Trẻ em có được bảo đảm tiếp cận những thông tin truyền thông cũng như sức khỏe, giáo dục hay không?
Hiện nay thì còn rất nhiều trẻ em ở vùng sâu vùng xa khó khăn trong việc tiếp cận thông tin cũng như giáo dục, thì không biết rằng nhà nước ta có những quy định nào để đảm bảo cho việc này hay không? Trẻ em có được bảo đảm tiếp cận những thông tin truyền thông hay không? Căn cứ tại Điều 46 Luật Trẻ em 2016 có quy định về bảo đảm thông tin, truyền thông cho trẻ em như sau: - Nhà nước bảo đảm trẻ em được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, tìm hiểu, học tập, trao đổi kiến thức qua các kênh thông tin, truyền thông phù hợp. - Các cơ quan thông tin, xuất bản phải dành tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời lượng phát thanh, truyền hình, ấn phẩm phù hợp cho trẻ em. Thông tin, đồ chơi, trò chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật, điện ảnh có nội dung không phù hợp với trẻ em phải thông báo hoặc ghi rõ độ tuổi trẻ em không được sử dụng. - Nhà nước khuyến khích phát triển thông tin, truyền thông phù hợp với sự phát triển toàn diện của trẻ em; sản xuất, đăng tải nội dung, thông tin với thời lượng thích hợp cho trẻ em dân tộc thiểu số. Như vậy, nhà nước sẽ bảo đảm cho trẻ em được tiếp cận những thông tin về học tập bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, tìm hiểu, trao đổi kiến thức qua các kênh thông tin, truyền thông phù hợp theo quy định nêu trên. Nhà nước bảo đảm về chăm sóc sức khỏe của trẻ em như thế nào? Căn cứ tại Điều 43 Luật Trẻ em 2016 có quy định về bảo đảm về chăm sóc sức khỏe trẻ em như sau: - Nhà nước có chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. - Nhà nước bảo đảm thực hiện các biện pháp theo dõi sức khỏe định kỳ cho phụ nữ mang thai và trẻ em theo độ tuổi; chăm sóc dinh dưỡng, sức khỏe ban đầu và tiêm chủng cho trẻ em; phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; tư vấn và hỗ trợ trẻ em trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi theo quy định của pháp luật. - Ưu tiên tư vấn, bảo vệ, chăm sóc về sức khỏe, dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai, bà mẹ nuôi con dưới 36 tháng tuổi và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới 36 tháng tuổi, trẻ em bị xâm hại phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. - Nhà nước có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh; giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là tử vong trẻ sơ sinh; xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em. - Nhà nước đóng, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế phù hợp với độ tuổi, nhóm đối tượng và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. - Nhà nước có chính sách, biện pháp để trẻ em được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh và điều kiện vệ sinh cơ bản, bảo đảm an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật. - Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ủng hộ, đầu tư nguồn lực để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Như vậy, Nhà nước sẽ có những chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em đều được chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, Nhà nước còn đẩy mạnh các biện pháp đảm bảo sức khỏe cho trẻ em theo các quy định nêu trên Về giáo dục cho trẻ em thì sẽ được Nhà nước bảo đảm như thế nào? Căn cứ tại Điều 44 Luật Trẻ em 2016 có quy định bảo đảm về giáo dục cho trẻ em như sau: - Nhà nước có chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học; có chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được tiếp cận giáo dục phổ cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi và pháp luật về lao động. - Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, bảo đảm công bằng về cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi trẻ em; giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật; có chính sách miễn, giảm học phí cho từng nhóm đối tượng trẻ em phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. - Chương trình, nội dung giáo dục phải phù hợp với từng độ tuổi, từng nhóm đối tượng trẻ em, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện và yêu cầu hội nhập; chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và phát triển nhân cách, kỹ năng sống, tài năng, năng khiếu của trẻ em; giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho trẻ em. - Nhà nước quy định môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường. - Nhà nước có chính sách phù hợp để phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi và chính sách hỗ trợ để trẻ em trong độ tuổi được giáo dục mầm non phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ; khuyến khích, thu hút các nguồn đầu tư khác để phát triển giáo dục, đào tạo. Như vậy, Nhà nước sẽ có các chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học; có chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tiếp cận giáo dục phổ cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi Từ những căn cứ nêu trên, Nhà nước ta luôn đẩy mạnh các biện pháp nhằm đảm bảo trẻ em Việt Nam được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp của chúng để phát triển, cùng chung tay xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh.
