủ bằng chứng khi đòi không được Tòa án không công nhận thì chúng ta phải đóng án phí trên số tiền đó. Bên dưới là bảng tính án phí dân sự sơ thẩm được ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án 1.3 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000. 000 đồng + 4% của phầngiá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.
Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần
Bản án số 2: Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trần A Bị đơn: Công ty Cổ phần Sao Sáng NỘI DUNG VỤ ÁN Nguyên đơn (ông Nguyễn Trần A.) trình bày Chấp thuận lời đề nghị của Công ty cổ phần Sao Sáng, ngày 3/12/2004 và 18/2/2005, ông Nguyễn Trần A. đã nộp tiền vào công ty để mua 1.700 cổ phần của công ty với giá 300.000 VNĐ/ cổ phần, tổng cộng là 510.000.000 VNĐ. Sau đó, do Công ty cổ phần Sao Sáng không chịu làm thủ tục công nhận ông là cổ đông của công ty, đồng thời cũng do bất đồng về quan điểm hợp tác và làm việc, ông A. đã yêu cầu công ty phải hoàn trả toàn bộ khoản tiền mà ông đã nộp cho công ty để mua cổ phần nói trên. Công ty Sao Sáng đã hoàn trả cho ông A. 70.000.000 VNĐ, nhưng phần tiền còn lại 440.000.000 VNĐ thì không đồng y trả lại mà chỉ đồng y để ông A. sang nhượng cổ phần. Do đó, ông Nguyễn Trần A. khởi kiện yêu cầu Công ty Sao Sáng phải hoàn trả cho ông 440.000.000 VNĐ vốn và số tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất 21%/năm, tạm tính cho đến ngày làm đơn kiện (5/6/2008) là 329.997.500 VNĐ và số tiền lãi phát sinh sau khi làm đơn khởi kiện (theo mức lãi suất 10,5%/năm) là 74.786.000 VNĐ, tổng cộng là 844.783.500 VNĐ. Bị đơn (Công ty cổ phần Sao Sáng) trình bày Không chấp nhận yêu cầu đòi lại tiền của nguyên đơn mà chỉ đồng y làm thủ tục chuyển nhượng nếu có người nhận chuyển nhượng cổ phần của ông A.
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Công ty TNHH A có đặt hàng ở công ty tôi là loại hàng gạch men gồm 300T 25467 và 700T 25467 loại gạch 25×40 số lượng 1094, đơn giá 63.986₫ thành tiền là 77.000752. Tuy nhiên đến ngày thanh toán họ chỉ thanh toán 36.170.500₫ mà theo tôi biết sau khi thanh toán toàn bộ nợ công ty TNHH A đã giải thể. Theo như giải thích của người đại diện công ty TNHH A thì họ không đồng ý thanh toán toàn bộ số tiền vì nói rằng bên tôi giao gạch men không đúng yêu cầu và họ đã phải chịu chi phí tổng cộng là 40.829.500₫ cho khách hàng vì khách hàng không đồng ý. Luật sư cho tôi hỏi tôi phải làm gì để đòi lại quyền lợi cho công ty mình? Cảm ơn luật sư đã dành thời gian cho câu hỏi này.
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
Xin luật sư giải đáp giúp câu hỏi như sau: Tôi có mua một mãnh đất chiều ngang 1m x15,34m của ông Hùng năm 2010 làm lối đi mặc dù trước kia con đường này là đường đi từ thời ông bà tôi. Tôi có làm giấy viết tay có ông Hùng và 2 con trai ông ký, có 2 người liên ranh đất ký làm chứng và tôi có đem cho chính quyền Trưởng ấp ký xác nhận. Lúc đó vợ ông Hùng đã đi từ 2008 đến nay lại về rào đường với lý do bà là vợ không có ký tên nên bà rào.Hội đồng hòa giải xã đề nghị mở rào cho gia đình tôi đi tạm chờ tòa giải quyết nhưng hiện trạng bít đường vẫn tiếp tục. Hiện tại con đường huyết mạch duy nhất của gia đình tôi bị rào bít đường và tôi đã gửi đơn lên Tòa án và đã được thụ lý hồ sơ. Riêng đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của tôi đã bị Chánh án ra quyết định không có cơ sở thực hiện. Mẹ tôi đã 94 tuổi đau yếu không có cách nào đưa đi chuyển viện, con tôi thì còn nhỏ đi học và tôi không có cách nào đi lại bổ sung, cung cấp chứng cứ cho tòa án. Báo Vĩnh Long đã lên tiếng nói về bức xúc nêu trên nhưng phía tòa án vẫn bát bỏ yêu cầu mở đường tạm thời của tôi. Nay tôi hỏi luật sư 1. Làm sao để tôi được mở đường tạm thời đi lại tìm chứng cứ, cung cấp bổ sung và có cách ra vào? Tôi có nên gửi khiếu nại lên tòa án Tỉnh không? 2/ Thời gian giải quyết vụ án kéo dài bao lâu ? 3. Nếu giấy tay vô hiệu tôi không nhận đền bù mà chỉ cần có đường đi lại được không?
Quy định hệ quả khi rút đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự
Cho tôi hỏi tôi là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bị đơn có yêu cầu phản tố, người liên quan có yêu cầu độc lập. Trước phiên tòa sơ thẩm diễn ra, tôi mới biết bị đơn đã rút yêu cầu phản tố rồi. Trao đổi, hiểu lý do với bị đơn nên tôi là nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện có được không? Nếu tôi rút toàn bộ đơn khởi kiện thì người có yêu cầu độc lập có được thay đổi địa vị tố tụng để đứng vào vị trí nguyên đơn không?
