Có được ghi tên hàng hóa trên hóa đơn bằng tiếng nước ngoài?
Hàng hóa có tên nước ngoài hiện nay trên thị trường rất phổ biến, đa phần mặt hàng này được nhập khẩu từ nhiều nơi trên thế giới. Theo đó, các mặt hàng có tên nước ngoài khi kê khai trên hóa đơn phải được thực hiện đúng quy định pháp luật. Đây cũng là điều thắc mắc của một số thương gia nhỏ lẻ kinh doanh hàng hóa nhập khẩu khi kê khai ghi hóa đơn hàng có tên nước ngoài. Vậy, trường hợp trên thực hiện như thế nào? Tên, đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hóa, dịch vụ; thành tiền chưa có thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia tăng, tổng số tiền thuế giá trị gia tăng theo từng loại thuế suất, tổng cộng tiền thuế giá trị gia tăng, tổng tiền thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng. Theo đó, tên, đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hóa, dịch vụ được thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 10 Nghị định 123/2020/NĐ-CP bao gồm các nội dung sau: (1) Đối với tên hàng hóa, dịch vụ: Trên hóa đơn phải thể hiện tên hàng hóa, dịch vụ bằng tiếng Việt. Trường hợp bán hàng hóa có nhiều chủng loại khác nhau thì tên hàng hóa thể hiện chi tiết đến từng chủng loại (ví dụ: điện thoại Samsung, điện thoại Nokia…). Trường hợp hàng hóa phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu thì trên hóa đơn phải thể hiện các số hiệu, ký hiệu đặc trưng của hàng hóa mà khi đăng ký pháp luật có yêu cầu. Ví dụ: Số khung, số máy của ô tô, mô tô, địa chỉ, cấp nhà, chiều dài, chiều rộng, số tầng của một ngôi nhà… Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ được giao dịch có quy định về mã hàng hóa, dịch vụ thì trên hóa đơn phải ghi cả tên và mã hàng hóa, dịch vụ. (2) Đối với đơn vị tính: Người bán căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hàng hóa để xác định tên đơn vị tính của hàng hóa thể hiện trên hóa đơn theo đơn vị tính là đơn vị đo lường (ví dụ như: tấn, tạ, yến, kg, g, mg hoặc lượng, lạng, cái, con, chiếc, hộp, can, thùng, bao, gói, tuýp, m3, m2, m...). Đối với dịch vụ thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có tiêu thức “đơn vị tính” mà đơn vị tính xác định theo từng lần cung cấp dịch vụ và nội dung dịch vụ cung cấp. (3) Đối với số lượng hàng hóa, dịch vụ: Người bán ghi số lượng bằng chữ số Ả-rập căn cứ theo đơn vị tính nêu trên. Các loại hàng hóa, dịch vụ đặc thù như điện, nước, dịch vụ viễn thông, dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ truyền hình, dịch vụ bưu chính chuyển phát, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm được bán theo kỳ nhất định thì trên hóa đơn phải ghi cụ thể kỳ cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Đối với các dịch vụ xuất theo kỳ phát sinh, được sử dụng bảng kê để liệt kê các loại hàng hóa, dịch vụ đã bán kèm theo hóa đơn; bảng kê được lưu giữ cùng hóa đơn để phục vụ việc kiểm tra, đối chiếu của các cơ quan có thẩm quyền. Hóa đơn phải ghi rõ “kèm theo bảng kê số…, ngày… tháng... năm”. Bảng kê phải có tên, mã số thuế và địa chỉ của người bán, tên hàng hóa, dịch vụ, số lượng, đơn giá, thành tiền hàng hóa, dịch vụ bán ra, ngày lập, tên và chữ ký người lập Bảng kê. Trường hợp người bán nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì Bảng kê phải có tiêu thức “thuế suất giá trị gia tăng” và “tiền thuế giá trị gia tăng”. Tổng cộng tiền thanh toán đúng với số tiền ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng. Hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên Bảng kê theo thứ tự bán hàng trong ngày. Bảng kê phải ghi rõ “kèm theo hóa đơn số ngày… tháng... năm”. (4) Đối với đơn giá hàng hóa, dịch vụ: Người bán ghi đơn giá hàng hóa, dịch vụ theo đơn vị tính nêu trên. Trường hợp các hàng hóa, dịch vụ sử dụng bảng kê để liệt kê các hàng hóa, dịch vụ đã bán kèm theo hóa đơn thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có đơn giá. Như vậy theo quy định trên tên hàng hóa, dịch vụ trên hóa đơn phải thể hiện bằng tiếng Việt. Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt.
