Thủ tướng phê duyệt Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030
Ngày 11/10/2024 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1169/QĐ-TTg để phê duyệt Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030. (1) Mục tiêu của Đề án Theo Quyết định 1169/QĐ-TTg được ban hành ngày 11/10/2024, Thủ tướng đã quyết định phê duyệt Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu của Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030 lần này nhằm phổ biến các tác hại của rượu bia đến với nhiều đối tượng, cụ thể: - 95% người dân trưởng thành được truyền thông về tác hại của rượu, bia và các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia. - 100% người điều khiển phương tiện giao thông được truyền thông, phổ biến quy định của pháp luật về việc không uống rượu, bia khi điều khiển phương tiện giao thông. - 100% cơ sở giáo dục thực hiện truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia phù hợp với lứa tuổi của học sinh, sinh viên. - 95% cơ sở kinh doanh rượu, bia; 90% hộ gia đình, cá nhân sản xuất rượu thủ công được truyền thông, hướng dẫn các quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia và các quy định pháp luật khác có liên quan. - 90% báo in, báo điện tử của các bộ, ngành; 90% đài phát thanh, truyền hình ở trung ương, địa phương và hệ thống đài truyền thanh cấp xã đăng tải, phát thanh tin bài về phòng, chống tác hại của rượu, bia hằng tháng; 90% phóng viên, người tham gia hoạt động thông tin cơ sở được tập huấn, cung cấp thông tin về phòng, chống tác hại của rượu, bia. Có thể thấy, Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030 đã đề ra mục tiêu rất rõ ràng đó là hướng đến việc nâng cao nhận thức và hành vi của cộng đồng nhằm giảm thiểu tác hại do rượu, bia gây ra. (2) Nhiệm vụ và giải pháp của Đề án ra sao? Theo đó, tại Mục II của nội dung Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030, nhiệm vụ và giải pháp của Đề án đặt ra là: - Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia. Cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành nghị quyết, kế hoạch, đầu tư kinh phí, huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện Đề án. - Xây dựng, phổ biến tài liệu truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia phù hợp theo ngành, lĩnh vực và địa phương; cung cấp, phổ biến tài liệu truyền thông kịp thời, đa dạng về hình thức cho hệ thống truyền thông từ trung ương đến địa phương. - Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng truyền thông cho người tham gia công tác truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia từ trung ương đến địa phương. - Triển khai các hình thức truyền thông hiệu quả, phù hợp + Thường xuyên tổ chức các chương trình, chiến dịch truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức thông qua đội tuyên truyền lưu động; truyền thông gắn với các cuộc thi; các hoạt động, sự kiện y tế, văn hóa, thể thao và du lịch. + Thực hiện công tác truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, internet, điện thoại di động, tư vấn trực tuyến. + Triển khai các hình thức truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia đến từng người dân; chú trọng truyền thông tại các địa điểm công cộng, khu du lịch, khu vui chơi giải trí; tổ chức hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia cho các cơ quan, tổ chức và người có liên quan; + Lồng ghép nội dung truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia vào trong hương ước, quy ước, thiết chế văn hóa của vùng, miền, địa phương, khu dân cư; tổ chức các hoạt động truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia trong cơ sở giáo dục phù hợp với lứa tuổi của học sinh, sinh viên; triển khai, nhân rộng các sáng kiến, mô hình truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia. - Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia từ trung ương đến địa phương; kịp thời chấn chỉnh, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi làm lan truyền các thông tin sai sự thật, không đúng quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia. Như vậy, nhiệm vụ và giải pháp mà Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030 đặt ra không chỉ nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng mà còn xây dựng một hệ thống truyền thông đồng bộ, hiệu quả, góp phần giảm thiểu tác hại của rượu, bia trong xã hội. Xem thêm chi tiết tại Quyết định 1169/QĐ-TTg, có hiệu lực từ ngày 11/10/2024.
Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng ngừa ngộ độc thực phẩm
Ngày 11/10/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính ban hành Chỉ thị 38/CT-TTg để chỉ đạo về việc tăng cường phòng ngừa ngộ độc thực phẩm trên toàn quốc. Theo đó, Chỉ thị 38/CT-TTg nêu rõ, từ đầu năm 2024 đến nay, tại nhiều địa phương đã liên tiếp xảy ra một số vụ ngộ độc thực phẩm lớn, làm nhiều người mắc và phải nhập viện điều trị, nguy cơ ngộ độc thực phẩm vẫn luôn hiện hữu, tiếp tục gây lo lắng trong nhân dân. Do đó, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, Thủ tướng Chính phủ đề ra các yêu cầu sau: 1- Bộ Y tế: - Tăng cường thực hiện công tác phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm, nhất là phòng ngừa nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm; kịp thời chấn chỉnh các hạn chế, bất cập (nếu có); thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện công tác này tại các địa phương, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, các đô thị lớn, các khu du lịch... nơi có nhiều bếp ăn tập thể, cơ sở dịch vụ ăn uống dành cho công nhân, học sinh, khách du lịch...; hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm. - Đẩy mạnh việc thông tin, tuyên truyền về nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, nhất là tại các điểm, khu du lịch, bếp ăn tập thể của trường học, khu công nghiệp, khu chế xuất, thức ăn đường phố; - Chỉ đạo thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các biện pháp giám sát các nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, thông tin và cảnh báo nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật, độc tố tự nhiên...; tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật về an toàn thực phẩm, lưu ý tăng cường chỉ đạo việc kiểm tra đột xuất, nhất là tại các khu vực có nguy cơ cao, xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định; - Chỉ đạo cấp cứu, điều trị kịp thời cho người bị ngộ độc thực phẩm, bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe, tính mạng người dân khi xảy ra ngộ độc thực phẩm; chủ động và kịp thời hỗ trợ các địa phương xử lý, khắc phục hậu quả ngộ độc thực phẩm trong trường hợp cần thiết. 2- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương: - Thực hiện đầy đủ trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế trong điều tra nguyên nhân; - Chủ trì trong việc truy xuất nguồn gốc và xử lý thực phẩm gây ngộ độc; - Thường xuyên giám sát các mối nguy và nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm do hóa chất bảo vệ thực vật, methanol trong rượu...; - Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm đối với các nhóm sản phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. 3- Bộ Công an: - Tăng cường công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; - Đẩy mạnh việc xử lý hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm nghiêm trọng, nhất là hoạt động nhập lậu, sản xuất, tàng trữ, buôn bán các loại thực phẩm giả, kém chất lượng theo quy định pháp luật. 4- Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam các cơ quan báo chí: - Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm, nhận diện và phòng ngừa nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm. 5- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: - Bố trí đủ kinh phí, nguồn lực, chỉ tiêu biên chế, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn. - Thường xuyên tổ chức đánh giá các nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và triển khai các biện pháp cần thiết nhằm ngăn ngừa ngộ độc thực phẩm trên địa bàn. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm tra đột xuất việc chấp hành quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, thức ăn đường phố, cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, an toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn, nhà ăn tập thể và các đối tượng theo phân cấp quản lý; xử lý nghiêm các vi phạm, kiên quyết đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở không bảo đảm an toàn thực phẩm, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn, thực phẩm có nguy cơ gây ngộ độc. - Tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức, bố trí nguồn lực, diễn tập ứng phó sự cố, ngộ độc thực phẩm có thể xảy ra trên địa bàn. - Chỉ đạo tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong công tác nắm bắt tình hình, kiểm tra và xử lý vi phạm quy định về an toàn thực phẩm đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh thực phẩm, nhất là kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố; kịp thời xử lý, thông tin về sự cố, nguy cơ, vụ việc ngộ độc thực phẩm trên địa bàn. Cuối Chỉ thị 38/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khẩn trương triển khai, nghiêm túc thực hiện.
6 tăng, 6 giảm, 6 tăng tốc, bứt phá mà ngân hàng cần thực hiện
Ngày 01/10/2024, Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo 445/TB-VPCP 2024 kết luận Hội nghị Thường trực Chính phủ về các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước Xem toàn văn Thông báo 445/TB-VPCP 2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/10/03/445-tb.signed.pdf Những khó khăn, hạn chế của các ngân hàng Theo Thông báo 445/TB-VPCP 2024, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua hệ thống ngân hàng, trong đó có các ngân hàng thương mại cổ phần còn những khó khăn, hạn chế: - Nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu có xu hướng tăng; - Sức hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân thấp; - Thị trường bất động sản chậm phục hồi; - Áp lực đối với tín dụng ngân hàng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh các kênh huy động vốn trung dài hạn của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy hiệu quả; - Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, diễn biến phức tạp; - Tình hình thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến đời sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp… Như vậy, hiện nay các ngân hàng còn gặp những khó khăn, hạn chế như nợ xấu, vốn tín dụng, thị trường bất động sản chậm phục hồi,... 6 tăng, 6 giảm, 6 tăng tốc, bứt phá mà ngân hàng cần thực hiện Tại Thông báo 445/TB-VPCP 2024, Thủ tướng yêu cầu hệ thống ngân hàng thực hiện "6 tăng", "6 giảm", "6 tăng tốc, bứt phá". Cụ thể: - “6 tăng” gồm: Tăng năng lực của tổ chức tín dụng ngân hàng, trong đó có các NHTM cổ phần tư nhân; tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ tín dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới; tăng cường tháo gỡ vướng mắc pháp lý và chất lượng tín dụng; tăng cường phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và năng lực quản trị điều hành của ngân hàng, của thị trường tài chính; tăng công khai, minh bạch về lãi suất huy động, cho vay và chống tín dụng đen; tăng cường giám sát, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro, chống tham nhũng, tiêu cực. - "6 giảm" gồm: Giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý; giảm chi phí giao dịch, hoạt động; giảm thủ tục hành chính; giảm phiền hà, sách nhiễu; giảm tiêu cực, lợi ích nhóm, "sân sau" và giảm nợ xấu… - "6 tăng tốc, bứt phá" gồm: Tăng tốc, bứt phá về số hóa; tăng tốc, bứt phá chất lượng dịch vụ; tăng tốc, bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực; tăng tốc, bứt phá về hạ tầng ngân hàng; tăng tốc, bứt phá về phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân, góp phần tăng trưởng kinh tế; tăng tốc, bứt phá về vươn ra thị trường quốc tế. Như vậy, thời gian tới, ngân hàng cần thực hiện 6 tăng, 6 giảm, 6 tăng tốc, bứt phá theo chỉ đạo của Chính phủ như trên. Ngân hàng thương mại có những hoạt động nào? Theo Điều 107 Luật Các tổ chức tín dụng 2024 quy định về hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại như sau: - Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi. - Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây: + Cho vay; + Chiết khấu, tái chiết khấu; + Bảo lãnh ngân hàng; + Phát hành thẻ tín dụng; + Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; + Thư tín dụng; + Hình thức cấp tín dụng khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. - Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. - Cung ứng các phương tiện thanh toán. - Cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản sau đây: + Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, chuyển tiền, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; + Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản; dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, ngân hàng thương mại sẽ có những hoạt động theo quy định trên.
Thủ Tướng yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công thương chịu trách nhiệm nếu để xảy ra thiếu hụt xăng dầu
Ngày 23/9/2024 Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện 99/CĐ-TTg về việc tiếp tục thực hiện các giải pháp bảo đảm cung ứng xăng dầu cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp. Xem toàn văn Công điện 99/CĐ-TTg năm 2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/24/99-ttg.signed.pdf Công điện gửi Bộ trưởng các Bộ: Công Thương, Tài chính, Công an; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chủ tịch, Tổng Giám đốc: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn; Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam. Công điện nêu: Xăng dầu là mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trong những tháng đầu năm 2024, Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan đã tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp bảo đảm nguồn cung xăng dầu liên tục cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian tới, dự báo tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, tiềm ẩn đứt gãy chuỗi cung ứng, gây biến động giá cả và nguồn cung hàng hóa, dịch vụ nhất là xăng dầu, nguyên vật liệu, cước vận tải, giá vàng... Ở trong nước, mặc dù nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực nhưng vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Để tiếp tục bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch, Tổng Giám đốc: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ được giao tập trung triển khai, thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã được giao tại các Nghị quyết của Chính phủ, Công điện, văn bản chỉ đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm cung ứng xăng dầu (nhất là các Công điện: số 1123/CĐ-TTg ngày 18 tháng 11 năm 2023, số 1284/CĐ-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2023, số 1437/CĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2023, số 09/CĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2024); trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau: Chủ động nguồn hàng, cung cấp đủ xăng dầu cho hệ thống, tuyệt đối không để gián đoạn nguồn cung 1. Bộ trưởng Bộ Công Thương a) Chỉ đạo các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động nguồn hàng, cung cấp đủ xăng dầu cho hệ thống, tuyệt đối không để gián đoạn nguồn cung xăng dầu trong hệ thống phân phối xăng dầu của mình (từ đầu mối, thương nhân phân phối, đại lý, cửa hàng bán lẻ), duy trì hoạt động bán hàng thường xuyên, bán đúng giá niêm yết; thực hiện nghiêm tổng nguồn xăng dầu tối thiểu năm 2024 được phân giao và dự trữ xăng dầu theo quy định. b) Theo dõi sát tình hình thực hiện tổng nguồn tối thiểu của các thương nhân đầu mối, nhất là những thương nhân thực hiện đạt thấp; chỉ đạo, hướng dẫn việc điều tiết, bảo đảm cân đối cung cầu xăng dầu trên từng địa bàn. c) Chủ động xây dựng kế hoạch xăng dầu cho năm 2025 và các năm tiếp theo; dứt khoát không để thiếu hụt hoặc đứt gãy nguồn cung như năm 2022. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trước Nhân dân nếu để xảy ra thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. d) Thường xuyên theo dõi sát các diễn biến thị trường hàng hóa thế giới và trong nước, tình hình thiên tai, bão, lụt để có kế hoạch dự phòng, bảo đảm cung ứng đầy đủ xăng dầu cho thị trường trong nước trong mọi tình huống. đ) Chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan liên quan trong công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu, điều hành giá xăng dầu. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định. e) Tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ lưỡng, khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Lãnh đạo Chính phủ, bảo đảm khoa học, khả thi, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu, hài hòa lợi ích của nhà nước, người dân và doanh nghiệp; báo cáo Chính phủ trong tháng 9 năm 2024. 2. Bộ trưởng Bộ Tài chính a) Tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương thực hiện công tác điều hành giá xăng dầu theo quy định; cập nhật, rà soát và điều chỉnh các chi phí thực tế phát sinh trong cơ cấu tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu cho phù hợp, hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng, doanh nghiệp sử dụng xăng dầu, bảo đảm thực hiện mục tiêu bình ổn thị trường, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho sản xuất, kinh doanh. b) Tăng cường kiểm tra, giám sát thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu trong việc trích lập, quản lý, sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm (hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý) các sai phạm theo quy định. c) Tiếp tục thực hiện kiểm tra giám sát, yêu cầu các cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thương nhân kinh doanh xăng dầu thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử theo từng lần bán hàng và kết nối dữ liệu với cơ quan thuế theo các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. d) Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan triển khai dự trữ quốc gia xăng dầu theo kế hoạch, lộ trình các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 861/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2023 về việc Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 305/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2024 về phê duyệt Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2030. Hỗ trợ thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu tiếp cận nguồn vốn, tạo nguồn hàng 3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Công Thương tiếp tục hỗ trợ các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, thương nhân phân phối xăng dầu tiếp cận nguồn vốn để khuyến khích doanh nghiệp tạo nguồn hàng, bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước theo đúng quy định pháp luật, không để lợi dụng vi phạm pháp luật. 4. Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: a) Chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam có kế hoạch, phương án sản xuất, phân phối, dự trữ, điều tiết, bán lẻ xăng dầu phù hợp, kịp thời, hiệu quả, khoa học, bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu cho thị trường. b) Theo chức năng, nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trước Nhân dân nếu thiếu chủ động để xảy ra thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. 5. Chủ tịch, Tổng Giám đốc: Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn theo chức năng, nhiệm vụ được giao: a) Chuẩn bị kỹ lưỡng kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tổ chức vận hành an toàn, ổn định các nhà máy, bảo đảm việc sản xuất, dự trữ và cung ứng đủ xăng dầu cho thị trường theo kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt và quy định của pháp luật; cung cấp đủ nguồn hàng cho thị trường trong nước theo các hợp đồng đã ký với các thương nhân đầu mối. Công bố công khai kế hoạch và khả năng sản xuất, cung ứng xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước cho doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu theo từng tháng, quý để chủ động cân đối nguồn nhập khẩu, bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu cho thị trường. Chủ động trong mọi tình huống, không để thiếu hụt nguồn cung xăng dầu, bị động do yếu tố sản xuất. b) Chỉ đạo các doanh nghiệp, cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống có kế hoạch, phương án kinh doanh, bán lẻ xăng dầu khoa học, hợp lý, bảo đảm đủ nguồn hàng đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước. Xử lý nghiêm hành vi đầu cơ găm hàng, buôn lậu xăng dầu qua biên giới 6. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, thương nhân kinh doanh xăng dầu trong việc tạo nguồn hàng, vận chuyển, lưu thông, phân phối xăng dầu; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu và bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn theo quy định; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định các hành vi đầu cơ găm hàng, buôn lậu xăng dầu qua biên giới, vi phạm quy định về kinh doanh xăng dầu, hóa đơn điện tử… 7. Hiệp hội xăng dầu Việt Nam đẩy mạnh công tác thông tin về tình hình thị trường xăng dầu thế giới và trong nước đến các hội viên, quán triệt hội viên thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thực hiện chủ động, quyết liệt các giải pháp để đảm bảo đủ nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. 8. Giao Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vấn đề phát sinh theo thẩm quyền, vượt thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ. 9. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ các vấn đề phát sinh
Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào?