Hỏi về tranh chấp chuyển nhượng QSD đất
Năm 2004, bà Võ Thị L có hỏi mua của bà Võ Thị T thửa đất (thổ cư) để làm nhà. Bà T đề nghị giá 2.000.000 đồng nhưng bà L nói cho mượn đất để làm nhà ở vì đang cần và đưa 1 chỉ vàng và nói chỉ vàng coi như cọc để mượn làm 02 năm sau sẽ trả đủ số tiền 2.000.000 đồng. Bà L xây nhà nhưng không ở và sau đó có chồng ở xa, từ đó không nói đến chuyện đất đai. Xin Luật sư tư vấn giúp việc thỏa thuận (miệng) trên có hiệu lực không và bà T muốn yêu cầu tháo dỡ nhà để lấy lại đất được không (bà T đề nghị người thân thông báo cho bà L hoặc cho địa chỉ liên hệ bà L về giải quyết nhưng người thân bà L không phối hợp, hiện nay thửa đất trên vẫn còn trong giấy CNQSD đất của bà T). Theo quy định của pháp luật, bà T phải gửi đơn đến cơ quan nào giải quyết yêu vụ việc trên.
Công ty của tôi (tạm gọi là bên A) có ký hợp đồng với 1 đơn vị thi công xây dựng (tạm gọi là bên B), trong quá trình thi công xây dựng, bên B có thuê 1 đơn vị thí nghiệm kiểm định (tạm gọi là bên B') thực hiện thí nghiệm một số vật tư, vật liệu xây dựng (bê tông, cát, đá, xi măng, thép, ...). Trong quá trình thi công, đối với các hạng mục cần thực hiện thí nghiệm để kiểm chứng chất lượng thi công, bên B và bên B' đã thực hiện đúng theo yêu cầu của bên A và đảm bảo theo quy định của pháp luật. Sau khi bên B thi công xong và được bên A tổ chức nghiệm thu đưa vào sử dụng và nghiệm thu hoàn thành công tác bảo hành. Đến nay, bên B' có gửi văn bản đến bên A với nội dung huỷ bỏ toàn bộ giá trị pháp lý đối với các kết quả thí nghiệm vật liệu xây dựng đối với công trình do bên B thi công với lý do: bên B chưa thanh toán tiền thực hiện thí nghiệm cho bên B'. Qua đây tôi muốn Luật sư hỗ trợ giải thích giúp tôi bên B' gửi văn bản với nội dung như vậy có phù hợp với quy định của pháp luật không. Và trường hợp này xử lý, quy định tại điều nào, luật nào! Xin trân trọng cảm ơn.
Hỏi về việc đổi trả điện thoại
Dạ em xin hỏi là: Ngày 3/12/2022 em có mua một chiếc điện thoại ip13prm, mà bên điện thoại bị lỗi hệ thống này kia đến ngày 14 em mới nhận đt nhưng mà đến bây giờ em vẫn nhận lại 1 cái điện thoại bị hư pin. Đt đó có giá 23tr và em trả trước 6tr và vay lại bên m credit 17tr. Bây giờ em muốn đổi trả lại điện thoại thì như thế nào ạ. Em tính là sẽ trả hết 17tr còn lại cho bên vay và đến của hàng để đổi trả điện thoại để nhận lại 23tr thì có được ko ạ? em cảm ơn ạ.
Giao dịch với các bên liên quan
Chào Luật sư, tôi tên là Sơn, thành viên của Diễn Đàn. Hiện nay công ty tôi đang có vướng mắc về giao dịch với các bên liên quan, xin nhờ Luật sư tư vấn và giải đáp giúp. Cụ thể tình huống như sau: 1. Công ty tôi là công ty niêm yết, có thành lập công ty con là công ty TNHH MTV, hoạt động theo mô hình Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc. Các thành viên Hội đồng thành viên và kiểm soát viên của công ty con do công ty tôi bổ nhiệm. Vậy việc HĐTV công ty con chấp thuận hợp đồng, giao dịch giữa công ty con và công ty tôi có phù hợp với các quy định tại điều 86 Luật Doanh nghiệp 2020 hay không? Nếu không thì ai sẽ là người chấp thuận hợp đồng, giao dịch này? 2. Luật sư làm rõ giúp tôi các thuật ngữ sau tại Luật doanh nghiệp 2020: - “Người có liên quan đến các bên” tại khoản 3 điều 86, “thành viên có liên quan đến các bên trong trong hợp đồng, giao dịch” tại khoản 2 điều 67 và “cổ đông có lợi ích liên quan đến các bên trong hợp đồng, giao dịch” tại khoản 4 điều 167 được hiểu như thế nào? - “Người có liên quan” tại khoản 23 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 cá nhân, tổ chức có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại Luật Doanh nghiệp chưa có định nghĩa là người có liên quan với cá nhân. Vậy người có liên quan đến cá nhân (Tổng giám đốc, Thành viên HĐQT, Thành viên BKS…) gồm những đối tượng nào. Trân Trọng cảm ơn Luật Sư!
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ - Bị đơn chết?