Quy định về tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo
Câu hỏi: Quy định về tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo? Câu trả lời: Quy định về tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo, Điều 18 Luật Quảng cáo 2012 có quy định: "Điều 18. Tiếng nói, chữ viết trong quảng cáo 1. Trong các sản phẩm quảng cáo phải có nội dung thể hiện bằng tiếng Việt, trừ những trường hợp sau: a) Nhãn hiệu hàng hoá, khẩu hiệu, thương hiệu, tên riêng bằng tiếng nước ngoài hoặc các từ ngữ đã được quốc tế hoá không thể thay thế bằng tiếng Việt; b) Sách, báo, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm được phép xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài; chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài. 2. Trong trường hợp sử dụng cả tiếng Việt, tiếng nước ngoài trên cùng một sản phẩm quảng cáo thì khổ chữ nước ngoài không được quá ba phần tư khổ chữ tiếng Việt và phải đặt bên dưới chữ tiếng Việt; khi phát trên đài phát thanh, truyền hình hoặc trên các phương tiện nghe nhìn, phải đọc tiếng Việt trước tiếng nước ngoài". Như vậy, sản phẩm quảng cáo phải có nội dung bằng tiếng việt, trừ một số nội dung được thể hiện bằng tiếng nước ngoài theo quy định trên.
Tên doanh nghiệp không bắt buộc phải bằng tiếng Việt ?
Đặt tên là một trong những quyền tự do thành lập và tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tại Luật doanh nghiệp năm 2005 thì "tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được". Tuy nhiên đến khi Luật doanh nghiệp 2014 được ban hành và có hiệu lực thì quy định về đặt tên bằng tiếng Việt đã được quy định "thoáng" hơn. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì tên tiếng Việt của doanh nghiệp bao gồm 2 thành tố là loại hình doanh nghiệp (tên chung) và tên riêng; trong đó "tên riêng được viết bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu" theo khoản 1 Điều 38 Luật doanh nghiệp 2014 vê "tên doanh nghiệp". Như vậy, có thể hướng mở rất thông thoáng, từ chỗ phải viết hoàn toàn bằng tiếng Việt, thì Luật doanh nghiệp 2014 trở đi, có thể viết bằng tiếng Anh hoặc tương tự, chứ không nhất thiết phải viết và đọc bằng tiếng Việt. Cũng giống như tên của mỗi con người, tên doanh nghiệp có khả năng rơi vào một trong 3 trạng thái: không tốt cũng chẳng xấu,tốt và xấu. Nếu tên của doanh nghiệp không tốt cũng chẳng xấu thì vô thưởng vô phạt chả có gì phải bàn. Nếu tốt thì pháp luật chả có lý do gì phải cấm thậm chí còn khuyến khích doanh nghiệp khác tham khảo thực hiện. Còn nếu xấu thì doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm. Luật chỉ cấm việc đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn chứ chả có luật nào cấm đặt tên xấu cả.
Có được ghi tên hàng hóa trên hóa đơn bằng tiếng nước ngoài?
Hàng hóa có tên nước ngoài hiện nay trên thị trường rất phổ biến, đa phần mặt hàng này được nhập khẩu từ nhiều nơi trên thế giới. Theo đó, các mặt hàng có tên nước ngoài khi kê khai trên hóa đơn phải được thực hiện đúng quy định pháp luật. Đây cũng là điều thắc mắc của một số thương gia nhỏ lẻ kinh doanh hàng hóa nhập khẩu khi kê khai ghi hóa đơn hàng có tên nước ngoài. Vậy, trường hợp trên thực hiện như thế nào? Tên, đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hóa, dịch vụ; thành tiền chưa có thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia tăng, tổng số tiền thuế giá trị gia tăng theo từng loại thuế suất, tổng cộng tiền thuế giá trị gia tăng, tổng tiền thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng. Theo đó, tên, đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hóa, dịch vụ được thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 10 Nghị định 123/2020/NĐ-CP bao gồm các nội dung sau: (1) Đối với tên hàng hóa, dịch vụ: Trên hóa đơn phải thể hiện tên hàng hóa, dịch vụ bằng tiếng Việt. Trường hợp bán hàng hóa có nhiều chủng loại khác nhau thì tên hàng hóa thể hiện chi tiết đến từng chủng loại (ví dụ: điện thoại Samsung, điện thoại Nokia…). Trường hợp hàng hóa phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu thì trên hóa đơn phải thể hiện các số hiệu, ký hiệu đặc trưng của hàng hóa mà khi đăng ký pháp luật có yêu cầu. Ví dụ: Số khung, số máy của ô tô, mô tô, địa chỉ, cấp nhà, chiều dài, chiều rộng, số tầng của một ngôi nhà… Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ được giao dịch có quy định về mã hàng hóa, dịch vụ thì trên hóa đơn phải ghi cả tên và mã hàng hóa, dịch vụ. (2) Đối với đơn vị tính: Người bán căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hàng hóa để xác định tên đơn vị tính của hàng hóa thể hiện trên hóa đơn theo đơn vị tính là đơn vị đo lường (ví dụ như: tấn, tạ, yến, kg, g, mg hoặc lượng, lạng, cái, con, chiếc, hộp, can, thùng, bao, gói, tuýp, m3, m2, m...). Đối