Chính phủ cũng là một cơ quan có chức năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên không phải văn bản nào của Chính phủ cũng là văn bản quy phạm pháp luật. Vậy, văn bản nào của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật nào? Văn bản quy phạm pháp luật là gì? Theo khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định như sau: - Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. - Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng văn bản đó sau khi được ban hành. Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản chứa đựng những quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào? Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 thì có những văn bản sau đây do Chính phủ ban hành là văn bản quy phạm pháp luật: (1) Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. (2) Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. (3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, chỉ có nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và đoàn chủ tịch UBTWMTTQVN và với UBTVQH, nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng là văn bản quy phạm pháp luật. Còn các văn bản như Chỉ thị, Công điện của Thủ tướng, Thông báo của Văn phòng Chính phủ,... là các văn bản áp dụng pháp luật. Chính phủ được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc nào? Theo Điều 5 Luật tổ chức Chính phủ 2015 quy định nguyên tắt tổ chức và hoạt động của Chính phủ như sau: - Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; bảo đảm bình đẳng giới. - Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chức năng, phạm vi quản lý giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. - Tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, năng động, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm nguyên tắc cơ quan cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan cấp trên. - Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. - Minh bạch, hiện đại hóa hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan hành chính nhà nước các cấp; bảo đảm thực hiện một nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, hiện đại, phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Như vậy, Chính phủ sẽ được tổ chức hoạt động theo các nguyên tắc trên,
Chế độ chăm sóc sức khoẻ cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý
Cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bao gồm những ai? Cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe thế nào? Cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bao gồm những ai? Theo Tiểu Mục 1 Mục I Quy định 121-QĐ/TW 2018 quy định cán bộ cấp cao được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ (bao gồm các đồng chí đương chức và nguyên chức): - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. - Ủy viên Bộ Chính trị. - Bí thư Trung ương Đảng. - Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại tướng lực lượng vũ trang. - Ủy viên Trung ương Đảng, trưởng các ban đảng, trưởng các đoàn thể chính trị - xã hội, bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và các chức vụ tương đương; thượng tướng lực lượng vũ trang. - Phó trưởng ban đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, thứ trưởng, phó bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các chức vụ tương đương. Như vậy, cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sẽ bao gồm những người nêu trên. Chế độ chăm sóc sức khỏe cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý Theo Quy định 121-QĐ/TW 2018, cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (kể cả đương chức và nguyên chức) được hưởng các chế độ chăm sóc sức khỏe sau đây: (1) Chế độ thăm khám, kiểm tra sức khỏe toàn diện định kỳ Được thăm khám, theo dõi sức khỏe toàn diện định kỳ 6 tháng một lần. Trường hợp có bệnh lý thì thực hiện khám, kiểm tra sức khỏe theo chỉ định của Hội đồng Chuyên môn bảo vệ sức khoẻ cán bộ. (2) Chế độ thăm khám, theo dõi sức khoẻ tại nhà hoặc cơ quan Được bác sĩ tiếp cận thăm khám sức khỏe hằng ngày, riêng những trường hợp bệnh nặng, diễn biến phức tạp thì tùy theo tình hình thực tế mà bác sĩ theo dõi sức khoẻ phải theo dõi, thăm khám hằng ngày, hàng tuần hoặc theo chỉ định của Hội đồng Chuyên môn bảo vệ sức khoẻ cán bộ. (3) Chế độ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe khi đi công tác - Công tác trong nước: Khi đi công tác tại những vùng đặc biệt khó khăn trong nước sẽ được bố trí 1 bác sĩ tiếp cập. Còn nếu đi công tác tại các vùng còn lại trong nước thì có thể được bố trí bác sĩ tiếp cận tháp tùng. - Công tác nước ngoài : Còn khi đi công tác nước ngoài thì được bố trí Tổ Y tế phục vụ gồm 1 đồng chí đại diện lãnh đạo Ban hoặc Hội đồng Chuyên môn Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương và 1 bác sĩ tiếp cận cán bộ chủ chốt. Trong trường hợp đặc biệt thì có thể bổ sung đội ngũ chuyên môn y tế tháp tùng đoàn công tác. Theo đó, về cơ bán thì cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sẽ được hưởng những chế độ chăm sóc sức khoẻ trên. Ngoài các chế độ này, cán bộ lãnh đạo cấp cao còn được hưởng các chế độ khác như chế độ điều trị bệnh, chế độ nghỉ dưỡng sức, điều dưỡng kết hợp với điều trị bệnh lý,.. Đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cấp cao phải đáp ứng tiêu chuẩn thế nào? Theo Tiểu mục 1.1 Mục IV Quy định 121-QĐ/TW 2018 quy định các tiêu chuẩn về đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý như sau: - Có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cụ thể: + Bác sĩ làm việc tại các Khoa A11, Nội A, Nội A1 của các bệnh viện được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cán bộ, các phòng bảo vệ sức khỏe Trung ương là bác sĩ đa khoa, có trình độ sau đại học từ chuyên khoa cấp I trở lên thuộc một trong các chuyên khoa thuộc chuyên ngành nội khoa hoặc hồi sức cấp cứu. + Bác sĩ chuyên khoa làm việc tại các khoa, phòng chuyên khoa được phân công khám, chữa bệnh hoặc thực hiện các kỹ thuật y tế phục vụ cán bộ cấp cao là bác sĩ chuyên khoa có trình độ sau đại học từ chuyên khoa cấp I trở lên. + Nhân viên y tế làm việc tại các khoa cận lâm sàng, thăm dò chức năng... được phân công thực hiện các kỹ thuật y tế phục vụ cán bộ cấp cao là bác sĩ chuyên khoa có trình độ sau đại học từ chuyên khoa cấp I trở lên hoặc cử nhân đúng chuyên ngành có trình độ đại học trở lên. - Có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt; có tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như vậy, để được nằm trong đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì phải đáp ứng các tiêu chuẩn trên. Ngoài ra còn các tiêu chuẩn cụ thể khi chăm sóc từng chức danh.
Thủ tướng: Chậm nhất 31/12 tới phải hoàn thành xây dựng lại bản Làng Nủ
Chiều 12/9, ngay sau khi kết thúc chương trình làm việc tại Yên Bái, Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Lào Cai để thị sát tình hình, thăm hỏi đời sống người dân, kiểm tra, động viên các lực lượng đang làm nhiệm vụ ứng phó mưa lũ, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, tiếp tế nhu yếu phẩm cho người dân. Đoàn công tác của Thủ tướng trên đường kiểm tra công tác chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai tại Lào Cai, chiều 12/9 - Ảnh: VGP/Hà Văn Điểm đầu tiên Thủ tướng tới thị sát là hiện trường vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, đã khiến gần 100 người thiệt mạng và mất tích. Con đường từ huyện Bảo Yên vào thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh khoảng 12km, nhỏ, khó đi, nhiều đất đá do hậu quả của cơn bão số 3 và hoàn lưu sau bão, còn rất nhiều điểm sạt lở nguy hiểm. Lào Cai là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do đợt mưa lũ, thiên tai hiện nay. Đặc biệt, đây là địa phương thiệt hại nhân mạng nặng nề nhất tới thời điểm hiện nay, với nhiều vụ sạt lở rất nghiêm trọng. Thủ tướng thị sát hiện trường vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, khiến gần 100 người thiện mạng và mất tích - Ảnh VGP/Hà Văn Do chịu ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 (bão Yagi), từ đêm 7 đến 11/9, trên địa bàn tỉnh Lào Cai xảy ra mưa vừa, mưa to đến rất to trên diện rộng, gây ngập sâu, thiệt hại rất nghiêm trọng về người, cơ sở hạ tầng của Nhà nước, nhân dân. Thủ tướng hỏi thăm, động viên anh Hoàng Văn Voi (35 tuổi), người có vợ, con trai 12 tuổi chết trong vụ sạt lở. Mẹ đẻ và anh trai anh Voi hiện vẫn mất tích. Con gái lớn anh Voi đang được cứu chữa ở bệnh viện tỉnh - Ảnh: VGP Theo báo cáo của các địa phương, đến 7h ngày 12/9, toàn tỉnh Lào Cai có 246 người chết, mất tích, bị thương. Trong đó 82 người chết, 95 người bị mất tích và 69 người bị thương. Tổng số nhà ở bị ngập nước, sạt lở, lũ cuốn trôi trên toàn tỉnh là 9.172 nhà. Hiện nay còn 97 thôn/25 xã bị cô lập, người dân chưa đi lại được do ngập lụt, sạt lở đường giao thông. Tổng thiệt hại tài sản ước tính lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Tỉnh Lào Cai và các bộ, ngành, cơ quan đang tiếp tục huy động mọi lực lượng khẩn trương triển khai tìm kiếm cứu nạn và khắc phục hậu quả thiên tai. Riêng tại thôn Làng Nủ, tổng số lực lượng tham gia tìm kiếm cứu nạn hiện nay là 650 người; trong đó có 359 người địa phương và 300 chiến sĩ thuộc Quân khu 2. Ngoài vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, vụ sạt lở tại thôn Nậm Tông, xã Nậm Lúc, huyện Bắc Hà cũng vùi lấp hoàn toàn 8 ngôi nhà khiến 7 người chết và 11 người bị thương; đến sáng 12/9 vẫn còn 11 người mất tích. Ngay từ sáng sớm hôm nay (12/9), công tác tìm kiếm cứu nạn tại Làng Nủ tiếp tục được triển khai với sự có mặt của trên 650 người thuộc các lực lượng - Ảnh: VGP Tỉnh Lào Cai và các huyện đã tổ chức nhiều đoàn công tác xuống thăm hỏi, động viên gia đình có người bị nạn; đồng thời hỗ trợ ban đầu cho mỗi gia đình có người thiệt mạng 25 triệu đồng/người, người bị thương 5 triệu đồng/người. Các cơ quan, đơn vị, nhà hảo tâm đã đến, tặng quà, thăm hỏi những hộ dân vùng thiên tai với 100.000 suất quà, cùng nhiều nhu yếu phẩm, trang thiết bị. Các huyện đã tiếp nhận cấp phát, phân bổ kịp thời cho nhân dân vùng thiên tai. Tuy nhiên, một số xã còn bị chia cắt, cô lập chưa tiếp cận được nên việc tiếp tế gặp rất nhiều khó khăn. Gặp thân nhân các gia đình tại hiện trường vụ sạt lở tại bản Làng Nủ, Thủ tướng bày tỏ sự chia sẻ sâu sắc nhất với nỗi đau của các gia đình. Ông nêu rõ các lực lượng chức năng đang tập trung, nỗ lực cao nhất để tìm kiếm các nạn nhân trong vụ lũ quét tại đây. Nói với Thủ tướng, một người dân cho biết, sau trận lũ quét đã được chính quyền địa phương lo hậu sự, thức ăn, quần áo đầy đủ. Nhưng hiện giờ nhiều gia đình không còn gì nữa, mong Nhà nước giúp đỡ về đất đai, nhà cửa ở nơi an toàn. Thủ tướng Phạm Minh Chính tại hiện trường vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Báo cáo trong cuộc làm việc nhanh sau đó tại nhà văn hóa thôn Làng Nủ - ngay cạnh hiện trường vụ sạt lở, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường cho hay khu vực sạt lở, có 37 hộ/158 nhân khẩu. Trong 158 nhân khẩu có 84 nam và 74 nữ; dưới 16 tuổi là 18 người; trên 16 tuổi 14 người. Trong đó, có 2 hộ mất hết cả gia đình là 1 hộ 4 người và 1 hộ 2 người. Tổng số 95 người thiệt mạng, mất tích và thời điểm Thủ tướng vào, đã tìm kiếm thêm được 1 nạn nhân nam. Đến nay còn 51 người mất tích. Hiện công tác tìm kiếm đang được tích cực triển khai. Đến nay có 17 người bị thương, trong đó có 5 người chuyển lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai, 3 trường hợp chuyển lên bệnh viện Việt Đức. Có một số trường hợp tiên lượng rất nặng. Với 95 người thiệt mạng, mất tích, Chủ tịch tỉnh Lào Cai nhận định đây là vụ việc rất khủng khiếp, chưa bao giờ xảy ra. Lãnh đạo UBND tỉnh Lào Cai cho biết thêm cùng với sự phối hợp của các bộ, ngành, Quân khu 2 đã huy động lực lượng lớn tham gia tìm kiếm, cứu hộ. Tại cuộc làm việc, Thủ tướng thay mặt Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gửi lời chia sẻ, thăm hỏi với nhân dân vùng bão lũ, đồng thời, gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới những gia đình, người thân có người tử vong, mất tích trong trận lũ lụt, trôi mất gần như cả bản này. Thủ tướng yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các bộ, cơ quan, lực lượng liên quan tập trung 7 nhiệm vụ trọng tâm trong khắc phục hậu quả vụ sạt lở, ổn định đời sống nhân dân. Theo đó, tìm kiếm người mất tích; cứu chữa, chăm sóc y tế những người bị thương, bị bệnh; dọn dẹp vệ sinh, môi trường, phòng chống dịch bệnh; khôi phục lại giao thông với tinh thần Trung ương lo đường lớn, tỉnh lo tỉnh lộ, huyện lo huyện lộ, xã lo xã lộ; nhanh chóng khôi phục trường lớp để các cháu trở lại trường sớm nhất có thể; khôi phục sản xuất kinh doanh, việc làm sinh kế cho người dân, nắm chắc tình hình, những khó khăn của người dân để giải quyết. Làng Nủ trước và sau khi lũ về Thủ tướng cũng yêu cầu khảo sát, quy hoạch địa điểm an toàn với sự tham gia ý kiến khoa học của các cơ quan chuyên môn, để xây dựng lại, khôi phục bản Làng Nủ, bảo đảm các hộ dân có nơi ở an toàn với hạ tầng phù hợp, chậm nhất 31/12/2024 phải hoàn thành, tỉnh Lào Cai chủ trì triển khai, nếu thiếu gì thì báo cáo Chính phủ; vận dụng cơ chế trong trường hợp đặc biệt để xử lý các vấn đề liên quan, như huy động lực lượng công binh xây dựng lại bản làng. "Đến ngày 31/12, tất cả người còn sống, các hộ dân phải có chỗ ở, nơi sinh sống ổn định, có điện nước, nơi vui chơi, cây xanh... đảm bảo môi trường sống an toàn, lành mạnh. Không để ai bị đói, rét, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu chỗ ở, thiếu nước sạch", Thủ tướng nêu rõ. Thủ tướng yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các bộ, cơ quan, lực lượng liên quan tập trung 7 nhiệm vụ trọng tâm trong khắc phục hậu quả vụ sạt lở - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Thủ tướng cảm ơn bà con đã chấp hành nghiêm túc các chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; cảm ơn các lực lượng cứu hộ, cứu nạn đã tích cực triển khai nhiệm vụ; các cơ quan báo chí – truyền thông đã tích cực thông tin về thiên tai và hướng dẫn người dân kỹ năng ứng phó thiên tai; đề nghị Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị tích cực tham gia chăm lo đời sống cho người dân trong khu vực này. Thủ tướng cảm ơn bà con đã chấp hành nghiêm túc các chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; cảm ơn các lực lượng cứu hộ, cứu nạn đã tích cực triển khai nhiệm vụ - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ tại Lào Cai. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ) Link bài viết: https://baochinhphu.vn/thu-tuong-toi-hien-truong-vu-sat-lo-lam-gan-100-nguoi-thiet-mang-va-mat-tich-tai-lao-cai-102240912124946254.htm