- A ký hợp đồng mua bán đất bằng giấy Tay vs B năm 2000 (B chưa được cấp GCNQSDĐ) ( hợp đồng bằng giấy tay có xác nhận của trưởng thôn) - 2007 B được cấp GCNQSDĐ mà A không biết ( theo tờ khai của A tại Tòa án) - 2020 B chuyển nhượng thửa đất đó cho C (hợp pháp, đúng thủ tục) 2021 A khởi kiện B và C - Y/C: + công nhận Hợp Đồng chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay, và hủy đăng ký biến động QSDĐ của B Chuyển nhượng Cho C. - 2022 B chết khi tòa án mới thụ lý đơn khởi kiện: Vấn đề đặt ra: 1. thẩm quyền của Tòa án là Tòa án Huyện hay tỉnh/TP 2. A phải làm gì khi khởi kiện xong thì B lại chết, nhưng còn bị đơn là C 3. C phải làm những thủ tục gì tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của C ( thực ra đây là 1 vụ án thực tế của 1 sinh viên mới ra trường như em được nhận ủy quyền đại diện cho C, nhưng do còn non kinh nghiệm nên mạnh dạn lên đây xin một số hướng giải quyết tốt hơn ạ, xin cảm ơn tất cả mọi người đã dành thời gian đọc ạ)
I. NỘI DUNG VỤ ÁN Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiên trình bày: Ngày 01/5/1997, vợ chồng bà Trần Minh Huệ, ông Võ Kim Hùng viết giấy tay chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hiên diện tích đất 120m2 (ngang 6m, dài 20m) tại tổ dân phố 5, phường Đoàn Kết, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai với giá 3.000.000 đồng (đất chưa được cấp GCNQSDĐ). Ngày 24/6/1997, bà Hiên đã trả đủ tiền. Bà Huệ giao đất cho gia đình bà Hiên. Vợ chồng bà Hiên đã làm một căn nhà gỗ, diện tích 20m2 để ông Đặng Văn Dũng (chồng bà Hiên) sửa xe. Đến năm 2008, ông Dũng bị bệnh nên bà Hiên cho người khác thuê. Năm 2010, căn nhà không có ai ở. Năm 2011, bà Nguyễn Thị Hiên làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì biết toàn bộ phần diện tích đất của Bà đã được cấp GCNQSDĐ cho ông Võ Tấn Sỹ (anh ông Võ Kim Hùng, chồng bà Huệ). Bà Hiên đã khởi kiện đòi lại đất, nhưng bà Huệ hứa để Bà khởi kiện ông Võ Tấn Sỹ, sau đó sẽ trả lại đất cho Bà nên bà Hiên rút đơn khởi kiện. Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2013/QĐST- DS ngày 06/3/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai thể hiện: Ồng Võ Tấn Sỳ đồng ý trả lại cho bà Trần Minh Huệ và các con của bà Huệ (chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Vĩnh Huy, anh Võ Trần Nhật Huy và anh Võ Trần Khắc Huy) diện tích 571,1m2 đất, trong đó có 120m2 đất đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hiên. Sau khi được ông Võ Tấn Sỹ trả đất, bà Trần Minh Huệ đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp GCNQSDĐ số CD 826097 ngày 25/3/2016 đối với thửa đất số 73, tờ bản đồ số 2, diện tích 545,4 m2 cho chị Võ Ngọc Diệu Hiền (là người đại diện cho những người cùng sử dụng đất gồm bà Trần Minh Huệ, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy) mà không giao đất cho bà Hiên. Diện tích đất của bà Hiên có một phần bị quy hoạch, diện tích còn lại theo kết quả thẩm định là 100,4m2. Bà Hiên đề nghị tòa án giải quyết: - Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa ông Võ Kim Hùng, bà Trần Minh Huệ với bà Nguyễn Thị Hiên. - Buộc anh Võ Trần Nhật Huy, bà Trần Minh Huệ, chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khấc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy trả cho Bà diện tích đất 100,4m2 hoặc bà Trần Minh Huệ cùng các con phải thanh toán giá trị diện tích đất sang nhượng theo kết quả định giá. Bị đơn bà Trần Minh Huệ trình bày: Năm 1995, vợ chồng bà Trần Minh Huệ, ông Võ Kim Hùng được mẹ ông Hùng (cụ Phạm Thị Tin) cho mượn một thửa đất (nay là thửa đất số 269). Lúc đó, bà Nguyễn Thị Hiên có xin thuê đất để ông Đặng Văn Dũng (chồng bà Hiên) sửa xe đạp. Hai bên chỉ thuê bàng miệng, không có hợp đồng. Năm 1997, ông Võ Kim Hùng bị bệnh nặng nên bà Huệ nhiều lần mượn tiền của bà Hiên tổng cộng là 2.400.000 đồng. Sau dó, chồng Bà bị bệnh nặng không có tiền chữa trị nên bà Huệ đã viết giấy sang nhượng đất theo yêu cầu của bà Hiên. Việc sang nhượng này chỉ có bà Huệ biết (mẹ chồng và chồng Bà không biết). Chữ ký của ông Võ Kim Hùng trong Giấy sang nhượng đất là do bà Huệ tự ký. Năm 2000, bà Nguyễn Thị Hiên không ở thửa đất đã thuê và để lại nhà tạm cho đến nay. Bà Huệ đã nhiều lần tìm bà Hiên để trả 3.000.000 đồng, nhưng bà Hiên không lấy. Năm 2015, bà Hiên khởi kiện đòi quyền sử dụng đất nhung sau đó rút đơn. Năm 2016, gia đình bà Huệ được cấp GCNQSDĐ theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 01/2013/QĐ-ST-DS ngày 06/3/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa. Bà Huệ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Hiên chỉ đề nghị trả lại cho bà Hiên 3.000.000 đồng và tính lãi suất theo quy định của Ngân hàng từ năm 1997 đến nay. Người có quyền lợi nghĩa vụ tiên quan: Chị Nguyễn Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và Võ Trần Vĩnh Huy (con bà Huệ) thống nhất với trình bày của bà Huệ và có yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án tuyên bố Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa ông Võ Kim Hùng, bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Hiên vô hiệu. II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2020/DS-ST ngày 17-9-2020, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định: ‘'Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiên. 1. Công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997, giữa bên chuyển nhượng bà Trần Minh Huệ với bên nhận chuyển nhượng ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên. 2. Buộc anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy di dời các tài sản trên đất gồm... ra khỏi diện tích đất tranh chấp. 3. Buộc bà Trần Minh Huệ, chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy trả lại cho bà Nguyễn Thị Hiên diện tích đất đã chuyển nhượng là 100,4m2, thuộc thửa 73 (76), tờ bản đồ số 2, theo GCNQSDĐ số CD826097 ngày 25/3/2016, có tứ cận...