Người sinh sống ở khu vực biên giới tiếp cận thông tin bằng những biện pháp nào?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 13/2018/NĐ-CP, việc cung cấp thông tin được thực hiện bằng nhiều hình thức phù hợp với các đối tượng, điều kiện khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm: - Thông qua Cổng thông tin điện tử, Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước (nếu có); - Thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương và các hệ thống truyền phát tin khác của địa phương; các chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc và các phương tiện thông tin đại chúng khác tại địa phương; - Xây dựng tài liệu chuyên đề, tờ rơi, ấn phẩm; trong trường hợp cần thiết và khả thi thì có thể được chuyển tải bằng ngôn ngữ dân tộc; - Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt cộng đồng để chia sẻ thông tin cho công dân; chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động cung cấp thông tin cho các khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; - Lồng ghép hoạt động cung cấp thông tin trong các sự kiện văn hóa - chính trị của cơ quan, địa phương, trong kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, truyền thông các chính sách mới của các cơ quan nhà nước trên địa bàn; - Tăng thời lượng truyền, phát bản tin đối với loại thông tin liên quan đến cơ chế, chính sách của người dân sinh sống tại khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Có thể thấy, pháp luật hiện hành đã đề ra khá nhiều hình thức để các đối tượng đặc biệt được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời.
Quyền được tiếp cận và cung cấp thông tin trong sáp nhập ngân hàng TMCP
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, không có quy định nào ghi nhận quyền được tiếp cận thông tin liên quan đến sáp nhập của cổ đông và cũng không có quy định nào buộc các chủ thể, cơ quan có liên quan trong ngân hàng TMCP phải cung cấp và cung cấp chính xác mọi thông tin về sáp nhập cho các cổ đông. Cụ thể, quyền tiếp cận thông tin của đông chỉ dừng lại ở việc được xem xét, tra cứu, trích lục thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết, yêu cầu sửa đổi thông tin không chính xác và xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ của tổ chức tín dụng, sổ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.[1] Vấn đề công bố thông tin liên quan đến sáp nhập cũng được đặt ra đối với ngân hàng TMCP theo quy định của Thông tư 36/2015/TT-NHNN quy định việc tổ chức lại tổ chức tín dụng và Thông tư 155/2015/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, những thông tin được yêu cầu công bố tại hai văn bản trên cũng chỉ là những thông tin sau khi việc sáp nhập đã được quyết định thông qua mà không có bất kỳ yêu cầu công bố thông tin nào cho cổ đông về những thông tin trong quá trình tiến hành sáp nhập. Cụ thể, những thông tin mà pháp luật hiện hành yêu cầu công bố liên quan đến sáp nhập, như: Số, ngày văn bản của NHNN về việc chấp thuận nguyên tắc sáp nhập; Tên, địa chỉ trụ sở chính của tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập; Vốn điều lệ của tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận nguyên tắc sáp nhập,… Việc không có quy định nào ghi nhận quyền được tiếp cận thông tin liên quan đến sáp nhập của cổ đông và cũng không có quy định nào buộc các chủ thể, cơ quan có liên quan trong ngân hàng TMCP phải cung cấp và cung cấp chính xác mọi thông tin về sáp nhập cho các cổ đông có thể sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Bởi lẽ, khi các cổ đông nắm quyền kiểm soát muốn quyết định sáp nhập được thông qua mà không có sự phản đối của các cổ đông thiểu số, rất có thể họ sẽ không cung cấp đầy đủ thông tin hoặc cung cấp thông tin không chính xác về các vấn đề trong thương vụ sáp nhập. Trong trường hợp này, nếu các cổ đông thiểu số không phát hiện kịp thời, sẽ không thể yêu cầu công ty mua lại cổ phần và cũng không thể yêu cầu Trọng tài hoặc Tòa án hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông về việc sáp nhập. Do đó, theo quan điểm người viết, cần quy định nghĩa vụ công bố thông tin và nội dung công bố thông tin liên quan đến sáp nhập công ty nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cổ đông. Hơn ai hết, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin giúp cho cổ đông có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình bằng quyết định bán cổ phần hoặc yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình theo quy định liên quan đến sáp nhập công ty. [1] Khoản 5, 6 Điều 53, Điều 56 Luật các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi, bổ sung 2017