Chỉ đạo của Thủ tướng về việc thực hiện di chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia
Ngày 04/9 vừa qua, Thủ tướng đã thông qua Chỉ thị 32/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 175/NQ-CP của Chính phủ phê duyệt đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia. (1) Chỉ đạo của Thủ tướng về việc thực hiện di chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia Theo Chỉ thị 32/CT-TTg, ngày 30/10/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết 175/NQ-CP phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia, nhằm tạo ra một kho dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, phục vụ cho việc xây dựng Chính phủ số, xã hội số và kinh tế số. Trung tâm này sẽ cung cấp hạ tầng công nghệ thông tin cho các tổ chức và cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, bao gồm: (i) Các cơ sở dữ liệu quốc gia chưa đầy đủ. (ii) Trùng lặp và chồng chéo trong dữ liệu. (iii) Thiếu hạ tầng công nghệ thông tin ở một số bộ, ngành. (iv) Lộ trình di chuyển hạ tầng và đồng bộ dữ liệu chưa rõ ràng. Để khắc phục những khó khăn đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng các bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương tập trung thực hiện 8 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trong đó có nhiệm vụ về việc thực hiện di chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia. Cụ thể, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu: - Các bộ, cơ quan đã thống nhất phương án chuyển hạ tầng hệ thống thông tin về Trung tâm dữ liệu quốc gia [1]: + Các bộ, cơ quan chưa ban hành kế hoạch chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia chủ trì, phối hợp Bộ Công an và các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch, lập danh sách thông tin tài nguyên của các hệ thống dự kiến di chuyển, hoàn thành trong tháng 9/2024; + Thực hiện di chuyển hệ thống công nghệ thông tin về Trung tâm dữ liệu quốc gia theo lộ trình thống nhất với Bộ Công an, thực hiện từ quý II năm 2025. - Các bộ, cơ quan đã thống nhất phương án tích hợp hạ tầng hệ thống thông tin vào nền tảng điện toán đám mây (Cloud) của Trung tâm dữ liệu quốc gia [2]: + Các bộ, cơ quan chưa ban hành kế hoạch chủ trì, phối hợp Bộ Công an và các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch, lập danh sách thông tin về nhu cầu sử dụng tài nguyên hạ tầng điện toán đám mây đối với các hệ thống dự kiến di chuyển hoặc triển khai mới, hoàn thành trong tháng 9/2024; + Bảo đảm hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin có khả năng hoạt động trên nền tảng điện toàn đám mây, sẵn sàng thực hiện di chuyển và tích hợp lên nền tảng điện toán đám mây của Trung tâm dữ liệu quốc gia, thực hiện từ quý III năm 2025. - Đối với các bộ, ngành là chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia: + Trường hợp có hạ tầng nhà trạm không đáp ứng tiêu chuẩn Trung tâm dữ liệu hạng III (TCVN 9250:2021) khẩn trương phối hợp với Bộ Công an hoàn thành xây dựng kế hoạch trong tháng 9/2024 để triển khai phương án chuyển hệ thống về Trung tâm dữ liệu quốc gia vào quý IV năm 2025; + Trường hợp có hạ tầng nhà trạm bảo đảm theo các tiêu chuẩn Trung tâm dữ liệu hạng III (TCVN 9250:2021, TIA-942 hoặc Uptime Tier-3): Tiếp tục quản trị, vận hành Trung tâm dữ liệu; phối hợp Trung tâm dữ liệu quốc gia và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đánh giá việc đầu tư nâng cấp hạ tầng nhà trạm phù hợp với lộ trình triển khai Trung tâm dữ liệu quốc gia và thời gian hết khấu hao của các thiết bị; + Trường hợp đang thuê dịch vụ hạ tầng Trung tâm dữ liệu do doanh nghiệp cung cấp: Phối hợp với Trung tâm dữ liệu quốc gia xây dựng kế hoạch và phương án chuyển hệ thống thông tin khi kết thúc hợp đồng dịch vụ, hoàn thành việc xây dựng kế hoạch trong tháng 9/2024. Những chỉ đạo này nhằm đảm bảo việc di chuyển hạ tầng diễn ra hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng quản lý và khai thác dữ liệu của các cơ quan nhà nước. [1] Bộ Ngoại giao; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Giao thông vận tải; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm toán nhà nước; Bộ Giáo dục và Đào tạo. [2] Bộ Ngoại giao; Bộ Nội vụ; Bộ Tư pháp; Bộ Công Thương; Bộ Xây dựng; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Y tế; Ủy ban dân tộc; Thanh tra Chính phủ; Văn phòng Chính phủ; Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. (2) Chỉ đạo của Thủ tướng về việc bảo đảm dữ liệu, nghiệp vụ tại Trung tâm dữ liệu quốc gia Thủ tướng đã đưa ra các yêu cầu cụ thể nhằm bảo đảm dữ liệu và nghiệp vụ tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, bao gồm: - Bộ Công an: Nghiên cứu và xây dựng mô hình nghiệp vụ cho Trung tâm, bao gồm các nghiệp vụ dữ liệu đầu vào, dịch vụ đầu ra và nghiệp vụ lõi, bảo đảm trước mắt phục vụ hiệu quả việc giải quyết thủ tục hành chính và việc phân tích các chỉ tiêu kinh tế xã hội quốc gia, chỉ tiêu thống kê các bộ, ngành, hoàn thành trong tháng 9/2024. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: + Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an rà soát, rà soát hệ thống thông tin thống kê quốc gia, thống nhất dữ liệu cần thiết cho Cơ sở dữ liệu tổng hợp, nhằm giảm gánh nặng cho các đối tượng cung cấp thông tin thống kê. + Xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu doanh nghiệp, hoàn thành trong tháng 9/2024. - Văn phòng Chính phủ: + Phát triển Cổng Dịch vụ công quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, bảo đảm kế thừa các kết quả đã triển khai. + Phát triển Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ và Hệ thống thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ tại Trung tâm. - Bộ Tài nguyên và Môi trường: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai đồng bộ với Trung tâm dữ liệu quốc gia - Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm đồng bộ với Trung tâm dữ liệu quốc gia. - Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: + Hoàn thành số hóa dữ liệu trong quý II năm 2025 và đồng bộ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia vào quý IV năm 2025. + Đồng bộ thông tin cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoàn thành trong quý IV năm 2024. + Hoàn thành đánh giá và ban hành danh mục cơ sở dữ liệu dùng chung và dữ liệu mở trong tháng 9/2024. + Phối hợp với Bộ Công an để số hóa và tạo lập dữ liệu trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hoàn thành trong tháng 12 năm 2024. Những yêu cầu này nhằm đảm bảo việc triển khai hiệu quả và đồng bộ các dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, phục vụ cho các hoạt động quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Xem chi tiết tại Chỉ thị 32/CT-TTg ngày 04/9/2024.
Thủ tướng chỉ đạo khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024
Bão số 3 năm 2024 hay còn gọi là Bão YAGI được dự đoán là một trong những cơn bão mạnh nhất sẽ đổ bộ vào nước ta trong năm nay. Vậy tình hình bão số 3 hiện tại thế nào? Thủ tướng có những chỉ đạo gì để ứng phó bão? Cập nhật tình hình bão số 3 năm 2024 (Bão YAGI) Ngày 03/9/2024, Thủ tướng Chính phủ có Công điện 86/CĐ-TTg gửi các Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình; Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Ngoại giao, Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024. Theo đó, đã cập nhật tình hình bão số 3 như sau: Sáng nay (ngày 03/9/2024), cơn bão có tên quốc tế là YAGI đã vượt qua đảo Lu-Dông (Philippin) vào khu vực đông bắc biển Đông trở thành cơn bão số 3 hoạt động trên biển Đông trong năm 2024, sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8, giật cấp 12. Dự báo, bão số 3 sẽ tiếp tục mạnh thêm, sức gió mạnh nhất trên biển có thể đạt cấp 13, giật cấp 16 trong những ngày tới, di chuyển nhanh về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) và khu vực Vịnh Bắc Bộ, khả năng rất cao ảnh hưởng trực tiếp đến vùng biển và đất liền khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta. Như vậy, bão số 3 được dự bão sẽ tiếp tục mạnh thêm và có thể đạt cấp 12, giật cấp 16 trong những ngày tới và có khả năng cao ảnh hưởng đến khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta. Thủ tướng chỉ đạo khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024 Theo Công điện 86/CĐ-TTg năm 2024, Thủ tướng nhận định đây là cơn bão được dự báo có cường độ rất mạnh. Theo đó, để chủ động ứng phó với bão và mưa lũ do ảnh hưởng của bão, Thủ tướng đã có các chỉ đạo, yêu cầu như sau: - Bộ trưởng các bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương nêu trên chủ động tổ chức theo dõi sát thông tin dự báo, diễn biến tình hình bão, mưa, lũ, kịp thời chỉ đạo, triển khai công tác ứng phó theo phương châm “bốn tại chỗ” theo nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không để bị động, bất ngờ nhằm bảo đảm an toàn tính mạng, hạn chế thấp nhất thiệt hại về tài sản cho người dân. - Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nêu trên căn cứ tình hình thực tế và khả năng ảnh hưởng của bão, mưa lũ tại địa phương chủ động thông tin kịp thời, chỉ đạo, hướng dẫn người dân ứng phó với bão, lũ, trong đó: + Tập trung bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, đảo: 1) Tổ chức rà soát, kiểm đếm, chủ động thông tin, hướng dẫn phương tiện, tàu thuyền (bao gồm cả tàu cá, tàu vận tải, tàu du lịch) còn đang hoạt động trên biển biết, không đi vào hoặc thoát ra khỏi khu vực nguy hiểm hoặc về nơi tránh trú an toàn; có biện pháp bảo đảm an toàn cho tàu thuyền tại khu neo đậu. 2) Rà soát, triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn đối với các hoạt động du lịch, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trên biển, cửa sông, ven bờ; kiên quyết sơ tán người dân trên lồng bè, chòi canh nuôi trồng thủy sản đến nơi an toàn trước khi bão ảnh hưởng trực tiếp. 3) Căn cứ tình hình cụ thể, chủ động quyết định việc cấm biển đối với tàu cá, tàu vận tải, tàu du lịch. + Bảo đảm an toàn khu vực ven biển và trên đất liền: 1) Chủ động tổ chức sơ tán người dân ra khỏi các nhà yếu không đảm bảo an toàn, khu vực có nguy cơ bị ngập sâu, sạt lở, nhất là ở cửa sông, ven biển. 2) Triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn, hạn chế thiệt hại về nhà ở, kho tàng, trụ sở, công trình công cộng, khu công nghiệp, nhà máy, đê điều; bảo vệ sản xuất nông nghiệp, chống ngập úng khu đô thị và khu công nghiệp. 3) Kiểm soát việc đi lại, tổ chức phân luồng, hướng dẫn giao thông, hạn chế người dân ra đường trong thời gian bão đổ bộ, mưa lũ lớn để đảm bảo an toàn. + Bảo đảm an toàn khu vực miền núi: 1) Chủ động di dời, sơ tán dân tại khu vực có nguy cơ bị ngập sâu, lũ quét, sạt lở đất; chuẩn bị lực lượng, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm theo phương châm “bốn tại chỗ” để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. 2) Kiểm tra, chủ động biện pháp đảm bảo an toàn các hồ chứa và hạ du; bố trí lực lượng thường trực sẵn sàng vận hành điều tiết và xử lý các tình huống. 3) Kiểm soát, hướng dẫn giao thông an toàn, nhất là qua các ngầm, tràn, khu vực ngập sâu, nước chảy xiết; chủ động bố trí lực lượng, vật tư, phương tiện để khắc phục sự cố, đảm bảo giao thông thông suốt trên các trục giao thông chính. 4) Sẵn sàng lực lượng, phương tiện để kịp thời cứu hộ, cứu nạn và khắc phục nhanh hậu quả bão, lũ nếu xảy ra tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình. - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi sát tình hình bão, lũ, chủ động chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành, địa phương liên quan kịp thời triển khai có hiệu quả công tác bảo đảm an toàn đê điều, hồ đập, bảo vệ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản, kịp thời báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền. - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường theo dõi chặt chẽ, tăng cường bản tin dự báo, cảnh báo, thông tin kịp thời về diễn biến bão, mưa lũ, nguy cơ lũ quét, sạt lở đất để các cơ quan liên quan và người dân biết chủ động triển khai các biện pháp ứng phó. - Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an chỉ đạo các lực lượng đóng trên địa bàn rà soát phương án ứng phó, chủ động tổ chức triển khai lực lượng, phương tiện sẵn sàng hỗ trợ địa phương ứng phó với bão, lũ, sơ tán dân, cứu hộ, cứu nạn. - Bộ trưởng các Bộ: Giao thông vận tải, Công Thương và các bộ, ngành có liên quan theo chức năng quản lý nhà nước và nhiệm vụ được phân công chủ động chỉ đạo, phối hợp với các địa phương triển khai công tác bảo đảm an toàn các hoạt động dầu khí trên biển, khai thác khoáng sản và hệ thống lưới điện; vận hành đảm bảo an toàn hồ chứa thủy điện; đảm bảo an toàn giao thông theo quy định. - Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan truyền thông tăng cường thời lượng, đưa tin kịp thời về diễn biến của bão, mưa lũ và công tác chỉ đạo ứng phó để người dân biết, chủ động phòng, tránh. - Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo các cơ quan thuộc quyền xử lý các vấn đề liên quan đến vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm...do bão, mưa, lũ gây ra. - Giao Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai Công điện này. - Văn phòng Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Công điện này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách những vấn đề đột xuất, phát sinh. Như vậy, để đối phó với cơn bão số 3 năm 2024, Thủ tướng đã chỉ đạo các bộ, ban, ngành có các biện pháp ứng phó như trên.