(có sơ đồ Trích lục thửa đất kèm theo bản án). Bà Nguyễn Thị Hiên có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện đăng ký cấp quyền sử dụng đất theo quy định. 4. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CD 826097 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 25/3/2016 mang tên Võ Ngọc Diệu Hiền (là người đại diện cho những người cùng sử dụng đất gồm: Bà Trần Minh Huệ, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Khắc Huy, anh Võ Trần Vĩnh Huy). 5. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu, buộc bà Trần Minh Huệ cùng các con thanh toán giá trị diện tích đất sang nhượng theo kết quả định giá và yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ đất số CD 826389 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp cho Võ Ngọc Diệu Hiền ngày 29/8/2016 ”, Kháng cáo: Bị đơn bà Trần Minh Huệ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy kháng cáo toàn bộ bản án. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nằng phát biểu đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn và kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy sang nhượng đất” ngày 01/5/1997 vô hiệu, với nhận định lỗi của bà Nguyễn Thị Hiên và bà Trần Minh Huệ theo tỷ lệ 50/50 và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Bản án dân sự phúc thẩm số 187/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định: “Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. - Chấp nhận kháng cáo của bị đơn là bà Trần Minh Huệ và kháng cáo của những người cổ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2020/DS-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiên về các yêu cầu sau: + Yêu cầu công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy sang nhượng đất’’ ngày 01/5/1997 giữa bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên. + Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số GD 826097 do Sở Tài nguyên và Môi trưòng tỉnh Gia Lai cấp ngày 25/3/2016 mang tên chị Võ Ngọc Diệu Hiền (đại diện cho những người cùng sử dụng đất: Bà Trần Minh Huệ, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy). - Chấp nhận ý kiến phản đối của bị đơn bà Trần Minh Huệ và yêu cầu độc lập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Võ Ngọc Diệu Hiền, anh Võ Trần Nhật Huy, anh Võ Trần Khắc Huy và anh Võ Trần Vĩnh Huy. + Tuyên giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy sang nhượng đất’’ để ngày 01/5/1997 giữa bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên vô hiệu. + Buộc bà Trần Minh Huệ phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Hiên 642.725.000 đồng (sáu trăm bốn mươi hai triệu, bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM Nguồn gốc thửa đất tranh chấp là của vợ chồng cụ Võ Ngân Hà và cụ Phạm Thị Tin khai hoang từ năm 1966. Cụ Hà và cụ Tin có 03 ngườ'i con (ông Võ Tấn Sỹ, Võ Văn Bốn và Võ Kim Hùng). Năm 1967, cụ Hà chết. Cụ Tin và các con tiếp tục quản lý, sử dụng thửa đất này. Năm 1995, ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên thuê của ông Võ Kim Hùng, bà Trần Thị Huệ một khoảnh đất trống để sửa xe đạp (vợ chồng ông Hùng, bà Huệ ở nhờ trên đất của cụ Tin). Ngày 01/5/1997, bà Trần Minh Huệ (vợ ông Võ Kim Hùng) ký “Giấy sang nhượng đất” cho ông Đặng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Hiên, diện tích đất 120m2 trong thửa đất 545,4m2 của cụ Phạm Thị Tin. Đến tháng 10/1997, cụ Tin chết. Như vậy, thời điểm bà Trần Minh Huệ viết “Giấy sang nhượng đất” ngày 01/5/1997 cho bà Nguyễn Thị Hiên thì thửa đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của cụ Phạm Thị Tin và cụ Võ Ngân Hà. Cụ Võ Ngân Hà chết, các đồng thừa kế chưa có sự phân chia di sản thừa kế của cụ Hà. Nhưng bà Trần Minh Huệ tự ý chuyển nhưọng đất của gia đình cụ Phạm Thị Tin là vi phạm Điều 6 và khoản 1 Điều 30 của Luật Đất đai năm 1993 và tại thời điểm giao dịch, cụ Phạm Thị Tin vẫn còn sống, nhưng không có sự đồng ý của cụ Tin và những người con của cụ Tin là không đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 bà Huệ thừa nhận tự viết và ký thay ông Võ Kim Hùng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định: Mặc dù, giao dịch chuyển nhượng đất tại thời điểm ngày 01/5/1997, không phù họp về hình thức, nhưng đúng với ý chí, nguyện vọng của các bên, không trái đạo đức xã hội nên áp dụng Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và Án lệ số 16/2017/AL được Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14/12/2017 để công nhận Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa ông Võ Kim Hùng, bà Trần Minh Huệ với ông Đặng Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Hiên và buộc gia đình bà Huệ phải trả cho bà Nguyễn Thị Hiên diện tích đất đã chuyển nhượng 104,14m2 là không đúng với nội dung Án lệ nêu trên vì: Diện tích 100,4m2 đất bà Huệ chuyển nhượng cho vợ chồng bà Hiên, ông Dũng nằm trong tổng diện tích đất 545,4m2 thuộc thửa đất số 73 (76), tờ bản đồ số 2 là tài sản chung của vợ chồng cụ Võ Ngân Hà và cụ Phạm Thi Tin. Cụ Hà chết chưa được phân chia di sản thừa kế nên không phải là tài sản chung của vợ chồng bà Trần Minh Huệ và ông Võ Kim Hùng. Bà Hiên cũng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng. Vì vậy, vụ án cần xác định Giấy sang nhượng đất ngày 01/5/1997 giữa bà Nguyễn Thị Hiên với bà Trần Thị Huệ, ông Đặng Văn Dũng bị vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo tỷ lệ lỗi của các đương sự mới đúng quy định tại các Điều 131, 133, 136 và 139 của BLDS năm 1995; Điều 6, khoản 1, Điều 30 của Luật Đất đai.
Thắc mắc về hợp đồng xây dựng?