Các thông tin người dân không được tiếp cận
Đó là thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác. Ngoài ra, còn các thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ và thông tin thuộc bí mật nhà nước, gồm thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định luật. Riêng đối với thông tin thuộc bí mật nhà nước, chỉ khi được giải mật thì công dân được quyền tiếp cận. Nội dung này được nêu tại Luật tiếp cận thông tin 2016 có hiệu lực từ ngày 01/7/2018. Ngoài ra, Luật tiếp cận thông tin 2016 cũng ban hành danh mục 15 loại thông tin phải được công khai rộng rãi. Cụ thể: 1. Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước; 2. Thông tin phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách đối với những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước; 3. Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nội dung và kết quả trưng cầu ý dân, tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước mà đưa ra lấy ý kiến Nhân dân theo quy định của pháp luật; đề án và dự thảo đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính; 4. Chiến lược, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương; quy hoạch ngành, lĩnh vực và phương thức, kết quả thực hiện; chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan nhà nước; 5. Thông tin về dự toán ngân sách nhà nước; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước; thủ tục ngân sách nhà nước; 6. Thông tin về phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn viện trợ phi chính phủ theo quy định; thông tin về quản lý, sử dụng các khoản cứu trợ, trợ cấp xã hội; quản lý, sử dụng các khoản đóng góp của Nhân dân, các loại quỹ; 7. Thông tin về danh mục dự án, chương trình đầu tư công, mua sắm công và quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công; thông tin về đấu thầu; thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giá đất; thu hồi đất; phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn; 8. Thông tin về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; báo cáo đánh giá kết quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp; báo cáo giám sát tình hình thực hiện công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đại diện chủ sở hữu; thông tin về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; 9. Thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường; kết luận kiểm tra, thanh tra, giám sát liên quan đến việc bảo vệ môi trường, sức khỏe của cộng đồng, an toàn thực phẩm, an toàn lao động; 10. Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan và của đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết các công việc của Nhân dân; nội quy, quy chế do cơ quan nhà nước ban hành; 11. Báo cáo công tác định kỳ; báo cáo tài chính năm; thông tin thống kê về ngành, lĩnh vực quản lý; cơ sở dữ liệu quốc gia ngành, lĩnh vực; thông tin về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học; 12. Danh mục thông tin phải công khai theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 34 của Luật này; tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử của cơ quan nhà nước hoặc người làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin; 13. Thông tin liên quan đến lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng; 14. Thông tin về thuế, phí, lệ phí; 15. Thông tin khác phải được công khai theo quy định của pháp luật.
Được khởi kiện nếu bị từ chối tiếp cận thông tin
Được thông qua tại kỳ họp Quốc Hội thứ 11 - Khóa XIII, Luật tiếp cận thông tin sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Luật cũng đã đem lại cho công dân khá nhiều quyền lợi, trong đó, có quyền khởi kiện nếu không được cung cấp thông tin theo điểm a, khoản 1, điểu 8 của luật này, theo đó, công dân có quyền “khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin.”. Ngoài ra, việc khởi kiện tố cáo cũng được quy định chi tiết tại Điều 14 luật này. Tuy nhiên, sau khi được thông qua, dự thảo vẫn còn một số quy định khá mơ hồ gây khó khăn cho người dân trong việc tiếp cận thông tin. Cần lưu ý quy định ở Điều 6 là Thông tin công dân không được tiếp nhận, trong đó, cần lưu ý “các thông tin thuộc nội bộ của cơ quan; […]; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội bộ, ý kiến của các chuyên gia trong quá trình hoạch định chính sách”. Ngoài ra, theo Điều 12 luật này, công dân cũng sẽ không mất phí khi tiếp cận thông tin trừ trường hợp luật khác có quy định.