Thủ tướng chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, văn hóa không chỉ là một giá trị tinh thần mà còn là một nguồn lực kinh tế vô cùng quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TTg về phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. (1) Khó khăn, hạn chế và định hướng phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam Theo Chỉ thị 30/CT-TTg, ngành công nghiệp văn hóa trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, được coi là yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững và định vị thương hiệu quốc gia và Việt Nam được nhận định là có nhiều tiềm năng để phát triển lĩnh vực này, phù hợp với xu thế toàn cầu. Trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ đề ra, việc thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định 1755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ bước đầu đã đạt được một số kết quả tích cực đáng ghi nhận. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn còn 08 khó khăn, hạn chế bao gồm: - Thiếu văn bản pháp luật rõ ràng về quản lý nhà nước. - Cơ chế, chính sách chưa theo kịp thực tiễn. - Cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ. - Nguồn lực đầu tư chưa tương xứng và dàn trải. - Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. - Chưa xác định được sản phẩm, dịch vụ chủ lực. - Hệ thống thống kê chưa chuẩn hóa. - Vi phạm bản quyền chưa được ngăn chặn hiệu quả. Do đó, định hướng phát triển ngành công nghiệp văn hóa hiện tại của chúng ta là ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy quyền sở hữu trí tuệ để tạo ra sản phẩm văn hóa có giá trị. Bên cạnh đó, việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa phải khai thác hiệu quả tiềm năng, liên kết đa ngành và đảm bảo tính sáng tạo, độc đáo, và bền vững. Và mục tiêu chính là hướng tới xây dựng thương hiệu quốc gia và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và luật pháp quốc tế. (2) Thủ tướng chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam Theo Chỉ thị 30/CT-TTg, trong giai đoạn mới, để các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, tương xứng với tiềm năng, lợi thế và mang lại giá trị gia tăng kinh tế lớn, góp phần quan trọng phát huy và quảng bá các giá trị tốt đẹp, đặc sắc của văn hóa, truyền thống dân tộc, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: - Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: + Nâng cao nhận thức về vai trò của ngành công nghiệp văn hóa; đề cao trách nhiệm lãnh đạo. + Rà soát và đề xuất sửa đổi các chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư và cải cách thủ tục hành chính. - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: + Tuyên truyền về vai trò của ngành công nghiệp văn hóa. + Xây dựng phương án đầu tư cho các lĩnh vực ưu tiên như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn. + Phát triển cơ sở dữ liệu và bản đồ số về ngành công nghiệp văn hóa. - Bộ Thông tin và Truyền thông: + Hỗ trợ phát triển sản phẩm phần mềm và trò chơi điện tử mang bản sắc Việt Nam. + Thúc đẩy chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. - Bộ Công Thương: + Triển khai sản phẩm công nghiệp văn hóa gắn với cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". + Hỗ trợ phát triển các lĩnh vực thủ công mỹ nghệ và thiết kế. - Bộ Xây dựng: Hoàn thiện cơ chế về kiến trúc để quảng bá sản phẩm văn hóa. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới. - Bộ Ngoại giao: Tăng cường quảng bá thương hiệu sản phẩm văn hóa Việt Nam ra thế giới. - Bộ Khoa học và Công nghệ: Thực hiện chương trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030. - Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đào tạo giảng viên cho ngành công nghiệp văn hóa. - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động trong ngành văn hóa. - Ngân hàng Nhà nước: Phát triển sản phẩm tín dụng cho doanh nghiệp trong ngành văn hóa. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hướng dẫn đầu tư theo phương thức đối tác công - tư. - Bộ Tài chính: Hỗ trợ ngân sách cho phát triển ngành công nghiệp văn hóa. - Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố: Phát triển ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương và xây dựng kế hoạch ưu tiên đầu tư. - Các hội, hiệp hội: Kết nối doanh nghiệp và hỗ trợ sáng tạo trong ngành văn hóa. - Cộng đồng doanh nghiệp: Hợp tác phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa. - Chuyên gia và cá nhân sáng tạo: Nghiên cứu và phát triển sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu công chúng. - Các cơ quan báo chí: Tăng cường tuyên truyền về ngành công nghiệp văn hóa. - Chỉ đạo thực hiện: Các bộ, ngành và địa phương phải ban hành kế hoạch cụ thể và báo cáo kết quả thực hiện. - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Là cơ quan đầu mối theo dõi và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện chỉ thị. Theo đó, các nhiệm vụ, yêu cầu mà Thủ tướng đề ra bao hàm các nội dung chính như: phải nâng cao nhận thức, sửa đổi chính sách, đầu tư vào văn hóa, hỗ trợ phát triển công nghệ, thúc đẩy sản phẩm văn hóa, đào tạo và hỗ trợ doanh nghiệp, kết nối và hợp tác nhằm tháo gỡ những khó khăn, hạn chế để phát triển ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam. Chỉ thị 30/CT-TTg không chỉ tạo ra động lực cho ngành công nghiệp văn hóa mà còn góp phần phát huy và quảng bá giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo công khai, minh bạch thu, chi tiền công đức
Ngày 08/8/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện 77/CĐ-TTg yêu cầu tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc. Công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ vẫn còn một số hạn chế Đây là một trong những nội dung tại Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024. Cụ thể, tại Công điện 77/CĐ-TTg, Thủ tướng đã nêu: - Thời gian qua, triển khai các quy định tại Nghị định 110/2018/NĐ-CP, Thông tư 04/2023/TT-BTC và tiền công đức, tài trợ, công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc đã đạt được một số kết quả nhất định. Hầu hết các địa phương đã xây dựng và ban hành văn bản quy định về quản lý tiền công đức, tài trợ, bảo đảm phù hợp với thực tế của từng di tích và phong tục, tập quán của địa phương. - Nguồn thu công đức, tài trợ tại các di tích đã được sử dụng công khai, minh bạch, không những cho việc tu bổ, tôn tạo di tích và tổ chức lễ hội, tạo sức hấp dẫn đối với du khách, mà còn đóng góp tích cực cho các hoạt động cộng đồng thông qua các hoạt động hỗ trợ cho người có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, ủng hộ xây nhà cho hộ nghèo, làm đường giao thông nông thôn, xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ cộng đồng… - Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ vẫn còn một số hạn chế. Số liệu báo cáo thu, chi tiền công đức, tài trợ của các di tích, kể cả di tích xếp hạng quốc gia đặc biệt mới chỉ phản ánh một phần, chưa đầy đủ. Còn một số cơ sở di tích lịch sử - văn hóa chưa báo cáo kịp thời, đầy đủ công tác quản lý tiền công đức, tiền tài trợ; chưa thực hiện lắp đặt camera để giám sát tại các điểm tiếp nhận, kiểm đếm tiền công đức, tài trợ. Vẫn tồn tại tình trạng du khách đặt nhiều loại tiền trên các ban thờ tại các di tích làm mất đi sự tôn nghiêm, thanh tịnh nơi thờ tự. Việc quản lý tiền công đức, tiền tài trợ có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, tiềm ẩn rủi ro để thất thoát, trộm cắp… Theo đó, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc sử dụng nguồn thu công đức, tài trợ tại các di tích thì vẫn còn một số hạn chế như số liệu báo cáo thu, chi chưa đầy đủ, chưa có camera giám sát,... Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo công khai, minh bạch thu, chi tiềncông đức Tại Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: - Nghiên cứu nội dung báo cáo, kiến nghị của Bộ Tài chính về kết quả kiểm tra tổng thể việc quản lý tiền công đức, tài trợ tại các di tích lịch sử-văn hóa trên phạm vi toàn quốc năm 2023 tại văn bản 174/BC-BTC ngày 26/6/2024, theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, kịp thời, hiệu quả theo quy định để tăng cường công tác quản lý tiền công đức, tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hoá; - Rà soát văn bản, quy định của địa phương liên quan đến quản lý thu, chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội để ban hành Quyết định mới hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp theo quy định của Bộ Tài chính; - Chỉ đạo các tổ chức, cá nhân có liên quan công khai, minh bạch việc thu, chi các khoản công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội và cung cấp thông tin kịp thời khi được cơ quan chức năng có thẩm quyền yêu cầu theo quy định của pháp luật. - Tăng cường công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội, huy động sự vào cuộc, đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; - Cây dựng kế hoạch kiểm tra định kỳ và tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội được sử dụng chặt chẽ, công khai, minh bạch, hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm theo quy định của pháp luật, tuyệt đối không để xảy ra lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi, phục vụ lợi ích cá nhân; - Góp phần giữ gìn, phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đóng góp tích cực cho việc bảo tồn, tu bổ, tôn tạo di tích, tổ chức lễ hội, phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc Việt Nam. Như vậy, thông qua Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024, Thủ tướng đã yêu cầu chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW chỉ đạo tổ chức, cá nhân có liên quan công khai, minh bạch việc thu, chi các khoản công đức và cung cấp thông tin kịp thời khi được cơ quan chức năng có thẩm quyền yêu cầu. Ngoài chỉ đạo đối với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW, Thủ tướng cũng có các yêu cầu đối với Bộ trưởng các Bộ và Văn phòng Chính phủ trong công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc. Xem chi tiết tại Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024
Chính phủ thảo luận về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao và 4 dự án luật, đề nghị xây dựng luật
Ngày 24/7, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 7/2024 - phiên họp chuyên đề pháp luật thứ 6 trong năm 2024. Mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thành kính dành phút mặc niệm tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa từ trần- Ảnh: VGP/Nhật Bắc Cùng tham dự phiên họp có các Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ. Theo chương trình, phiên họp thảo luận về 5 nội dung quan trọng gồm 2 đề nghị xây dựng luật (Luật Tình trạng khẩn cấp, Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi)); 2 dự án luật (Luật Điện lực (sửa đổi), Luật Việc làm (sửa đổi)); Đề án về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam. Mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thành kính dành phút mặc niệm tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa từ trần. Phát biểu ý kiến khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, đột phá về thể chế là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Chính phủ rất coi trọng công tác này và từ đầu nhiệm kỳ tới nay, Chính phủ đã tổ chức 27 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật; cho ý kiến, xem xét, thông qua đối với hơn 100 đề nghị xây dựng luật, dự án luật, trình Quốc hội xem xét, thông qua hơn 60 luật, nghị quyết. Chính phủ ban hành hơn 380 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành gần 90 quyết định quy phạm. Thủ tướng nhắc lại yêu cầu các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng thể chế; thường xuyên rà soát, xem xét các vướng mắc, vấn đề phát sinh trên thực tiễn, những vấn đề mới, những vấn đề cần phải có các quy định pháp luật - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Riêng trong năm 2024, Chính phủ đã tổ chức 5 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, cho ý kiến, thông qua đối với 26 đề nghị xây dựng luật, nghị quyết, dự án luật. Đặc biệt, Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban. Theo Thủ tướng, ngoài việc cần coi trọng về số lượng, bảo đảm tiến độ, phải đặc biệt coi trọng chất lượng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là thực hiện phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của cấp dưới, thiết kế các công cụ giám sát, kiểm tra; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, chấm dứt cơ chế "xin-cho", giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho các cơ quan, người dân, doanh nghiệp. Nguyên tắc xây dựng luật là phải tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, vượt qua thách thức phát sinh trong thực tiễn, từ đó huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển đất nước theo mục tiêu Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Thủ tướng nhắc lại yêu cầu các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng thể chế; thường xuyên rà soát, xem xét các vướng mắc, vấn đề phát sinh trên thực tiễn, những vấn đề mới, những vấn đề cần phải có các quy định pháp luật để góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, đầu tư nguồn lực cho công tác xây dựng thể chế; bảo đảm các điều kiện về tư liệu, tài liệu, các trang thiết bị cần thiết khác; bố trí những cán bộ đủ trình độ, năng lực, có trách nhiệm cao, đam mê, cảm xúc đối công việc; khuyến khích đổi mới sáng tạo, sáng kiến và ưu tiên chế độ chính sách phù hợp với những cán bộ tham gia xây dựng pháp luật. Thủ tướng chỉ đạo đã qua 6 tháng đầu năm 2024 và 3 năm của nhiệm kỳ này, các bộ, ngành cần xem xét những cán bộ nào từ đầu nhiệm kỳ đến nay có thành tích xuất sắc trong xây dựng thể chế thì đề xuất khen thưởng đột xuất; Bộ Nội vụ quan tâm và hướng dẫn công tác này. Bên cạnh đó, phải rà soát lại những ai chưa làm tốt phải kiểm điểm, nhắc nhở; ai vi phạm phải xử lý; bảo đảm công bằng, minh bạch, khách quan, bình đẳng. Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung trí tuệ, tiếp tục tinh thần đổi mới; trình bày báo cáo, phát biểu ý kiến ngắn gọn, rõ ý, đi thẳng vào vấn đề; tập trung trao đổi về các vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác nhau cần thảo luận, xin ý kiến Chính phủ - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Cũng tại phiên họp này, Chính phủ thảo luận Đề án về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam để trình có cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Bộ Chính trị đã có Kết luận 49-KL/TW ngày 28/2/2023 về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là việc lớn, quan trọng, phải lấy ý kiến của các thành viên Chính phủ trước khi trình cấp có thẩm quyền để triển khai, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, Kết luận của Bộ Chính trị. Lưu ý thời gian phiên họp có hạn, yêu cầu cao, phạm vi rộng, nội dung phong phú, Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung trí tuệ, tiếp tục tinh thần đổi mới; trình bày báo cáo, phát biểu ý kiến ngắn gọn, rõ ý, đi thẳng vào vấn đề; tập trung trao đổi về các vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác nhau cần thảo luận, xin ý kiến Chính phủ; bảo đảm tiến độ, chất lượng của Phiên họp với tinh thần "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm", từ đó dễ kiểm tra, giám sát, đôn đốc, thi đua khen thưởng. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ) Link: https://baochinhphu.vn/phien-hop-chinh-phu-ve-chu-truong-dau-tu-duong-sat-toc-do-cao-va-4-du-an-de-nghi-xay-dung-luat-102240724091334714.htm
Yêu cầu của Thủ tướng về việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT và quản lý trẻ em dịp nghỉ hè
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 60/CĐ-TTg ngày 22/6/2024 về việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm học 2024, và việc quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè Tại Công điện 60/CĐ-TTg ngày 22/6/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền luôn đặc biệt quan tâm đến công tác tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và công tác quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè. Các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và cả hệ thống chính trị đã tham gia và phối hợp với ngành Giáo dục để triển khai thực hiện các công tác này. Do đó, để việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2024 được an toàn, nghiêm túc, thật chu đáo; hoạt động vui chơi, giải trí cho trẻ em, học sinh trong kỳ nghỉ hè thật sự an toàn, hữu ích, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tại công điện những nội dung sau: Chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 Theo đó, Thủ tướng yêu cầu các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện: 1- Tập trung chỉ đạo và quán triệt các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức có liên quan tham gia, phối hợp có hiệu quả với ngành Giáo dục để chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho Kỳ thi, thực hiện nghiêm Chỉ thị 15/CT-TTg 2- Chỉ đạo các cấp, các ngành, các tổ chức có liên quan phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục: - Triển khai các biện pháp bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn cho Kỳ thi; chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi sử dụng thiết bị công nghệ cao để gian lận trong Kỳ thi; - Tạo điều kiện thuận lợi về ăn ở, đi lại cho học sinh đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, vùng sâu, vùng xa; học sinh khuyết tật và học sinh tại các vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai tham dự Kỳ thi với phương châm không để học sinh nào phải bỏ thi vì gặp khó khăn về kinh tế, đi lại; - Chủ động các phương án đề phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường; cung ứng đầy đủ điện, nước sinh hoạt trong quá trình tổ chức Kỳ thi; - Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát Kỳ thi; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế thi, đưa thông tin không đúng về Kỳ thi. Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn cho Kỳ thi Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 15/CT-TTg và thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn, nghiêm túc, hiệu quả Kỳ thi, trong đó: - Bộ Giáo dục và Đào tạo bảo đảm đề thi chất lượng, chính xác, tuyệt đối an toàn, tập trung chỉ đạo và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn diện Kỳ thi. - Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục triển khai các biện pháp bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn cho Kỳ thi; phòng ngừa, phát hiện xử lý kịp thời các hành vi sử dụng thiết bị công nghệ cao để gian lận trong Kỳ thi. - Bộ Y tế chỉ đạo các địa phương triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường; chuẩn bị nhân lực, vật tư, trang thiết bị y tế thực hiện công tác khám, chữa bệnh cho các trường hợp thí sinh và những người tham gia tổ chức Kỳ thi có vấn đề về sức khoẻ. Quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè Ngoài việc đảm bảo cho kỳ thi tốt nghiệp THPT được diễn ra an toàn, thuận lợi, Thủ tướng còn yêu cầu các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc chỉ đạo các cấp, các ngành, các tổ chức, đặc biệt là Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Ban Bảo vệ trẻ em các cấp tạo điều kiện để trẻ em, học sinh được vui chơi, giải trí an toàn, lành mạnh, hữu ích trong dịp nghỉ hè. Bên cạnh đó, phối hợp với gia đình quản lý, giám sát trẻ em, học sinh trong thời gian không đến trường bảo đảm an toàn nhất là phòng, chống tai nạn, thương tích, đuối nước và việc xâm hại trẻ em trên môi trường mạng. Ngoài ra, Thủ tướng cũng giao cho: - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đôn đốc, hướng dẫn các địa phương thực hiện công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, nhất là phòng, chống tai nạn thương tích, phòng, chống đuối nước trẻ em, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác này. - Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các địa phương thực hiện các biện pháp phòng, chống xâm hại trẻ em trong không gian mạng. Cuối công điện, Thủ tướng giao cho Phó Thủ tướng Lê Thành Long chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo việc thực hiện Kỳ thi và việc quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè theo Công điện này và các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Nhà tạm, nhà dột là gì? Lan rộng phong trào "Xóa nhà tạm, nhà dột" do Thủ tướng phát động