Xin chào Luật sư! Lời đầu tiên xin chúc Luật sư sức khỏe, hạnh phúc. Em có vấn đề thắc mắc xin Luật sư giải đáp giúp em với ạ. Em có thực hiện gói thầu Tư vấn thiết kế BVTC - Tổng dự toán ban đầu Chủ đầu tư xác định giá trị HĐ dựa trên khái toán và chỉ định thầu, ký HĐ với giá trị HĐ là 100 triệu, thời gian thực hiện HĐ là 30 ngày. Sau khi được các cơ quan chức năng thẩm định và phê duyệt hồ sơ báo cáo Kinh tế kỹ thuật thì giá trị gói thầu theo dự toán được duyệt lúc này giảm xuống còn 90 triệu. Sau khi được phê duyệt BCKTKT thì Chủ đầu tư và nhà thầu tư vấn ký Phụ lục HĐ giảm trừ giá trị xuống còn 90 triệu đồng (sau thời gian 30 ngày thực hiện HĐ). Tuy nhiên, khi thanh toán sang Kho bạc nhà nước lại không đồng ý, trả hồ sơ về với lý do PLHĐ phải được ký trong thời gian thực hiện HĐ (nghĩa là phải ký trong thời gian 30 ngày thực hiện HĐ), đơn vị có giải trình là trong thời gian thực hiện HĐ thì Hồ sơ báo cáo KTKT chưa được phê duyệt nên chưa có cơ sở pháp lý để ký PLHĐ giảm trừ thanh toán. Nhưng Kho nạc không đồng ý và trả hồ sơ. Xin hỏi Luật sư trường hợp trên Kho bạc trả hồ sơ có đúng hay không? Nếu đúng thì cơ sở nào để điều chỉnh giá trị thanh toán như yêu cầu của Kho bạc? Xin chân thành cảm ơn Luật sư! Tha thiết mong Luật sư giải đáp giúp ạ
Cho em hỏi ai có từng dùng luật bang nào của Mỹ để giải quyết tranh chấp hợp đồng chưa ạ?
Mọi người cho em hỏi ai có từng dùng luật bang nào của Mỹ để giải quyết tranh chấp hợp đồng chưa? Và nhân tiện có link các văn bản luật đấy không, chia sẻ giúp em với ạ! Em xin cảm ơn
Tranh chấp giao dịch xác lập bằng lời nói
Chào mọi người, vấn đề mình muốn chia sẻ được thể hiện qua một tình huống như sau: Ông A đã mượn tiền của ông B với số tiền là 15 triệu đồng dùng với mục đích Ông A mua bò giống, do là bạn nên ông B đã tin tưởng và cho vay, việc mượn tiền chỉ được xác lập bằng lời nói, không thông qua bất kỳ giấy tờ ký kết vay nợ nào, đã đến thời hạn trả tiền nhưng ông A lại từ chối không muốn trả. Vậy, trong trường hợp trên ông B có đòi được số tiền cho vay trên hay không? Nếu muốn lấy lại được số tiền cho vay Ông B phải làm như thế nào nếu ông A nhất quyết không trả? Quan điểm của mình về tình huống này thì tại Bộ Luật dân sự 2015 có nêu: Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể... Theo đó, đối với trường hợp vay của ông A và ông B thì hai bên có thể giao kết bằng lời nói mà không bắt buộc phải bằng văn bản. Khi đó, nếu ông A không thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận thì ông B có quyền đòi lại khoản tiền cho vay. Trước tiên vẫn là trên tinh thần thỏa thuận, ông B có thể liên hệ lại ông A để thỏa thuận về việc trả tiền. Nếu ông A không trả thì ông B có thể khởi kiện ông A ra Tòa án nhân dân cấp quận/huyện để yêu cầu trả nợ theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do hai bên giao kết hợp đồng bằng lời nói nên để Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông B thì ông B cần chứng minh giao dịch cho vay đó có xảy ra và ông A đang vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Việc chứng minh có giao dịch này do không có hợp đồng bằng văn bản nên có thể chứng minh thông qua hình ảnh, lời nói, ghi âm, các video clip, sao kê ngân hàng, hay các đoạn tin nhắn, trò chuyện được sao chụp lại giữa ông A và B đề cập về giao dịch này. Khi Thẩm phán thấy đủ cơ sở chứng minh giao dịch này có xảy ra và ông A không thực hiện nghĩa vụ thì Tòa sẽ chấp nhận yêu cầu của ông B, yêu cầu ông A trả tiền cho ông B. Mọi người có cách nào hay hơn để giúp ông B đòi lại tiền thì cùng chia sẻ nhé!
Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm - mất trộm xe ô tô?
Xin chào Luật sư. Tôi xin hỏi Luật sư vụ việc liên quan đến tranh chấp Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, cụ thể như sau: 1. Tóm tắt diễn biến vụ việc: Khách hàng mua bảo hiểm vật chất xe ô tô của Công ty tôi ( trong đó có bảo hiểm mất trộm, cướp)/ Trong thời hạn được bảo hiểm, khách hàng báo mất xe ô tô và yêu cầu Công ty tôi bồi thường/ Tôi hướng dẫn khách hàng trình báo Công an - Công an ghi nhận có vụ việc trình báo mất trộm xe ô tô/ sau 1 thời gian, cơ quan Công an ra Quyết định nói rõ: Tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm sau khi tiến hành kiểm tra, xác minh theo quy định của Bộ luật TTHS và Thông tư 01/2017/TTLT-BCA...; Khi nào có tài liệu mới, Công an sẽ phục hồi giải quyết vụ việc. Quan điểm của khách hàng: Tôi mua bảo hiểm (trong đó có bảo hiểm mất trộm, cướp); nay chiếc xe đó mất; Công ty phải bồi thường. Quan điểm của Công ty tôi: Chủ xe báo ô tô bị mất mà Cơ quan Công an chỉ duy nhất ghi nhận là có người đến trình báo mất xe - sau khi tiến hành kiểm tra xác minh đã không khởi tố vụ án hình sự mà ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc ( lưu ý là tạm đình chỉ giải quyết vụ việc) , nên chúng tôi cho rằng chiếc xe trên chưa có bằng chứng là bị mất trộm ( sự việc này - chỉ chủ xe nói là xe bị mất ngoài ra không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào; Công an thì cho rằng chưa đủ bằng chứng để khởi tố...); Điều đáng quan tâm ở đây là 1 chiếc ô tô, để ở giữa trung tâm Hà Nội, báo mất mà Công an không thấy thấy có dấu hiệu của tội phạm nên mới không khởi tố vụ án hình sự... Theo Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới được Bộ Tài chính chấp thuận thì xe ô tô chỉ được coi là mất cắp khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự hay quyết định đình chỉ vụ án hình sự ( tại VN việc mua bán trao tay không sang tên đổi chủ... vẫn tồn tại ) 2. Xin hỏi Luật sư: Theo quan điểm của Luật sư, chiếc xe ô tô nói trên có được coi là bị mất trộm hay không và tại sao? Rất mong nhận được ý kiến của Luật sư. Xin trân trọng cám ơn.
Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần
Kính gửi luật sư: Tôi có mua cổ phần của một công ty cổ phần và đã nộp đầy đủ số tiền nhưng công ty lại không làm thủ tục công nhận tôi là cổ đông của công ty cùng với một vài mâu thuẫn trong công việc.Tôi có ý định khởi kiện công ty ra tòa yêu cầu hoàn trả toàn bộ số vốn đã bỏ ra cùng với tiền lãi nhưng công ty lại không đồng ý trả tiền mà chỉ đồng ý cho tôi sang nhượng cổ phần nếu có người nhận. Xin hỏi luật sư tôi làm như vậy đúng hay sai ? Xin cám ơn luật sư.
Xin hỏi về giải quyết bài tập tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần
Nguyên đơn: Ông Trần A Bị đơn: Công ty Cổ phần SS NỘI DUNG VỤ ÁN Nguyên đơn (ông Nguyễn Trần A.) trình bày Chấp thuận lời đề nghị của Công ty cổ phần SS, ngày 3/12/2004 và 18/2/2005, ông Nguyễn Trần A. đã nộp tiền vào công ty để mua 1.700 cổ phần của công ty với giá 300.000 VNĐ/ cổ phần, tổng cộng là 510.000.000 VNĐ. Sau đó, do Công ty cổ phần SS không chịu làm thủ tục công nhận ông là cổ đông của công ty, đồng thời cũng do bất đồng về quan điểm hợp tác và làm việc, ông A. đã yêu cầu công ty phải hoàn trả toàn bộ khoản tiền mà ông đã nộp cho công ty để mua cổ phần nói trên. Công ty SS đã hoàn trả cho ông A. 70.000.000 VNĐ, nhưng phần tiền còn lại 440.000.000 VNĐ thì không đồng y trả lại mà chỉ đồng ý để ông A. sang nhượng cổ phần. Do đó, ông Nguyễn Trần A. khởi kiện yêu cầu Công ty SS phải hoàn trả cho ông 440.000.000 VNĐ vốn và số tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất 21%/năm, tạm tính cho đến ngày làm đơn kiện (5/6/2008) là 329.997.500 VNĐ và số tiền lãi phát sinh sau khi làm đơn khởi kiện (theo mức lãi suất 10,5%/năm) là 74.786.000 VNĐ, tổng cộng là 844.783.500 VNĐ. Bị đơn (Công ty cổ phần SS) trình bày Không chấp nhận yêu cầu đòi lại tiền của nguyên đơn mà chỉ đồng y làm thủ tục chuyển nhượng nếu có người nhận chuyển nhượng cổ phần của ông A. Em cần sử dụng những lý lẽ, lập luận để bảo vệ nguyên đơn ạ ?
Kỹ năng nghiên cứu tính pháp lý của hợp đồng khi có tranh chấp
Tham khảo: >>> HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ >>> Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự >>> Tài liệu kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án Dân sự Ngày nay, các tranh chấp về giao kết hợp đồng diễn ra khá phổ biến, như: Tranh chấp về hợp đồng ủy thác; Hợp đồng cho thuê hàng hóa; Hợp đồng vận tải;...vậy trong quá trình nghiên cứu lại các hợp đồng tranh chấp này nên bắt đầu từ đâu? nghiên cứu như thế nào? để tìm những cơ sở có lợi cho mình thì mời các bạn cũng tham khảo bài viết được mình tổng hợp và nêu ra dưới đây như sau: Thứ nhất: Kiểm tra hợp đồng đã giao kết có hiệu lực pháp luật không? Để xác định hợp đồng có hiệu lực pháp luật hay không cần căn cứ các điều luật được quy định tại Bộ luật dân sự 2015 như sau: - Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự; - Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu; - Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; - Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo; - Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn; Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; - Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; - Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức; - Điều 130. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần Ngoài những căn cứ nêu trên, trong quá trình nghiên cứu có thể tìm kiếm thêm các văn bản điều chỉnh khác liên quan đến hợp đồng để xem xét thêm các dấu hiệu khác có thể làm vô hiệu hợp đồng. Ví dụ: Đối với hợp đồng kinh doanh bảo hiểm -> xem thêm tại Luật kinh doanh bảo hiểm có điều khoản nào liên quan dẫn đến vô hiệu hợp đồng không; Hợp đồng vận tải;….. Thêm đó, cần nghiên cứu về tư cách chủ thể ký kết hợp đồng, mục đích và nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật không? người ký hợp đồng có tự nguyện không? quan hệ hợp đồng có được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hay không ? (Lưu ý: đây là điểm hết sức quan trọng bởi trong hoạt động kinh doanh trường hợp các bên xác lập các giao dịch giả tảo nhằm lách luật để hưởng lợi xảy ra không ít), có bị nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng hay đối tượng ký kết không, khi xác lập quan hệ hợp đồng các bên có bị lừa đối, de doạ không… Mặt khác, xem kĩ có vi phạm hình thức lập hợp đồng hay không? như: hợp đồng có bắt buộc phải công chứng, chứng thực không;… Vì để bảo vệ quyền lợi của khách hàng (tức người mình bảo vệ của một trong hai bên thực hiện giao kết) được thực hiện tới tới đâu thì phụ thuộc vào hợp đồng giao kết có hiệu lực hay không? vô hiệu toàn phần? một phần hay như thế nào? Vì tòa án sẽ giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu chứ không xem xét đến các yêu cầu cụ thể của các bên. Thứ hai: Đọc kĩ, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định như thế nào? Sau khi xác định được giao kết hợp đồng có hiệu lực hay không, thì đi sâu vào nghiên cứu các điều khoản do hai bên thỏa thuận. Vì ngoài các quy định của pháp luật, thì thỏa thuận giữa hai bên trong hợp đồng cũng được căn cứ để giải quyết khi xảy ra tranh chấp. Xem thử có điều khoản hai bên thỏa thuận có phù hợp với quy định pháp luật không, điều khoản nào có lợi và điều khoản nào bất lợi, liệu có điều khoản nào ràng buộc trách nhiệm của từng bên hay không? hay những điều khoản nào còn lỏng lẻo, chưa rõ ràng trong hợp đồng để xác định có lợi hay có hại trong quá trình giải quyết... Thứ ba: Hợp đồng có quy định thêm các chế tài khi vi phạm hợp đồng không? Theo đó, các điều khoản do hai bên thỏa thuận về phạt vi phạm cũng hết sức quan trọng. Cần xem các điều khoản đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không? các căn cứ xử phạt đó có hợp lý không và sự nỗ lực khác phục thiệt hại của hai bên được thực hiện như thế nào?... Ví dụ: như trong hợp đồng mua bán hàng hóa có điều khoản về “nếu bên A vi phạm nghĩa vụ giao hàng thì mức bồi thường thiệt hại là 10%”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 301, Luật thương mại 2005 quy định mức phạt bồi thường do hai bên thỏa thuận, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng. Do đó, trong trường hợp hợp đồng quy định chế tài là 10% là vi phạm quy định. Thứ tư: Quá trình thực hiện hợp đồng của hai bên như thế nào? có điều gì bất thường hay không? Dựa vào dữ liệu liên quan, hồ sơ vụ việc, lời khai của người bị hại,...để xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng thì ai là người vi phạm hợp đồng; Mức độ vi phạm như thế nào; Nguyên nhân dẫn đến vi phạm là từ đâu; Thiện chí thực hiện hợp đồng của các bên thể hiện như thế nào;.. Lưu ý: - Khi nghiên cứu về hợp đồng không nên quá cứng nhắc về việc chỉ xem xét các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng, mà cần xem xét trong quá trình thực hiện hợp đồng có việc trao đổi, thương lượng lại giữa các bên về việc thực hiện các nghĩa vụ liên quan hay không? Theo đó, việc trao đổi, thương lượng đó được coi như là những thoả thuận mới, khi đó thoả thuận cũ của hợp đồng không còn hiệu lực. - Việc nghiên cứu hồ sơ sẽ hết sức phiến diện nếu chỉ nghiên cứu nội dung ghi nhận trong hợp đồng, mà cũng nên nghiên cứu thêm các tài liệu liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng như: Hồ sơ pháp nhân; Giấy uỷ quyền; Công văn trao đổi; Hoá đơn chứng từ, biên bản giao nhận…và kiểm tra các tài liệu để xác định tư cách chủ thể ký kết hợp đồng có đúng luật không, như: giấy đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm; biên bản bầu chức danh giám đốc, giấy uỷ quyền ký kết hợp đồng… Trên đây là những hướng dẫn cơ bản về việc nghiên cứu tính pháp lý của hợp đồng khi có tranh chấp trong giao dịch dân sự. Mong rằng sẽ giúp ích cho các bạn. Nếu bạn nào có thêm kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu, có ý bổ sung cùng để lại bình luận để cùng tham khảo nhé.
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất
A/C luật sư cho tôi hỏi vấn đề thế nay! Chuyện là ngoại tôi năm nay 83t .có bán cho người hàng xóm 1 miếng đất (cũng hơn 10 năm rồi ) mà chưa cắt sổ gì hết . Đến năm 2018 này người đó đến nhà hỏi mượn sổ để cắt (phần đã bán cho người đó ) nhưng khi làm thì người đó không làm thủ tục cắt sổ. Mà làm thủ tục hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích sổ đứng tên ngoại tôi qua tên người đó. Khi gia đình tôi biết chuyện và có nhờ ban hòa giải ở thôn giải quyết. Ban hòa giải thôn giải quyết thì người đó hứa hẹn sẽ sang tên sổ lại cho ngoại tôi. Nhưng đến nay gần 1 năm trôi qua người đó vẫn hẹn tới hẹn lui không muốn trả sổ. Nay tôi A/C vụ việc này có thể khởi kiện không ? và thủ tục cách viết đơn thế nào. Được biết phần đất ngoại tôi bán cho không nằm trong sổ ngoại tôi đứng tên. Ngoại tôi già 83t không đọc được. Người đó lừa lên UBND ký chứng thực hợp đồng chuyển nhượng. Không biết có phải lừa đảo chiếm đoạt tài sản không luật sư.
04 vấn đề phải biết khi khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Không ít trường hợp cho người khác vay tiền mà không đòi được buộc phải khởi kiện ra tòa để nhờ Tòa án phân xử dùm. Có trường hợp thì đòi được cả gốc lẫn lãi nhưng cũng có trường hợp không đòi được gì cả. Cùng mình điểm qua một số nguyên nhân khiến bạn không đòi được tiền Một là, hết thời hiệu khởi kiện Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Theo quy định này, cần phải lưu ý đến vấn đề thời gian khởi kiện. Đây là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Chúng ta sẽ không được khởi kiện ra tòa để đòi tiền được nữa. Hai là, chứng cứ không đủ giá trị chứng minh Trong những tranh chấp dân sự thì vấn đề quan trọng nhất đó là những chứng cứ và khả năng chứng minh của các đương sự, đó là những vấn đề có tính chất quyết định. Thông thường, trong các vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, chứng cứ duy nhất mà bên cho vay xuất trình rất sơ sài, thường chỉ là biên nhận tiền. Điều này đôi khi sẽ gây khó khăn cho việc khởi kiện. Chẳng hạn Tòa án khó xác định rằng bên vay đã vi phạm thời gian trả nợ hay chưa, chỉ khi bên vay vi phạm thời gian trả nợ thì mới đủ căn cứ để Tòa án giải quyết hoặc bị đơn không thừa nhận chữ ký, chữ viết trong giấy biên nhận vay tiền, lúc đó lại tốn thời gian trong việc xác minh thông tin trên biên nhận. Ba là, xác định lãi suất, thời điểm tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản Đây là một dung vừa được làm rõ trong Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm sẽ có hiệu lực vào ngày 15/03/2019. Việc xác định lãi suất và thời gian chậm trả để đưa ra số tiền yêu cầu bên kia sẽ trả sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi và số tiền án phí phải nộp. Bốn là, vấn đề án phí Số tiền yêu cầu bên vay trả cũng là một vấn đề cần lưu ý vì nó sẽ liên quan đến số tiền đóng án phí, chúng ta nên đòi số tiền mà có đủ bằng chứng và chứng minh được, với số tiền không có đủ bằng chứng khi đòi không được Tòa án không công nhận thì chúng ta phải đóng án phí trên số tiền đó. Bên dưới là bảng tính án phí dân sự sơ thẩm được ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án 1.3 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000. 000 đồng + 4% của phầngiá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.
Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần
Bản án số 2: Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trần A Bị đơn: Công ty Cổ phần Sao Sáng NỘI DUNG VỤ ÁN Nguyên đơn (ông Nguyễn Trần A.) trình bày Chấp thuận lời đề nghị của Công ty cổ phần Sao Sáng, ngày 3/12/2004 và 18/2/2005, ông Nguyễn Trần A. đã nộp tiền vào công ty để mua 1.700 cổ phần của công ty với giá 300.000 VNĐ/ cổ phần, tổng cộng là 510.000.000 VNĐ. Sau đó, do Công ty cổ phần Sao Sáng không chịu làm thủ tục công nhận ông là cổ đông của công ty, đồng thời cũng do bất đồng về quan điểm hợp tác và làm việc, ông A. đã yêu cầu công ty phải hoàn trả toàn bộ khoản tiền mà ông đã nộp cho công ty để mua cổ phần nói trên. Công ty Sao Sáng đã hoàn trả cho ông A. 70.000.000 VNĐ, nhưng phần tiền còn lại 440.000.000 VNĐ thì không đồng y trả lại mà chỉ đồng y để ông A. sang nhượng cổ phần. Do đó, ông Nguyễn Trần A. khởi kiện yêu cầu Công ty Sao Sáng phải hoàn trả cho ông 440.000.000 VNĐ vốn và số tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất 21%/năm, tạm tính cho đến ngày làm đơn kiện (5/6/2008) là 329.997.500 VNĐ và số tiền lãi phát sinh sau khi làm đơn khởi kiện (theo mức lãi suất 10,5%/năm) là 74.786.000 VNĐ, tổng cộng là 844.783.500 VNĐ. Bị đơn (Công ty cổ phần Sao Sáng) trình bày Không chấp nhận yêu cầu đòi lại tiền của nguyên đơn mà chỉ đồng y làm thủ tục chuyển nhượng nếu có người nhận chuyển nhượng cổ phần của ông A.
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Công ty TNHH A có đặt hàng ở công ty tôi là loại hàng gạch men gồm 300T 25467 và 700T 25467 loại gạch 25×40 số lượng 1094, đơn giá 63.986₫ thành tiền là 77.000752. Tuy nhiên đến ngày thanh toán họ chỉ thanh toán 36.170.500₫ mà theo tôi biết sau khi thanh toán toàn bộ nợ công ty TNHH A đã giải thể. Theo như giải thích của người đại diện công ty TNHH A thì họ không đồng ý thanh toán toàn bộ số tiền vì nói rằng bên tôi giao gạch men không đúng yêu cầu và họ đã phải chịu chi phí tổng cộng là 40.829.500₫ cho khách hàng vì khách hàng không đồng ý. Luật sư cho tôi hỏi tôi phải làm gì để đòi lại quyền lợi cho công ty mình? Cảm ơn luật sư đã dành thời gian cho câu hỏi này.
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
Xin luật sư giải đáp giúp câu hỏi như sau: Tôi có mua một mãnh đất chiều ngang 1m x15,34m của ông Hùng năm 2010 làm lối đi mặc dù trước kia con đường này là đường đi từ thời ông bà tôi. Tôi có làm giấy viết tay có ông Hùng và 2 con trai ông ký, có 2 người liên ranh đất ký làm chứng và tôi có đem cho chính quyền Trưởng ấp ký xác nhận. Lúc đó vợ ông Hùng đã đi từ 2008 đến nay lại về rào đường với lý do bà là vợ không có ký tên nên bà rào.Hội đồng hòa giải xã đề nghị mở rào cho gia đình tôi đi tạm chờ tòa giải quyết nhưng hiện trạng bít đường vẫn tiếp tục. Hiện tại con đường huyết mạch duy nhất của gia đình tôi bị rào bít đường và tôi đã gửi đơn lên Tòa án và đã được thụ lý hồ sơ. Riêng đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của tôi đã bị Chánh án ra quyết định không có cơ sở thực hiện. Mẹ tôi đã 94 tuổi đau yếu không có cách nào đưa đi chuyển viện, con tôi thì còn nhỏ đi học và tôi không có cách nào đi lại bổ sung, cung cấp chứng cứ cho tòa án. Báo Vĩnh Long đã lên tiếng nói về bức xúc nêu trên nhưng phía tòa án vẫn bát bỏ yêu cầu mở đường tạm thời của tôi. Nay tôi hỏi luật sư 1. Làm sao để tôi được mở đường tạm thời đi lại tìm chứng cứ, cung cấp bổ sung và có cách ra vào? Tôi có nên gửi khiếu nại lên tòa án Tỉnh không? 2/ Thời gian giải quyết vụ án kéo dài bao lâu ? 3. Nếu giấy tay vô hiệu tôi không nhận đền bù mà chỉ cần có đường đi lại được không?