Trẻ em có được bảo đảm tiếp cận những thông tin truyền thông cũng như sức khỏe, giáo dục hay không?
Hiện nay thì còn rất nhiều trẻ em ở vùng sâu vùng xa khó khăn trong việc tiếp cận thông tin cũng như giáo dục, thì không biết rằng nhà nước ta có những quy định nào để đảm bảo cho việc này hay không? Trẻ em có được bảo đảm tiếp cận những thông tin truyền thông hay không? Căn cứ tại Điều 46 Luật Trẻ em 2016 có quy định về bảo đảm thông tin, truyền thông cho trẻ em như sau: - Nhà nước bảo đảm trẻ em được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, tìm hiểu, học tập, trao đổi kiến thức qua các kênh thông tin, truyền thông phù hợp. - Các cơ quan thông tin, xuất bản phải dành tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời lượng phát thanh, truyền hình, ấn phẩm phù hợp cho trẻ em. Thông tin, đồ chơi, trò chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật, điện ảnh có nội dung không phù hợp với trẻ em phải thông báo hoặc ghi rõ độ tuổi trẻ em không được sử dụng. - Nhà nước khuyến khích phát triển thông tin, truyền thông phù hợp với sự phát triển toàn diện của trẻ em; sản xuất, đăng tải nội dung, thông tin với thời lượng thích hợp cho trẻ em dân tộc thiểu số. Như vậy, nhà nước sẽ bảo đảm cho trẻ em được tiếp cận những thông tin về học tập bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, tìm hiểu, trao đổi kiến thức qua các kênh thông tin, truyền thông phù hợp theo quy định nêu trên. Nhà nước bảo đảm về chăm sóc sức khỏe của trẻ em như thế nào? Căn cứ tại Điều 43 Luật Trẻ em 2016 có quy định về bảo đảm về chăm sóc sức khỏe trẻ em như sau: - Nhà nước có chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. - Nhà nước bảo đảm thực hiện các biện pháp theo dõi sức khỏe định kỳ cho phụ nữ mang thai và trẻ em theo độ tuổi; chăm sóc dinh dưỡng, sức khỏe ban đầu và tiêm chủng cho trẻ em; phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; tư vấn và hỗ trợ trẻ em trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi theo quy định của pháp luật. - Ưu tiên tư vấn, bảo vệ, chăm sóc về sức khỏe, dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai, bà mẹ nuôi con dưới 36 tháng tuổi và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới 36 tháng tuổi, trẻ em bị xâm hại phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. - Nhà nước có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh; giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là tử vong trẻ sơ sinh; xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em. - Nhà nước đóng, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế phù hợp với độ tuổi, nhóm đối tượng và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. - Nhà nước có chính sách, biện pháp để trẻ em được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh và điều kiện vệ sinh cơ bản, bảo đảm an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật. - Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ủng hộ, đầu tư nguồn lực để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Như vậy, Nhà nước sẽ có những chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em đều được chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, Nhà nước còn đẩy mạnh các biện pháp đảm bảo sức khỏe cho trẻ em theo các quy định nêu trên Về giáo dục cho trẻ em thì sẽ được Nhà nước bảo đảm như thế nào? Căn cứ tại Điều 44 Luật Trẻ em 2016 có quy định bảo đảm về giáo dục cho trẻ em như sau: - Nhà nước có chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học; có chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được tiếp cận giáo dục phổ cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi và pháp luật về lao động. - Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, bảo đảm công bằng về cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi trẻ em; giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật; có chính sách miễn, giảm học phí cho từng nhóm đối tượng trẻ em phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. - Chương trình, nội dung giáo dục phải phù hợp với từng độ tuổi, từng nhóm đối tượng trẻ em, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện và yêu cầu hội nhập; chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và phát triển nhân cách, kỹ năng sống, tài năng, năng khiếu của trẻ em; giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho trẻ em. - Nhà nước quy định môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường. - Nhà nước có chính sách phù hợp để phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi và chính sách hỗ trợ để trẻ em trong độ tuổi được giáo dục mầm non phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ; khuyến khích, thu hút các nguồn đầu tư khác để phát triển giáo dục, đào tạo. Như vậy, Nhà nước sẽ có các chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học; có chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tiếp cận giáo dục phổ cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi Từ những căn cứ nêu trên, Nhà nước ta luôn đẩy mạnh các biện pháp nhằm đảm bảo trẻ em Việt Nam được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp của chúng để phát triển, cùng chung tay xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh.