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động phong trào thi đua cả nước chung tay "Xóa nhà tạm, nhà dột nát" trên cả nước trong năm 2025. (1) Như thế nào là nhà tạm, nhà dột? Theo quy định, nhà tạm, nhà dột nát là loại nhà xây dựng bằng các vật liệu tạm thời, dễ cháy, có niên hạn sử dụng dưới 5 năm hoặc không đảm bảo “3 cứng” (nền cứng, khung cứng, mái cứng), thiếu diện tích ở, thiếu nhà bếp, nhà vệ sinh, không đảm bảo an toàn cho người sử dụng Trong văn bản hướng dẫn Hướng dẫn 01/HD-SXD của Sở Xây dựng tỉnh Bình định ban hành, nhà tạm, nhà dột nát là nhà có các đặc điểm sau đây: Nhà tạm: - Nền: bằng đất hoặc lát bằng gạch nhưng không có chít mạch gắn kết bằng vữa xi măng; - Sàn: bằng tre, nứa (đối với nhà sàn); - Cột, kèo, xà gồ, đòn tay: bằng cây gỗ tạp hoặc bằng tre, nứa.. - Liên kết cột, kèo, xà gồ, đòn tay không chắc chắn (dây buộc, đinh, chốt gỗ dễ mục ...), không có liên kết bằng bu lông, mộng gỗ....; - Tường bao che: bằng đất, phên tre, tôn, bằng gạch rỗng liên kết bằng các thanh luồn qua lỗ gạch….; - Mái: lợp bằng vật liệu tranh, rơm, lá các loại; - Thiếu nhà bếp, nhà vệ sinh Nhà dột nát: - Có kết cấu chịu lực bị mối, mục. Tường, mái lợp không có đủ khả năng che mưa, che nắng, không đảm bảo an toàn cho người sử dụng. - Mái bằng ngói, tôn, fibro xi-măng, tranh, rơm, rạ, lá ... đã bị thủng, dột nước, không có đủ khả năng che mưa, che nắng; kết cấu đỡ mái bằng gỗ hoặc sắt bị cong vênh nhiều, nhiều chỗ bị mục; - Cột, dầm, sàn, trần bê tông nứt rạn nhiều chỗ, cốt thép bị đứt, lộ rỉ sét nhiều chỗ; móng, tường có vết nứt, mục, cong vênh, có nguy cơ sụp đổ, không còn an toàn cho người ở. Theo đó, nhà tạm, nhà dột nát là những căn nhà có kết cấu tạm bợ, dựng lên để ở thời gian ngắn. Tuy nhiên, nhiều người dân đã sống trong những căn nhà như vậy suốt thời gian dài. Những căn nhà tạm, nhà dột nát này có nguy cơ sập, đổ bất cứ lúc nào, không đảm bảo an toàn cho người dân sinh sống bên trong đó. Do đó, ngày 13/4 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động phong trào thi đua cả nước chung tay "Xóa nhà tạm, nhà dột nát" trên cả nước trong năm 2025. (2) Lan rộng phong trào "Xóa nhà tạm, nhà dột" do Thủ tướng phát động Phong trào “Xóa nhà dột, nhà tạm” do Thủ tướng phát động được lan tỏa rộng rãi, việc này vừa góp phần ổn định, cải thiện đời sống của người dân, đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vừa đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Thủ tướng tham gia khởi công xây nhà mới cho hộ gia đình ông Xa Văn Vọng, xóm Sơn Phú, xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình Thực tế thì việc hành động xóa nhà dột, nhà tạm đã được thực hiện từ nhiều năm trước đây, tuy nhiên việc Thủ tướng phát động phong trào xóa 100% nhà tạm, nhà dột trong năm 2025 đã làm sức nóng của việc xây nhà cho người dân khó khăn càng được quan tâm nhiều hơn nữa. Trong những năm qua, tỉnh Cao Bằng luôn quan tâm, kịp thời triển khai, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chương trình giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới. Trên địa bàn toàn tỉnh đã hỗ trợ về nhà ở cho 3.656/16.049 hộ nghèo, cận nghèo, gia đình chính sách (đạt tỉ lệ 22,78%). Còn tại Tuyên Quang, phong trào xóa nhà dột, nhà tạm đã được triển khai hiệu quả tại xã Minh Hương - một xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn của huyện Hàm Yên. Bắc Giang cũng là địa phương triển khai hiệu quả công tác xóa nhà dột, nhà tạm. Năm 2022-2023, tỉnh Bắc Giang xây dựng hơn 3.000 ngôi nhà từ chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, giúp các hộ nghèo, gia đình chính sách có căn nhà mới khang trang, ổn định cuộc sống. Trong năm 2024, tỉnh Bắc Giang đề ra chỉ tiêu xóa 100% nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hỗ trợ 100% gia đình người có công gặp khó khăn về nhà ở, nhà xuống cấp cần được sửa chữa, xây mới trên địa bàn tỉnh. Chương trình vận động, hỗ trợ được triển khai đến từng hộ gia đình; bảo đảm dân chủ, công khai, công bằng và minh bạch, đúng quy định; phù hợp với phong tục, tập quán và điều kiện thực tiễn và gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Từ đó, hỗ trợ trực tiếp đến từng hộ gia đình để xây dựng mới hoặc sửa chữa nhà ở, cộng đồng giúp đỡ, hộ gia đình tự tổ chức xây dựng nhà ở; hộ gia đình được hỗ trợ nhà ở, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Thành viên Chính phủ gồm những ai? Thủ tướng Chính phủ do ai bầu ra?
Thành viên Chính phủ gồm những ai? Thủ tướng Chính phủ do ai bầu ra? Thủ tướng chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì? bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Thành viên Chính phủ gồm những ai? Theo Điều 2 Luật Tổ chức Chính phủ 2015 quy định về cơ cấu tổ chức và thành viên của Chính phủ, trong đó: Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Thủ tướng Chính phủ do ai bầu ra? Thủ tướng Chính phủ được quy định theo Điều 98 Hiến pháp 2013 như sau: Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Đồng thời, theo Điều 8 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 thì Quốc hội bầu các chức danh chức danh trong bộ máy nhà nước gồm: Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước. Như vậy, theo quy định nêu trên thì Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ? Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Điều 98 Hiến pháp 2013, được cụ thể hoá tại Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ 2015. Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ bao gồm: - Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí: + Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; + Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các văn bản pháp luật và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; + Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các thành viên Chính phủ; quyết định các vấn đề khi còn có ý kiến khác nhau giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; + Lãnh đạo việc thực hiện công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà nước và các hoạt động kinh tế - xã hội; + Lãnh đạo, chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các quy định của pháp luật và các chương trình, kế hoạch, chiến lược của Chính phủ trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh; + Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi toàn quốc. - Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, liên tục của nền hành chính quốc gia: + Quản lý và điều hành hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương trong quá trình phục vụ Nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh; + Chỉ đạo việc quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập + Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước; + Lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, thanh tra công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; + Quyết định phân cấp hoặc ủy quyền thực hiện những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập + Lãnh đạo, chỉ đạo việc quản lý, điều hành toàn bộ cơ sở vật chất, tài chính và nguồn ngân sách nhà nước để phục vụ cho sự vận hành của bộ máy nhà nước; + Ủy quyền cho Phó Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; + Lãnh đạo, chỉ đạo công tác cải cách hành chính và cải cách chế độ công vụ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; + Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. - Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; trong thời gian Quốc hội không họp, trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ. - Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định giao quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, quyết định giao quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. - Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ. - Phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới khi không hoàn thành nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao hoặc vi phạm pháp luật. - Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ. - Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan, tổ chức khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quyết định thành lập hội đồng, Ủy ban hoặc ban khi cần thiết để giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng liên ngành. - Triệu tập và chủ trì các phiên họp của Chính phủ. Như vậy, Thủ tướng Chính phủ là chức danh cao nhất của Chính phủ, sẽ được bầu từ đại biểu Quốc hội, có những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật.
Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm trước Chính Phủ về bảo đảm trật tự ATGT dịp 30/04 - 01/05
Ngày 11/04/2024, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã ký Công điện 36/CĐ-TTg về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân dịp nghỉ lễ 30/4 - 01/5 và cao điểm du lịch hè 2024. Cụ thể, để đảm bảo trật tự an toàn giao thông cũng như tạo thuận lợi cho người dân cả nước đi lại trong dịp 30/04 - 01/05 và cao điểm du lịch hè năm 2024, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan, bộ, ngành thực hiện những nhiệm vụ như sau: (1) Phân luồng giao thông, đảm bảo an toàn và thông suốt Theo Công điện 36/CĐ-TTg, Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo tăng cường tuần tra, kiểm soát. Qua đó, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và cả những trường hợp điều khiển phương tiện vi phạm quy định về nồng độ cồn, ma tuý, chở quá tải trọng, quá số người quy định, phương tiện kinh doanh vận tải vi phạm về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường,… Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Công an chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tụ tập gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép và cương quyết xử lý, trấn áp những đối tượng có hành vi chống người thi hành công vụ. Ngoài ra, Bộ Công an phải có phương án điều tiết, phân luồng giao thông hợp lý, hướng dẫn lưu thông an toàn, thông suốt. Đặc biệt là trên các tuyến đường, các khu vực được dự báo sẽ có lưu lượng phương tiện tham gia giao thông tăng cao trong dịp nghỉ lễ 30/4-01/5 và nghỉ hè 2024. (2) Tổ chức các điểm dừng nghỉ tạm thời dọc các tuyến cao tốc chưa có trạm dừng nghỉ Bộ Giao thông vận tải được giao trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan trực thuộc, các Sở và các đơn vị kinh doanh vận tải xây dựng phương án tổ chức vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, bảo đảm an toàn giao thông, giảm ùn tắc giao thông. Đối với kết cấu hạ tầng giao thông, phải được bảo đảm chỉnh trang, đáp ứng được những điều kiện an toàn, trường hợp xảy ra sự cố phải kịp thời khắc phục. Những tuyến giao thông trọng điểm, nhất là các tuyến giao thông chính, các đầu mối giao thông quan trọng, nhất là tại các đô thị lớn và địa bàn thu hút đông khách du lịch phải được khẩn trương hoàn thành nâng cấp, sửa chữa. Bên cạnh đó, trên những đoạn, tuyến, công trình có hoạt động thi công xây dựng cũng phải bảo đảm thực hiện nghiêm việc tổ chức, hướng dẫn bảo đảm giao thông. Đối với đường cao tốc, đặc biệt là các tuyến cao tốc phân kỳ có 02 làn xe chưa có làn dừng khẩn cấp. Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan liên quan kiểm tra, rà soát kết cấu hạ tầng giao thông (nhất là hệ thống báo hiệu đường bộ) và phương án tổ chức giao thông. Để từ đó phát hiện và xử lý kịp thời tồn tại, bất cập phát sinh. Bên cạnh đó cũng phải lưu ý những trường hợp các tuyến cao tốc chưa có trạm dừng nghỉ thì phải có giải pháp về phân luồng điều tiết giao thông từ xa, tổ chức các điểm dừng nghỉ tạm thời. Trong trường hợp cần thiết, phê duyệt điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế phương án tổ chức giao thông, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế, nâng cao an toàn giao thông. (3) Tăng cường thời lượng tuyên truyền về ATGT Nội dung chỉ đạo này dành cho Bộ Thông tin và Truyền thông, theo đó Bộ có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tấn báo chí tăng cường thời lượng và nội dung tuyên truyền về ATGT. Đối với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các cơ quan thông tấn báo chí và các tổ chức chính trị - xã hội phải tổ chức thông tin, tuyên truyền về hậu quả của tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đã từng xảy ra trước đây để người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về an toàn giao thông và phòng tránh tai nạn giao thông. Đồng thời, phải cảnh báo về các hành vi, các địa bàn và những tình huống về thời tiết, môi trường có nguy cơ cao dẫn đến tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông. (4) Bảo đảm khả năng cao nhất trong việc cứu chữa nạn nhân gặp tai nạn Bộ Y tế phải chỉ đạo các Sở Y tế cùng các cơ sở khám, chữa bệnh trong cả nước tăng cường lực lượng, phương tiện, trang thiết bị y tế cũng như thuốc men để bảo đảm khả năng cao nhất trong việc cứu chữa khi xảy ra tai nạn giao thông, giảm thiểu tối đa thiệt hại về người. (5) Bảo đảm an toàn giao thông trong công tác tổ chức du lịch Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan trực thuộc, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu các tổ chức cá nhân có liên quan đưa nội dung bảo đảm an toàn giao thông vào trong công tác tổ chức các hoạt động du lịch trên toàn quốc, đặc biệt là bảo đảm các điều kiện an toàn về phương tiện, kết cấu hạ tầng giao thông kết nối đến các địa bàn thu hút khách du lịch, điểm đỗ và trông giữ phương tiện phục vụ khách du lịch. (6) Tuyệt đối không giao phương tiện hoặc để cho người không đủ điều kiện Công điện 36/CĐ-TTg nêu rõ, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục trên toàn quốc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 31/CT-TTg về tăng cường công tác bảo đảm TTATGT cho lứa tuổi học sinh trong tình hình mới, yêu cầu phụ huynh phải có biện pháp giáo dục, quản lý chặt chẽ con em mình trong thời gian nghỉ hè, tuyệt đối không giao phương tiện hoặc để cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông. (7) Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm trước Chính Phủ về bảo đảm trật tự, ATGT Theo đó, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng tăng cường tuyên truyền, vận động người dân chấp hành các quy định của pháp luật về trật tự ATGT. Đồng thời, phải có giải pháp kiểm soát chặt chẽ và phương án tổ chức giao thông an toàn, thông suốt, gắn chặt với hướng dẫn, hỗ trợ người dân trong việc đi lại. Nỗ lực cao nhất không để xảy ra TNGT đặc biệt nghiêm trọng, nhất là trên tuyến, khu vực có nguy cơ cao xảy ra TNGT, ùn tắc giao thông trên địa bàn. Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND các tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo đảm trật tự ATGT trên địa bàn mình quản lý. Riêng đối với những địa phương có địa hình đèo dốc quanh co nguy hiểm ngoài việc tuyên truyền hướng dẫn các lái xe tuần thủ quy định còn phải có phương án phân luồng giao thông phù hợp với thực tế lưu lượng phương tiện. Các địa phương có các tuyến cao tốc đi qua, phối hợp thực hiện tốt phương án tổ chức giao thông trên các tuyến cao tốc phân kỳ đầu tư có hai làn xe, chưa có làn dừng khẩn cấp, chưa có trạm dừng nghỉ. (8) Tổ chức trực theo chế độ 24/7, phối hợp, trao đổi thông tin trực về bảo đảm ATGT Tại nội dung cuối cùng của Công điện 36/CĐ-TTg, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải tổ chức trực theo chế độ 24/7. Đồng thời, tăng cường công tác phối hợp, trao đổi thông tin trực về bảo đảm trật tự ATGT giữa các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ trên tuyến, địa bàn (như lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, các đơn vị quản lý đường bộ, các đơn vị chức năng có liên quan). Bên cạnh đó, phải công bố số điện thoại đường dây nóng về bảo đảm trật tự ATGT để tiếp nhận, kịp thời xử lý các phản ánh của người dân về tình hình ATGT trong dịp nghỉ lễ trên địa bàn.