với dịch vụ thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có tiêu thức “đơn vị tính” mà đơn vị tính xác định theo từng lần cung cấp dịch vụ và nội dung dịch vụ cung cấp. (3) Đối với số lượng hàng hóa, dịch vụ: Người bán ghi số lượng bằng chữ số Ả-rập căn cứ theo đơn vị tính nêu trên. Các loại hàng hóa, dịch vụ đặc thù như điện, nước, dịch vụ viễn thông, dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ truyền hình, dịch vụ bưu chính chuyển phát, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm được bán theo kỳ nhất định thì trên hóa đơn phải ghi cụ thể kỳ cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Đối với các dịch vụ xuất theo kỳ phát sinh, được sử dụng bảng kê để liệt kê các loại hàng hóa, dịch vụ đã bán kèm theo hóa đơn; bảng kê được lưu giữ cùng hóa đơn để phục vụ việc kiểm tra, đối chiếu của các cơ quan có thẩm quyền. Hóa đơn phải ghi rõ “kèm theo bảng kê số…, ngày… tháng... năm”. Bảng kê phải có tên, mã số thuế và địa chỉ của người bán, tên hàng hóa, dịch vụ, số lượng, đơn giá, thành tiền hàng hóa, dịch vụ bán ra, ngày lập, tên và chữ ký người lập Bảng kê. Trường hợp người bán nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì Bảng kê phải có tiêu thức “thuế suất giá trị gia tăng” và “tiền thuế giá trị gia tăng”. Tổng cộng tiền thanh toán đúng với số tiền ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng. Hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên Bảng kê theo thứ tự bán hàng trong ngày. Bảng kê phải ghi rõ “kèm theo hóa đơn số ngày… tháng... năm”. (4) Đối với đơn giá hàng hóa, dịch vụ: Người bán ghi đơn giá hàng hóa, dịch vụ theo đơn vị tính nêu trên. Trường hợp các hàng hóa, dịch vụ sử dụng bảng kê để liệt kê các hàng hóa, dịch vụ đã bán kèm theo hóa đơn thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có đơn giá. Như vậy theo quy định trên tên hàng hóa, dịch vụ trên hóa đơn phải thể hiện bằng tiếng Việt. Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt.
Quy định về tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo
Câu hỏi: Quy định về tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo? Câu trả lời: Quy định về tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo, Điều 18 Luật Quảng cáo 2012 có quy định: "Điều 18. Tiếng nói, chữ viết trong quảng cáo 1. Trong các sản phẩm quảng cáo phải có nội dung thể hiện bằng tiếng Việt, trừ những trường hợp sau: a) Nhãn hiệu hàng hoá, khẩu hiệu, thương hiệu, tên riêng bằng tiếng nước ngoài hoặc các từ ngữ đã được quốc tế hoá không thể thay thế bằng tiếng Việt; b) Sách, báo, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm được phép xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài; chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài. 2. Trong trường hợp sử dụng cả tiếng Việt, tiếng nước ngoài trên cùng một sản phẩm quảng cáo thì khổ chữ nước ngoài không được quá ba phần tư khổ chữ tiếng Việt và phải đặt bên dưới chữ tiếng Việt; khi phát trên đài phát thanh, truyền hình hoặc trên các phương tiện nghe nhìn, phải đọc tiếng Việt trước tiếng nước ngoài". Như vậy, sản phẩm quảng cáo phải có nội dung bằng tiếng việt, trừ một số nội dung được thể hiện bằng tiếng nước ngoài theo quy định trên.
Tên doanh nghiệp không bắt buộc phải bằng tiếng Việt ?
Đặt tên là một trong những quyền tự do thành lập và tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tại Luật doanh nghiệp năm 2005 thì "tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được". Tuy nhiên đến khi Luật doanh nghiệp 2014 được ban hành và có hiệu lực thì quy định về đặt tên bằng tiếng Việt đã được quy định "thoáng" hơn. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì tên tiếng Việt của doanh nghiệp bao gồm 2 thành tố là loại hình doanh nghiệp (tên chung) và tên riêng; trong đó "tên riêng được viết bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu" theo khoản 1 Điều 38 Luật doanh nghiệp 2014 vê "tên doanh nghiệp". Như vậy, có thể hướng mở rất thông thoáng, từ chỗ phải viết hoàn toàn bằng tiếng Việt, thì Luật doanh nghiệp 2014 trở đi, có thể viết bằng tiếng Anh hoặc tương tự, chứ không nhất thiết phải viết và đọc bằng tiếng Việt. Cũng giống như tên của mỗi con người, tên doanh nghiệp có khả năng rơi vào một trong 3 trạng thái: không tốt cũng chẳng xấu,tốt và xấu. Nếu tên của doanh nghiệp không tốt cũng chẳng xấu thì vô thưởng vô phạt chả có gì phải bàn. Nếu tốt thì pháp luật chả có lý do gì phải cấm thậm chí còn khuyến khích doanh nghiệp khác tham khảo thực hiện. Còn nếu xấu thì doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm. Luật chỉ cấm việc đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn chứ chả có luật nào cấm đặt tên xấu cả.