Người sinh sống ở khu vực biên giới tiếp cận thông tin bằng những biện pháp nào?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 13/2018/NĐ-CP, việc cung cấp thông tin được thực hiện bằng nhiều hình thức phù hợp với các đối tượng, điều kiện khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm: - Thông qua Cổng thông tin điện tử, Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước (nếu có); - Thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương và các hệ thống truyền phát tin khác của địa phương; các chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc và các phương tiện thông tin đại chúng khác tại địa phương; - Xây dựng tài liệu chuyên đề, tờ rơi, ấn phẩm; trong trường hợp cần thiết và khả thi thì có thể được chuyển tải bằng ngôn ngữ dân tộc; - Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt cộng đồng để chia sẻ thông tin cho công dân; chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động cung cấp thông tin cho các khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; - Lồng ghép hoạt động cung cấp thông tin trong các sự kiện văn hóa - chính trị của cơ quan, địa phương, trong kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, truyền thông các chính sách mới của các cơ quan nhà nước trên địa bàn; - Tăng thời lượng truyền, phát bản tin đối với loại thông tin liên quan đến cơ chế, chính sách của người dân sinh sống tại khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Có thể thấy, pháp luật hiện hành đã đề ra khá nhiều hình thức để các đối tượng đặc biệt được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời.
Quyền được tiếp cận và cung cấp thông tin trong sáp nhập ngân hàng TMCP
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, không có quy định nào ghi nhận quyền được tiếp cận thông tin liên quan đến sáp nhập của cổ đông và cũng không có quy định nào buộc các chủ thể, cơ quan có liên quan trong ngân hàng TMCP phải cung cấp và cung cấp chính xác mọi thông tin về sáp nhập cho các cổ đông. Cụ thể, quyền tiếp cận thông tin của đông chỉ dừng lại ở việc được xem xét, tra cứu, trích lục thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết, yêu cầu sửa đổi thông tin không chính xác và xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ của tổ chức tín dụng, sổ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.[1] Vấn đề công bố thông tin liên quan đến sáp nhập cũng được đặt ra đối với ngân hàng TMCP theo quy định của Thông tư 36/2015/TT-NHNN quy định việc tổ chức lại tổ chức tín dụng và Thông tư 155/2015/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, những thông tin được yêu cầu công bố tại hai văn bản trên cũng chỉ là những thông tin sau khi việc sáp nhập đã được quyết định thông qua mà không có bất kỳ yêu cầu công bố thông tin nào cho cổ đông về những thông tin trong quá trình tiến hành sáp nhập. Cụ thể, những thông tin mà pháp luật hiện hành yêu cầu công bố liên quan đến sáp nhập, như: Số, ngày văn bản của NHNN về việc chấp thuận nguyên tắc sáp nhập; Tên, địa chỉ trụ sở chính của tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập; Vốn điều lệ của tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận nguyên tắc sáp nhập,… Việc không có quy định nào ghi nhận quyền được tiếp cận thông tin liên quan đến sáp nhập của cổ đông và cũng không có quy định nào buộc các chủ thể, cơ quan có liên quan trong ngân hàng TMCP phải cung cấp và cung cấp chính xác mọi thông tin về sáp nhập cho các cổ đông có thể sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Bởi lẽ, khi các cổ đông nắm quyền kiểm soát muốn quyết định sáp nhập được thông qua mà không có sự phản đối của các cổ đông thiểu số, rất có thể họ sẽ không cung cấp đầy đủ thông tin hoặc cung cấp thông tin không chính xác về các vấn đề trong thương vụ sáp nhập. Trong trường hợp này, nếu các cổ đông thiểu số không phát hiện kịp thời, sẽ không thể yêu cầu công ty mua lại cổ phần và cũng không thể yêu cầu Trọng tài hoặc Tòa án hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông về việc sáp nhập. Do đó, theo quan điểm người viết, cần quy định nghĩa vụ công bố thông tin và nội dung công bố thông tin liên quan đến sáp nhập công ty nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cổ đông. Hơn ai hết, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin giúp cho cổ đông có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình bằng quyết định bán cổ phần hoặc yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình theo quy định liên quan đến sáp nhập công ty. [1] Khoản 5, 6 Điều 53, Điều 56 Luật các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi, bổ sung 2017