Thủ tướng: An minh mạng cần được tăng cường mạnh mẽ
Sau hàng loạt vụ tấn công mạng bằng Ransomware, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có Công điện yêu cầu tăng cường bảo đảm an ninh mạng. Hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp cần phải được quan tâm, triển khai bảo đảm an toàn thông tin mạng ở mức độ cao nhất. Thủ tướng đã có nhiều văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương về tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng sau hàng loạt vụ tấn công mạng gần đây nhắm đến các cơ quan, tổ chức, gây hoang mang và lo lắng về độ an toàn trên không gian mạng cho công dân. Trước tình hình phức tạp, một số ngành, lĩnh vực chưa quán triệt, ưu tiên nguồn lực triển khai, để xảy ra sự cố gây mất an toàn thông tin mạng và tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn không gian mạng Việt Nam. Do đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 33/CĐ-TTg ngày 7/4/2024 yêu cầu tăng cường bảo đảm an ninh mạng, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng Triển khai cấp thiết các nhiệm bảo đảm an ninh mạng Thủ tướng Chính phủ yêu cầu triển khai một số nhiệm vụ cấp thiết sau: 1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp: - Tiếp tục thực hiện quyết liệt, có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tập trung vào các nội dung trọng tâm; - Trường hợp xảy ra sự cố tấn công mạng, tuân thủ nghiêm túc theo quy định và chỉ đạo tại Quyết định 05/2017/QĐ-TTg ngày 16/03/2017, Chỉ thị 18/CT-TTg ngày 13/10/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 20/2017/TT-BTTTT ngày 12/9/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông; - Hằng Quý gửi Bộ Thông tin và Truyền thông báo cáo tình hình bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với các hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý trước ngày 20 của tháng cuối Quý. 2. Bộ trưởng, Thủ trưởng các Bộ, Cơ quan: Giao thông vận tải, Công Thương, Tài Nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Y tế, Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại khoản 1 Công điện này phải tập trung chỉ đạo thực hiện ngay những nhiệm vụ cụ thể sau: - Chủ trì, phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các tổ chức, doanh nghiệp chủ quản hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp (gọi tắt là tổ chức, doanh nghiệp): + Thực hiện rà soát, đánh giá và báo cáo tình hình bảo đảm an toàn thông tin theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành liên quan có chức năng quản lý an toàn, an ninh mạng. + Hoàn thành phê duyệt hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn cho 100% hệ thống thông tin trong tháng 9/2024 và triển khai đầy đủ phương án bảo đảm an toàn thông tin + Định kỳ kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin - Phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông, các bộ, ngành có chức năng quản lý an toàn, an ninh mạng hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra công tác bảo đảm an toàn thông tin của các tổ chức, doanh nghiệp. 3. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông: - Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tình hình bảo đảm an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước trước ngày 11/4/2024; tổng hợp kết quả, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30/4/2024. - Hướng dẫn các cơ quan chủ trì các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin mạng tổ chức rà soát, đánh giá và báo cáo tình hình bảo đảm an toàn thông tin của các tổ chức, doanh nghiệp trước ngày 20/4/2024; tổng hợp kết quả, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10/5/2024. - Chủ trì, phối hợp Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện công tác giám sát, phát hiện, cảnh báo sớm và ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng. Tổng hợp kết quả phân tích, đánh giá, rút ra bài học từ hoạt động ứng cứu sự cố; công bố, cảnh báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến kinh nghiệm, giúp các tổ chức, cá nhân nhận biết, chủ động phòng ngừa, ứng phó sự cố tương tự và nâng cao nhận thức về an toàn thông tin mạng. - Chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan liên quan tổ chức thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng tại các cơ quan, tổ chức nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, để xảy ra sự cố mất an toàn thông tin mạng. - Phát triển, vận hành, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng các nền tảng hỗ trợ bảo đảm an toàn thông tin để quản lý và thực thi pháp luật về an toàn thông tin mạng. - Chỉ đạo các cơ quan truyền thông, báo chí, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tăng cường tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật an toàn thông tin mạng, nâng cao nhận thức về bảo đảm an toàn thông tin mạng. - Hằng Quý báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các nguy cơ, rủi ro mất an toàn thông tin đối với hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, doanh nghiệp. 4. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng theo chức năng, nhiệm vụ được giao và trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; chỉ đạo các tổ chức, doanh nghiệp chủ quản hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý quy định tại Quyết định 632/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tương tự tại khoản 2 Công điện này; phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thông tin mạng. 5. Các bộ, ngành, địa phương chủ động phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng, tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật về an toàn thông tin mạng, đặc biệt là quy định về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ. 6. Giao Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang chỉ đạo theo dõi lĩnh vực này; Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông theo chức năng nhiệm vụ được giao theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Công điện này; tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện. Tình hình tấn công an ninh mạng gần đây đang trở nên mạnh mẽ và nguy hiểm hơn, nhất là mã độc tống tiền Ransomware thời gian gần đây xâm nhập vào hệ thống VNDirect và PVOIL đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh trước các tình huống tấn công mạng. Việc Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo quyết liệt tăng cường bảo đảm tình hình an ninh mạng quốc gia là hết sức cần thiết và kịp thời, giúp các bộ, ngành, cơ quan phải tập trung, tìm biện pháp khắc phục và đối phó khi có sự kiện tấn công mạng xảy ra một lần nữa. (Xem chi tiết hơn tại baochinhphu.vn)
Chỉ thị 11/CT-TTg: Không để người dân thiếu nước sinh hoạt
Ngày 01/4/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ban hành Chỉ thị 11/CT-TTg yêu cầu tăng cường thực hiện các biện pháp phòng, chống nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/02/chi-thi-01.pdf Chỉ thị 11/CT-TTg (1) Diễn biến nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trong thời gian sắp tới Cụ thể, tại Chỉ thị 11/CT-TTg, Thủ tướng đề cập rõ đến ảnh hưởng của El Nino là một trong những tác nhân chính gây ra tình trạng nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn kéo dài ở một số địa phương, nhất là tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung, Tây Nguyên. Theo đó, thời gian sắp tới, các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra dự báo như sau: - Nhiệt độ trung bình có xu hướng cao hơn trung bình nhiều năm, đặc biệt trong mùa hè. - Nắng nóng có khả năng tiếp tục xuất hiện nhiều đợt và gay gắt hơn trung bình nhiều năm. - Mùa lũ ở Bắc Bộ ít có khả năng đến sớm, dòng chảy đến các hồ chứa lớn trên sông Đà có thể thiếu hụt 30-40% so với trung bình nhiều năm. - Nguy cơ tiếp tục xảy ra nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, nhất là ờ khu vực Trung Bộ và Nam Bộ. Để hạn chế tối đa những thiệt hại trước những tình trạng nêu trên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ trưởng các Bộ và Thủ trưởng cơ quan có liên quan tổ chức theo dõi sát tình hình. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo triển khai các giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả với thiên tai, thời tiết cực đoan, nhất là nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn. (2) Chủ động có hình thức linh hoạt tích trữ nước ngọt, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả Cụ thể, Chỉ thị 11/CT-TTg nêu rõ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đặc biệt là các địa phương khu vực Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau: - Chỉ đạo cơ quan chức năng của địa phương: + Theo dõi chặt chẽ diễn biến và dự báo về thời tiết, khí tượng, thủy văn, nguồn nước, xâm nhập mặn. + Kiểm kê, nắm chắc thông tin về nguồn nước trên địa bàn để cập nhật phương án, kế hoạch phòng, chống phù hợp với các kịch bản nguồn nước. + Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân chủ động, linh hoạt tích trữ nước ngọt, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, triệt để chống thất thoát, lãng phí nguồn nước ngọt. - Tuân thủ chỉ đạo, hướng dẫn: của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ, ngành có liên quan, để từ đó: + Tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả giải pháp phòng, chống. Trường hợp xảy ra thiếu nước không bảo đảm cung cấp đủ cho các nhu cầu sử dụng thì phải ưu tiên cấp đủ nước cho sinh hoạt, tưới cho cây lâu năm có giá trị kinh tế cao và các nhu cầu thiết yếu khác. + Vận hành hiệu quả các hệ thống, công trình thủy lợi để lấy nước, chủ động trữ nước bảo đảm đáp ứng nhu cầu tối thiểu nước tưới cho cây trồng khi xảy ra thiếu nước, hạn chế thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh, nhất là sản xuất nông nghiệp. (3) Không để người dân thiếu nước sinh hoạt Tại Chỉ thị 11/CT-TTg, Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu các cơ quan liên quan chủ động Xác định các khu vực có nguy cơ xảy ra thiếu nước sinh hoạt để từ đó, tổ chức triển khai giải pháp bảo đảm cấp nước sinh hoạt. Không được để người dân thiếu nước sinh hoạt, trường hợp cần thiết phải huy động lực lượng, phương tiện vận chuyển nước để cung cấp cho người dân. Bên cạnh đó, phải chủ động nạo vét các kênh mương, hồ chứa nước bị bồi lắng để khôi phục, tăng khả năng trữ nước, kết hợp tận thu vật liệu xây dựng theo quy định của pháp luật; rà soát, đánh giá khả năng lấy nước các công trình thủy lợi, nhất là dọc các tuyến sông xảy ra tình trạng hạ thấp mực nước và gia tăng xâm nhập mặn để chủ động triển khai các giải pháp thích ứng phù hợp. Song song với đó, kết hợp với việc bố trí ngân sách địa phương để triển khai thực hiện các giải pháp phòng, chống. Đặc biệt ưu tiên bố trí kinh phí để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp công trình phục vụ kiểm soát nguồn nước, cấp nước sinh hoạt tập trung, công trình lấy nước ven sông và hồ chứa nước ngọt. Bên cạnh đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính còn nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của từng Bộ, ngành, địa phương có liên quan. Xem chi tiết tại Chỉ thị 11/CT-TTg. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/02/chi-thi-01.pdf Chỉ thị 11/CT-TTg.