Các thông tin người dân không được tiếp cận
Đó là thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác. Ngoài ra, còn các thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ và thông tin thuộc bí mật nhà nước, gồm thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định luật. Riêng đối với thông tin thuộc bí mật nhà nước, chỉ khi được giải mật thì công dân được quyền tiếp cận. Nội dung này được nêu tại Luật tiếp cận thông tin 2016 có hiệu lực từ ngày 01/7/2018. Ngoài ra, Luật tiếp cận thông tin 2016 cũng ban hành danh mục 15 loại thông tin phải được công khai rộng rãi. Cụ thể: 1. Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước; 2. Thông tin phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách đối với những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước; 3. Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nội dung và kết quả trưng cầu ý dân, tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước mà đưa ra lấy ý kiến Nhân dân theo quy định của pháp luật; đề án và dự thảo đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính; 4. Chiến lược, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương; quy hoạch ngành, lĩnh vực và phương thức, kết quả thực hiện; chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan nhà nước; 5. Thông tin về dự toán ngân sách nhà nước; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước; thủ tục ngân sách nhà nước; 6. Thông tin về phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn viện trợ phi chính phủ theo quy định; thông tin về quản lý, sử dụng các khoản cứu trợ, trợ cấp xã hội; quản lý, sử dụng các khoản đóng góp của Nhân dân, các loại quỹ; 7. Thông tin về danh mục dự án, chương trình đầu tư công, mua sắm công và quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công; thông tin về đấu thầu; thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giá đất; thu hồi đất; phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn; 8. Thông tin về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; báo cáo đánh giá kết quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp; báo cáo giám sát tình hình thực hiện công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đại diện chủ sở hữu; thông tin về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; 9. Thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường; kết luận kiểm tra, thanh tra, giám sát liên quan đến việc bảo vệ môi trường, sức khỏe của cộng đồng, an toàn thực phẩm, an toàn lao động; 10. Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan và của đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết các công việc của Nhân dân; nội quy, quy chế do cơ quan nhà nước ban hành; 11. Báo cáo công tác định kỳ; báo cáo tài chính năm; thông tin thống kê về ngành, lĩnh vực quản lý; cơ sở dữ liệu quốc gia ngành, lĩnh vực; thông tin về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học; 12. Danh mục thông tin phải công khai theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 34 của Luật này; tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử của cơ quan nhà nước hoặc người làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin; 13. Thông tin liên quan đến lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng; 14. Thông tin về thuế, phí, lệ phí; 15. Thông tin khác phải được công khai theo quy định của pháp luật.
Được khởi kiện nếu bị từ chối tiếp cận thông tin
Được thông qua tại kỳ họp Quốc Hội thứ 11 - Khóa XIII, Luật tiếp cận thông tin sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Luật cũng đã đem lại cho công dân khá nhiều quyền lợi, trong đó, có quyền khởi kiện nếu không được cung cấp thông tin theo điểm a, khoản 1, điểu 8 của luật này, theo đó, công dân có quyền “khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin.”. Ngoài ra, việc khởi kiện tố cáo cũng được quy định chi tiết tại Điều 14 luật này. Tuy nhiên, sau khi được thông qua, dự thảo vẫn còn một số quy định khá mơ hồ gây khó khăn cho người dân trong việc tiếp cận thông tin. Cần lưu ý quy định ở Điều 6 là Thông tin công dân không được tiếp nhận, trong đó, cần lưu ý “các thông tin thuộc nội bộ của cơ quan; […]; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội bộ, ý kiến của các chuyên gia trong quá trình hoạch định chính sách”. Ngoài ra, theo Điều 12 luật này, công dân cũng sẽ không mất phí khi tiếp cận thông tin trừ trường hợp luật khác có quy định.