Thủ tướng chỉ đạo bãi bỏ các loại chứng chỉ không cần thiết, thu gọn các chứng chỉ trùng nội dung
Ngày 18/03/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính - Trưởng ban Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ vừa ký Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ban Chỉ đạo này. Đặc biệt, trong đó có đề cập đến việc bãi bỏ các chứng chỉ không cần thiết, cụ thể như sau. (1) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và cải cách thủ tục hành chính Đề cập trong Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, Ngành phối hợp rà soát, báo cáo phương án tổng thể cắt giảm, đơn giản hóa các quy định kinh doanh hiện đang là rào cản, kìm hãm sự phát triển, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Trong đó tập trung ưu tiên rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa giấy phép liên quan đến hoạt động kinh doanh. Chủ động nghiên cứu, rà soát, kiến nghị đưa ra khỏi danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đối với những ngành nghề có thể áp dụng biện pháp quản lý khác hiệu quả hơn. Đối với các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không khả thi, không rõ ràng, khó xác định, không phù hợp thực tiễn phải thực hiện rà soát và kiến nghị bãi bỏ. Đối với các loại chứng chỉ, thực hiện bãi bỏ những trường hợp không cần thiết, đồng thời thu gọn các loại chứng chỉ hiện đang trùng lặp về nội dung. Các quy định liên quan đến kinh doanh, kết quả rà soát, chi phí tuân thủ, phương án cắt giảm, đơn giản hóa phải được cập nhật đầy đủ, chính xác và công khai kịp thời. Đồng thời, phải thực hiện tham vấn các tổ chức, cá nhân, đối tượng chịu tác động về chính sách, quy định. Qua đó, tiếp nhận, tổng hợp, tiếp thu, giải trình, phản hồi, cập nhật kết quả xử lý đối với ý kiến góp ý, vướng mắc, đề xuất của tổ chức, cá nhân về chính sách, quy định thuộc phạm vi chức năng quản lý và công khai trên cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh. Cuối cùng, Thủ tướng chỉ đạo các bộ, cơ quan có trách nhiệm rà soát, điều chỉnh, thống nhất phương án đơn giản hóa, lộ trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư đã giao tại các Nghị quyết chuyên đề giai đoạn 2017 - 2018 nhằm bảo đảm phù hợp với hiện trạng kết nối, quản lý, khai thác dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Qua đó, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành để tổ chức thực thi phương án đơn giản hóa quy định thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư trong năm 2024. (2) Sớm phát hiện và có biện pháp khắc phục các quy định pháp luật chồng chéo, bất cập Cụ thể, theo Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC, việc xây dựng thể chế, chính sách, các bộ, ngành, địa phương nâng cao chất lượng thẩm định, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm đồng bộ, khả thi; ban hành kịp thời các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết; tăng cường nguồn lực và kinh phí cho công tác tư pháp. Đồng thời, ưu tiên nguồn lực cho công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ khung khổ pháp lý thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đối với các quy định pháp luật chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn, gây khó khăn, kìm hãm sự phát triển phải nhanh chóng rà soát, sớm phát hiện và có biện pháp khắc phục. Đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật cũng là một trong những nội dung chỉ đạo của Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC. Qua đó, tập trung vào các lĩnh vực được xác định là trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội của năm 2024, phù hợp với nhiệm vụ chung của cả giai đoạn 2021 - 2025. Thực hiện tốt Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2024. Tiếp tục thực hiện hiệu quả, thực chất các giải pháp nhằm nâng cao điểm số và nâng xếp hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số Bl). Bên cạnh đó, phải tiến hành thực hiện có hiệu quả Đề án "Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 - 2027" được ban hành kèm theo Quyết định 407/QĐ-TTg. Cuối cùng là nghiên cứu, xây dựng chế độ, chính sách đặc thù cho người làm công tác thể chế. (3) Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính Theo chỉ đạo của Thủ tướng, việc cải cách chế độ công vụ, các bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục triển khai các giải pháp nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, chất lượng thực thi công vụ và cải thiện chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp; kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính, bảo đảm sự nghiêm minh trong thực thi pháp luật và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Đồng thời, Quyết định cũng đề cập đến việc yêu cầu Bộ Nội vụ hoàn thiện trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp phó tại Nghị định 101/2020/NĐ-CP, Nghị định 120/2020/NĐ-CP và Nghị định về chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng vào cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Theo Báo điện tử Chính phủ
Công điện 18/CĐ-TTg: Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay
Ngày 05/03/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính ký ban hành Công điện 18/CĐ-TTg về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Trong đó có đề cập đến việc tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Cụ thể về nội dung của Công điện như sau. Công điện nêu rõ năm 2024 là năm đóng vai trò then chốt trong việc hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực dự báo còn nhiều biến động khó lường, cùng với ảnh hưởng dai dẳng của đại dịch COVID-19. Đối với tình hình trong nước, tuy có những cơ hội và thuận lợi đan xen, nhưng khó khăn, thách thức vẫn chiếm ưu thế. Đặc biệt là áp lực lạm phát cao, hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số ngành còn gặp nhiều trở ngại. Mặt bằng lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng chưa tương xứng với mức giảm của lãi suất huy động, dẫn đến tăng trưởng tín dụng 02 tháng đầu năm 2024 thấp hơn so với cuối năm 2023. Nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đưa ra yêu cầu: (1) Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan Khẩn trương rà soát toàn diện kết quả cấp tín dụng: - Đánh giá hiệu quả cấp tín dụng cho từng ngành, lĩnh vực và từng tổ chức tín dụng. - Dựa trên kết quả rà soát này, xây dựng những đề xuất, biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng và lãi suất năm 2024 hiệu quả, khả thi và kịp thời. - Đảm bảo cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, đồng thời bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng ách tắc, chậm trễ hay không đúng thời điểm. - Trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, phải thực hiện báo cáo ngay cho cấp có thẩm quyền theo quy định. Đồng thời, phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành chính sách tiền tệ và tăng trưởng tín dụng. Theo dõi sát diễn biến kinh tế và điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt: - Phân tích tình hình kinh tế thế giới và trong nước để đưa ra các biện pháp điều hành kịp thời và hiệu quả. - Điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt, hài hòa, hợp lý, bảo đảm diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ thực hiện theo đúng nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP. Trong đó, ưu tiên việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. - Đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng để có thể thực hiện được các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã đề ra trong năm 2024. Giảm mặt bằng lãi suất cho vay và tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng: - Thực hiện các giải pháp để giảm lãi suất cho vay. - Tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho người dân và doanh nghiệp. - Đảm bảo cung cấp đủ vốn tín dụng, ngoại tệ lành mạnh cho các nhu cầu chính đáng của nền kinh tế. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng: - Tập trung dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, quan trọng và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế. - Nghiêm cấm việc cấp tín dụng sai quy định, không đúng đối tượng, việc cấp tín dụng cho ban lãnh đạo, ban điều hành và người có liên quan của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp thuộc hệ sinh thái, doanh nghiệp sân sau… với lãi suất ưu đãi trong khi người dân, doanh nghiệp có nhu cầu chính đáng, hợp pháp lại gặp khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng, ngoại tệ. - Thực hiện các công cụ kiểm soát lạm phát và giảm thiểu nợ xấu cho các tổ chức tín dụng. (2) Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các tổ chức tín dụng thực hiện Giảm mặt bằng lãi suất cho vay: - Theo đó, Công điện nêu rõ việc bám sát chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay (tiết giảm chi phí; đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số…). - Đồng thời phải công khai lãi suất cho vay bình quân để người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận tín dụng và lựa chọn ngân hàng phù hợp. - Triển khai hiệu quả các gói tín dụng ưu đãi cho các lĩnh vực quan trọng và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ. - Phát huy vai trò tiên phong của các tổ chức tín dụng kinh doanh hiệu quả và các tổ chức tín dụng nhà nước. - Tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh doanh trong việc chia sẻ, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Hướng nguồn vốn tín dụng hiệu quả: - Tiếp tục ưu tiên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng truyền thống như tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, chuyển đổi số, chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. - Đồng thời, kết hợp kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn và hiệu quả. Tăng cường công tác thông tin truyền thông: trong việc hướng dẫn khách hàng và đối tượng thụ hưởng tiếp cận chính sách. Công tác truyền thông phải rõ ràng, đầy đủ, minh bạch và chính xác về các chính sách, sản phẩm, dịch vụ tín dụng, ngoại hối đến công chúng. Ngoài ra, tại Công điện cũng nêu rõ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái được giao nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc xử lý theo thẩm quyền. Văn phòng Chính phủ có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, thẩm quyền được giao và báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền.
Thủ tướng phê duyệt Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030
Ngày 11/10/2024 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1169/QĐ-TTg để phê duyệt Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030. (1) Mục tiêu của Đề án Theo Quyết định 1169/QĐ-TTg được ban hành ngày 11/10/2024, Thủ tướng đã quyết định phê duyệt Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu của Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030 lần này nhằm phổ biến các tác hại của rượu bia đến với nhiều đối tượng, cụ thể: - 95% người dân trưởng thành được truyền thông về tác hại của rượu, bia và các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia. - 100% người điều khiển phương tiện giao thông được truyền thông, phổ biến quy định của pháp luật về việc không uống rượu, bia khi điều khiển phương tiện giao thông. - 100% cơ sở giáo dục thực hiện truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia phù hợp với lứa tuổi của học sinh, sinh viên. - 95% cơ sở kinh doanh rượu, bia; 90% hộ gia đình, cá nhân sản xuất rượu thủ công được truyền thông, hướng dẫn các quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia và các quy định pháp luật khác có liên quan. - 90% báo in, báo điện tử của các bộ, ngành; 90% đài phát thanh, truyền hình ở trung ương, địa phương và hệ thống đài truyền thanh cấp xã đăng tải, phát thanh tin bài về phòng, chống tác hại của rượu, bia hằng tháng; 90% phóng viên, người tham gia hoạt động thông tin cơ sở được tập huấn, cung cấp thông tin về phòng, chống tác hại của rượu, bia. Có thể thấy, Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030 đã đề ra mục tiêu rất rõ ràng đó là hướng đến việc nâng cao nhận thức và hành vi của cộng đồng nhằm giảm thiểu tác hại do rượu, bia gây ra. (2) Nhiệm vụ và giải pháp của Đề án ra sao? Theo đó, tại Mục II của nội dung Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030, nhiệm vụ và giải pháp của Đề án đặt ra là: - Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia. Cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành nghị quyết, kế hoạch, đầu tư kinh phí, huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện Đề án. - Xây dựng, phổ biến tài liệu truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia phù hợp theo ngành, lĩnh vực và địa phương; cung cấp, phổ biến tài liệu truyền thông kịp thời, đa dạng về hình thức cho hệ thống truyền thông từ trung ương đến địa phương. - Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng truyền thông cho người tham gia công tác truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia từ trung ương đến địa phương. - Triển khai các hình thức truyền thông hiệu quả, phù hợp + Thường xuyên tổ chức các chương trình, chiến dịch truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức thông qua đội tuyên truyền lưu động; truyền thông gắn với các cuộc thi; các hoạt động, sự kiện y tế, văn hóa, thể thao và du lịch. + Thực hiện công tác truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, internet, điện thoại di động, tư vấn trực tuyến. + Triển khai các hình thức truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia đến từng người dân; chú trọng truyền thông tại các địa điểm công cộng, khu du lịch, khu vui chơi giải trí; tổ chức hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia cho các cơ quan, tổ chức và người có liên quan; + Lồng ghép nội dung truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia vào trong hương ước, quy ước, thiết chế văn hóa của vùng, miền, địa phương, khu dân cư; tổ chức các hoạt động truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia trong cơ sở giáo dục phù hợp với lứa tuổi của học sinh, sinh viên; triển khai, nhân rộng các sáng kiến, mô hình truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia. - Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia từ trung ương đến địa phương; kịp thời chấn chỉnh, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi làm lan truyền các thông tin sai sự thật, không đúng quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia. Như vậy, nhiệm vụ và giải pháp mà Đề án Truyền thông phòng, chống tác hại của rượu, bia đến năm 2030 đặt ra không chỉ nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng mà còn xây dựng một hệ thống truyền thông đồng bộ, hiệu quả, góp phần giảm thiểu tác hại của rượu, bia trong xã hội. Xem thêm chi tiết tại Quyết định 1169/QĐ-TTg, có hiệu lực từ ngày 11/10/2024.
Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng ngừa ngộ độc thực phẩm
Ngày 11/10/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính ban hành Chỉ thị 38/CT-TTg để chỉ đạo về việc tăng cường phòng ngừa ngộ độc thực phẩm trên toàn quốc. Theo đó, Chỉ thị 38/CT-TTg nêu rõ, từ đầu năm 2024 đến nay, tại nhiều địa phương đã liên tiếp xảy ra một số vụ ngộ độc thực phẩm lớn, làm nhiều người mắc và phải nhập viện điều trị, nguy cơ ngộ độc thực phẩm vẫn luôn hiện hữu, tiếp tục gây lo lắng trong nhân dân. Do đó, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, Thủ tướng Chính phủ đề ra các yêu cầu sau: 1- Bộ Y tế: - Tăng cường thực hiện công tác phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm, nhất là phòng ngừa nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm; kịp thời chấn chỉnh các hạn chế, bất cập (nếu có); thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện công tác này tại các địa phương, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, các đô thị lớn, các khu du lịch... nơi có nhiều bếp ăn tập thể, cơ sở dịch vụ ăn uống dành cho công nhân, học sinh, khách du lịch...; hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm. - Đẩy mạnh việc thông tin, tuyên truyền về nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, nhất là tại các điểm, khu du lịch, bếp ăn tập thể của trường học, khu công nghiệp, khu chế xuất, thức ăn đường phố; - Chỉ đạo thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các biện pháp giám sát các nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, thông tin và cảnh báo nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật, độc tố tự nhiên...; tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật về an toàn thực phẩm, lưu ý tăng cường chỉ đạo việc kiểm tra đột xuất, nhất là tại các khu vực có nguy cơ cao, xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định; - Chỉ đạo cấp cứu, điều trị kịp thời cho người bị ngộ độc thực phẩm, bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe, tính mạng người dân khi xảy ra ngộ độc thực phẩm; chủ động và kịp thời hỗ trợ các địa phương xử lý, khắc phục hậu quả ngộ độc thực phẩm trong trường hợp cần thiết. 2- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương: - Thực hiện đầy đủ trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế trong điều tra nguyên nhân; - Chủ trì trong việc truy xuất nguồn gốc và xử lý thực phẩm gây ngộ độc; - Thường xuyên giám sát các mối nguy và nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm do hóa chất bảo vệ thực vật, methanol trong rượu...; - Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm đối với các nhóm sản phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. 3- Bộ Công an: - Tăng cường công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; - Đẩy mạnh việc xử lý hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm nghiêm trọng, nhất là hoạt động nhập lậu, sản xuất, tàng trữ, buôn bán các loại thực phẩm giả, kém chất lượng theo quy định pháp luật. 4- Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam các cơ quan báo chí: - Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm, nhận diện và phòng ngừa nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm. 5- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: - Bố trí đủ kinh phí, nguồn lực, chỉ tiêu biên chế, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn. - Thường xuyên tổ chức đánh giá các nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và triển khai các biện pháp cần thiết nhằm ngăn ngừa ngộ độc thực phẩm trên địa bàn. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm tra đột xuất việc chấp hành quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, thức ăn đường phố, cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, an toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn, nhà ăn tập thể và các đối tượng theo phân cấp quản lý; xử lý nghiêm các vi phạm, kiên quyết đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở không bảo đảm an toàn thực phẩm, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn, thực phẩm có nguy cơ gây ngộ độc. - Tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức, bố trí nguồn lực, diễn tập ứng phó sự cố, ngộ độc thực phẩm có thể xảy ra trên địa bàn. - Chỉ đạo tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong công tác nắm bắt tình hình, kiểm tra và xử lý vi phạm quy định về an toàn thực phẩm đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh thực phẩm, nhất là kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố; kịp thời xử lý, thông tin về sự cố, nguy cơ, vụ việc ngộ độc thực phẩm trên địa bàn. Cuối Chỉ thị 38/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khẩn trương triển khai, nghiêm túc thực hiện.
6 tăng, 6 giảm, 6 tăng tốc, bứt phá mà ngân hàng cần thực hiện
Ngày 01/10/2024, Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo 445/TB-VPCP 2024 kết luận Hội nghị Thường trực Chính phủ về các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước Xem toàn văn Thông báo 445/TB-VPCP 2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/10/03/445-tb.signed.pdf Những khó khăn, hạn chế của các ngân hàng Theo Thông báo 445/TB-VPCP 2024, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua hệ thống ngân hàng, trong đó có các ngân hàng thương mại cổ phần còn những khó khăn, hạn chế: - Nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu có xu hướng tăng; - Sức hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân thấp; - Thị trường bất động sản chậm phục hồi; - Áp lực đối với tín dụng ngân hàng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh các kênh huy động vốn trung dài hạn của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy hiệu quả; - Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, diễn biến phức tạp; - Tình hình thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến đời sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp… Như vậy, hiện nay các ngân hàng còn gặp những khó khăn, hạn chế như nợ xấu, vốn tín dụng, thị trường bất động sản chậm phục hồi,... 6 tăng, 6 giảm, 6 tăng tốc, bứt phá mà ngân hàng cần thực hiện Tại Thông báo 445/TB-VPCP 2024, Thủ tướng yêu cầu hệ thống ngân hàng thực hiện "6 tăng", "6 giảm", "6 tăng tốc, bứt phá". Cụ thể: - “6 tăng” gồm: Tăng năng lực của tổ chức tín dụng ngân hàng, trong đó có các NHTM cổ phần tư nhân; tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ tín dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới; tăng cường tháo gỡ vướng mắc pháp lý và chất lượng tín dụng; tăng cường phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và năng lực quản trị điều hành của ngân hàng, của thị trường tài chính; tăng công khai, minh bạch về lãi suất huy động, cho vay và chống tín dụng đen; tăng cường giám sát, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro, chống tham nhũng, tiêu cực. - "6 giảm" gồm: Giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý; giảm chi phí giao dịch, hoạt động; giảm thủ tục hành chính; giảm phiền hà, sách nhiễu; giảm tiêu cực, lợi ích nhóm, "sân sau" và giảm nợ xấu… - "6 tăng tốc, bứt phá" gồm: Tăng tốc, bứt phá về số hóa; tăng tốc, bứt phá chất lượng dịch vụ; tăng tốc, bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực; tăng tốc, bứt phá về hạ tầng ngân hàng; tăng tốc, bứt phá về phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân, góp phần tăng trưởng kinh tế; tăng tốc, bứt phá về vươn ra thị trường quốc tế. Như vậy, thời gian tới, ngân hàng cần thực hiện 6 tăng, 6 giảm, 6 tăng tốc, bứt phá theo chỉ đạo của Chính phủ như trên. Ngân hàng thương mại có những hoạt động nào? Theo Điều 107 Luật Các tổ chức tín dụng 2024 quy định về hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại như sau: - Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi. - Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây: + Cho vay; + Chiết khấu, tái chiết khấu; + Bảo lãnh ngân hàng; + Phát hành thẻ tín dụng; + Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; + Thư tín dụng; + Hình thức cấp tín dụng khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. - Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. - Cung ứng các phương tiện thanh toán. - Cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản sau đây: + Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, chuyển tiền, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; + Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản; dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, ngân hàng thương mại sẽ có những hoạt động theo quy định trên.
Thủ Tướng yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công thương chịu trách nhiệm nếu để xảy ra thiếu hụt xăng dầu
Ngày 23/9/2024 Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện 99/CĐ-TTg về việc tiếp tục thực hiện các giải pháp bảo đảm cung ứng xăng dầu cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp. Xem toàn văn Công điện 99/CĐ-TTg năm 2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/24/99-ttg.signed.pdf Công điện gửi Bộ trưởng các Bộ: Công Thương, Tài chính, Công an; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chủ tịch, Tổng Giám đốc: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn; Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam. Công điện nêu: Xăng dầu là mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trong những tháng đầu năm 2024, Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan đã tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp bảo đảm nguồn cung xăng dầu liên tục cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian tới, dự báo tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, tiềm ẩn đứt gãy chuỗi cung ứng, gây biến động giá cả và nguồn cung hàng hóa, dịch vụ nhất là xăng dầu, nguyên vật liệu, cước vận tải, giá vàng... Ở trong nước, mặc dù nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực nhưng vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Để tiếp tục bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch, Tổng Giám đốc: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ được giao tập trung triển khai, thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã được giao tại các Nghị quyết của Chính phủ, Công điện, văn bản chỉ đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm cung ứng xăng dầu (nhất là các Công điện: số 1123/CĐ-TTg ngày 18 tháng 11 năm 2023, số 1284/CĐ-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2023, số 1437/CĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2023, số 09/CĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2024); trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau: Chủ động nguồn hàng, cung cấp đủ xăng dầu cho hệ thống, tuyệt đối không để gián đoạn nguồn cung 1. Bộ trưởng Bộ Công Thương a) Chỉ đạo các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động nguồn hàng, cung cấp đủ xăng dầu cho hệ thống, tuyệt đối không để gián đoạn nguồn cung xăng dầu trong hệ thống phân phối xăng dầu của mình (từ đầu mối, thương nhân phân phối, đại lý, cửa hàng bán lẻ), duy trì hoạt động bán hàng thường xuyên, bán đúng giá niêm yết; thực hiện nghiêm tổng nguồn xăng dầu tối thiểu năm 2024 được phân giao và dự trữ xăng dầu theo quy định. b) Theo dõi sát tình hình thực hiện tổng nguồn tối thiểu của các thương nhân đầu mối, nhất là những thương nhân thực hiện đạt thấp; chỉ đạo, hướng dẫn việc điều tiết, bảo đảm cân đối cung cầu xăng dầu trên từng địa bàn. c) Chủ động xây dựng kế hoạch xăng dầu cho năm 2025 và các năm tiếp theo; dứt khoát không để thiếu hụt hoặc đứt gãy nguồn cung như năm 2022. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trước Nhân dân nếu để xảy ra thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. d) Thường xuyên theo dõi sát các diễn biến thị trường hàng hóa thế giới và trong nước, tình hình thiên tai, bão, lụt để có kế hoạch dự phòng, bảo đảm cung ứng đầy đủ xăng dầu cho thị trường trong nước trong mọi tình huống. đ) Chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan liên quan trong công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu, điều hành giá xăng dầu. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định. e) Tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ lưỡng, khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Lãnh đạo Chính phủ, bảo đảm khoa học, khả thi, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu, hài hòa lợi ích của nhà nước, người dân và doanh nghiệp; báo cáo Chính phủ trong tháng 9 năm 2024. 2. Bộ trưởng Bộ Tài chính a) Tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương thực hiện công tác điều hành giá xăng dầu theo quy định; cập nhật, rà soát và điều chỉnh các chi phí thực tế phát sinh trong cơ cấu tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu cho phù hợp, hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng, doanh nghiệp sử dụng xăng dầu, bảo đảm thực hiện mục tiêu bình ổn thị trường, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho sản xuất, kinh doanh. b) Tăng cường kiểm tra, giám sát thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu trong việc trích lập, quản lý, sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm (hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý) các sai phạm theo quy định. c) Tiếp tục thực hiện kiểm tra giám sát, yêu cầu các cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thương nhân kinh doanh xăng dầu thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử theo từng lần bán hàng và kết nối dữ liệu với cơ quan thuế theo các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. d) Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan triển khai dự trữ quốc gia xăng dầu theo kế hoạch, lộ trình các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 861/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2023 về việc Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 305/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2024 về phê duyệt Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2030. Hỗ trợ thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu tiếp cận nguồn vốn, tạo nguồn hàng 3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Công Thương tiếp tục hỗ trợ các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, thương nhân phân phối xăng dầu tiếp cận nguồn vốn để khuyến khích doanh nghiệp tạo nguồn hàng, bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước theo đúng quy định pháp luật, không để lợi dụng vi phạm pháp luật. 4. Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: a) Chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam có kế hoạch, phương án sản xuất, phân phối, dự trữ, điều tiết, bán lẻ xăng dầu phù hợp, kịp thời, hiệu quả, khoa học, bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu cho thị trường. b) Theo chức năng, nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trước Nhân dân nếu thiếu chủ động để xảy ra thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. 5. Chủ tịch, Tổng Giám đốc: Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn, Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn theo chức năng, nhiệm vụ được giao: a) Chuẩn bị kỹ lưỡng kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tổ chức vận hành an toàn, ổn định các nhà máy, bảo đảm việc sản xuất, dự trữ và cung ứng đủ xăng dầu cho thị trường theo kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt và quy định của pháp luật; cung cấp đủ nguồn hàng cho thị trường trong nước theo các hợp đồng đã ký với các thương nhân đầu mối. Công bố công khai kế hoạch và khả năng sản xuất, cung ứng xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước cho doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu theo từng tháng, quý để chủ động cân đối nguồn nhập khẩu, bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu cho thị trường. Chủ động trong mọi tình huống, không để thiếu hụt nguồn cung xăng dầu, bị động do yếu tố sản xuất. b) Chỉ đạo các doanh nghiệp, cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống có kế hoạch, phương án kinh doanh, bán lẻ xăng dầu khoa học, hợp lý, bảo đảm đủ nguồn hàng đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước. Xử lý nghiêm hành vi đầu cơ găm hàng, buôn lậu xăng dầu qua biên giới 6. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, thương nhân kinh doanh xăng dầu trong việc tạo nguồn hàng, vận chuyển, lưu thông, phân phối xăng dầu; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu và bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn theo quy định; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định các hành vi đầu cơ găm hàng, buôn lậu xăng dầu qua biên giới, vi phạm quy định về kinh doanh xăng dầu, hóa đơn điện tử… 7. Hiệp hội xăng dầu Việt Nam đẩy mạnh công tác thông tin về tình hình thị trường xăng dầu thế giới và trong nước đến các hội viên, quán triệt hội viên thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thực hiện chủ động, quyết liệt các giải pháp để đảm bảo đủ nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước. 8. Giao Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vấn đề phát sinh theo thẩm quyền, vượt thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ. 9. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ các vấn đề phát sinh
Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào?
Chính phủ cũng là một cơ quan có chức năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên không phải văn bản nào của Chính phủ cũng là văn bản quy phạm pháp luật. Vậy, văn bản nào của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật nào? Văn bản quy phạm pháp luật là gì? Theo khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định như sau: - Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. - Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng văn bản đó sau khi được ban hành. Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản chứa đựng những quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào? Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 thì có những văn bản sau đây do Chính phủ ban hành là văn bản quy phạm pháp luật: (1) Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. (2) Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. (3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, chỉ có nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và đoàn chủ tịch UBTWMTTQVN và với UBTVQH, nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng là văn bản quy phạm pháp luật. Còn các văn bản như Chỉ thị, Công điện của Thủ tướng, Thông báo của Văn phòng Chính phủ,... là các văn bản áp dụng pháp luật. Chính phủ được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc nào? Theo Điều 5 Luật tổ chức Chính phủ 2015 quy định nguyên tắt tổ chức và hoạt động của Chính phủ như sau: - Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; bảo đảm bình đẳng giới. - Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chức năng, phạm vi quản lý giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. - Tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, năng động, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm nguyên tắc cơ quan cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan cấp trên. - Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. - Minh bạch, hiện đại hóa hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan hành chính nhà nước các cấp; bảo đảm thực hiện một nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, hiện đại, phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Như vậy, Chính phủ sẽ được tổ chức hoạt động theo các nguyên tắc trên,
Chế độ chăm sóc sức khoẻ cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý
Cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bao gồm những ai? Cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe thế nào? Cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bao gồm những ai? Theo Tiểu Mục 1 Mục I Quy định 121-QĐ/TW 2018 quy định cán bộ cấp cao được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ (bao gồm các đồng chí đương chức và nguyên chức): - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. - Ủy viên Bộ Chính trị. - Bí thư Trung ương Đảng. - Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại tướng lực lượng vũ trang. - Ủy viên Trung ương Đảng, trưởng các ban đảng, trưởng các đoàn thể chính trị - xã hội, bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và các chức vụ tương đương; thượng tướng lực lượng vũ trang. - Phó trưởng ban đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, thứ trưởng, phó bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các chức vụ tương đương. Như vậy, cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sẽ bao gồm những người nêu trên. Chế độ chăm sóc sức khỏe cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý Theo Quy định 121-QĐ/TW 2018, cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (kể cả đương chức và nguyên chức) được hưởng các chế độ chăm sóc sức khỏe sau đây: (1) Chế độ thăm khám, kiểm tra sức khỏe toàn diện định kỳ Được thăm khám, theo dõi sức khỏe toàn diện định kỳ 6 tháng một lần. Trường hợp có bệnh lý thì thực hiện khám, kiểm tra sức khỏe theo chỉ định của Hội đồng Chuyên môn bảo vệ sức khoẻ cán bộ. (2) Chế độ thăm khám, theo dõi sức khoẻ tại nhà hoặc cơ quan Được bác sĩ tiếp cận thăm khám sức khỏe hằng ngày, riêng những trường hợp bệnh nặng, diễn biến phức tạp thì tùy theo tình hình thực tế mà bác sĩ theo dõi sức khoẻ phải theo dõi, thăm khám hằng ngày, hàng tuần hoặc theo chỉ định của Hội đồng Chuyên môn bảo vệ sức khoẻ cán bộ. (3) Chế độ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe khi đi công tác - Công tác trong nước: Khi đi công tác tại những vùng đặc biệt khó khăn trong nước sẽ được bố trí 1 bác sĩ tiếp cập. Còn nếu đi công tác tại các vùng còn lại trong nước thì có thể được bố trí bác sĩ tiếp cận tháp tùng. - Công tác nước ngoài : Còn khi đi công tác nước ngoài thì được bố trí Tổ Y tế phục vụ gồm 1 đồng chí đại diện lãnh đạo Ban hoặc Hội đồng Chuyên môn Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương và 1 bác sĩ tiếp cận cán bộ chủ chốt. Trong trường hợp đặc biệt thì có thể bổ sung đội ngũ chuyên môn y tế tháp tùng đoàn công tác. Theo đó, về cơ bán thì cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sẽ được hưởng những chế độ chăm sóc sức khoẻ trên. Ngoài các chế độ này, cán bộ lãnh đạo cấp cao còn được hưởng các chế độ khác như chế độ điều trị bệnh, chế độ nghỉ dưỡng sức, điều dưỡng kết hợp với điều trị bệnh lý,.. Đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cấp cao phải đáp ứng tiêu chuẩn thế nào? Theo Tiểu mục 1.1 Mục IV Quy định 121-QĐ/TW 2018 quy định các tiêu chuẩn về đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý như sau: - Có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cụ thể: + Bác sĩ làm việc tại các Khoa A11, Nội A, Nội A1 của các bệnh viện được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cán bộ, các phòng bảo vệ sức khỏe Trung ương là bác sĩ đa khoa, có trình độ sau đại học từ chuyên khoa cấp I trở lên thuộc một trong các chuyên khoa thuộc chuyên ngành nội khoa hoặc hồi sức cấp cứu. + Bác sĩ chuyên khoa làm việc tại các khoa, phòng chuyên khoa được phân công khám, chữa bệnh hoặc thực hiện các kỹ thuật y tế phục vụ cán bộ cấp cao là bác sĩ chuyên khoa có trình độ sau đại học từ chuyên khoa cấp I trở lên. + Nhân viên y tế làm việc tại các khoa cận lâm sàng, thăm dò chức năng... được phân công thực hiện các kỹ thuật y tế phục vụ cán bộ cấp cao là bác sĩ chuyên khoa có trình độ sau đại học từ chuyên khoa cấp I trở lên hoặc cử nhân đúng chuyên ngành có trình độ đại học trở lên. - Có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt; có tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như vậy, để được nằm trong đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cấp cao thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì phải đáp ứng các tiêu chuẩn trên. Ngoài ra còn các tiêu chuẩn cụ thể khi chăm sóc từng chức danh.
Thủ tướng: Chậm nhất 31/12 tới phải hoàn thành xây dựng lại bản Làng Nủ
Chiều 12/9, ngay sau khi kết thúc chương trình làm việc tại Yên Bái, Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Lào Cai để thị sát tình hình, thăm hỏi đời sống người dân, kiểm tra, động viên các lực lượng đang làm nhiệm vụ ứng phó mưa lũ, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, tiếp tế nhu yếu phẩm cho người dân. Đoàn công tác của Thủ tướng trên đường kiểm tra công tác chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai tại Lào Cai, chiều 12/9 - Ảnh: VGP/Hà Văn Điểm đầu tiên Thủ tướng tới thị sát là hiện trường vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, đã khiến gần 100 người thiệt mạng và mất tích. Con đường từ huyện Bảo Yên vào thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh khoảng 12km, nhỏ, khó đi, nhiều đất đá do hậu quả của cơn bão số 3 và hoàn lưu sau bão, còn rất nhiều điểm sạt lở nguy hiểm. Lào Cai là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do đợt mưa lũ, thiên tai hiện nay. Đặc biệt, đây là địa phương thiệt hại nhân mạng nặng nề nhất tới thời điểm hiện nay, với nhiều vụ sạt lở rất nghiêm trọng. Thủ tướng thị sát hiện trường vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, khiến gần 100 người thiện mạng và mất tích - Ảnh VGP/Hà Văn Do chịu ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 (bão Yagi), từ đêm 7 đến 11/9, trên địa bàn tỉnh Lào Cai xảy ra mưa vừa, mưa to đến rất to trên diện rộng, gây ngập sâu, thiệt hại rất nghiêm trọng về người, cơ sở hạ tầng của Nhà nước, nhân dân. Thủ tướng hỏi thăm, động viên anh Hoàng Văn Voi (35 tuổi), người có vợ, con trai 12 tuổi chết trong vụ sạt lở. Mẹ đẻ và anh trai anh Voi hiện vẫn mất tích. Con gái lớn anh Voi đang được cứu chữa ở bệnh viện tỉnh - Ảnh: VGP Theo báo cáo của các địa phương, đến 7h ngày 12/9, toàn tỉnh Lào Cai có 246 người chết, mất tích, bị thương. Trong đó 82 người chết, 95 người bị mất tích và 69 người bị thương. Tổng số nhà ở bị ngập nước, sạt lở, lũ cuốn trôi trên toàn tỉnh là 9.172 nhà. Hiện nay còn 97 thôn/25 xã bị cô lập, người dân chưa đi lại được do ngập lụt, sạt lở đường giao thông. Tổng thiệt hại tài sản ước tính lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Tỉnh Lào Cai và các bộ, ngành, cơ quan đang tiếp tục huy động mọi lực lượng khẩn trương triển khai tìm kiếm cứu nạn và khắc phục hậu quả thiên tai. Riêng tại thôn Làng Nủ, tổng số lực lượng tham gia tìm kiếm cứu nạn hiện nay là 650 người; trong đó có 359 người địa phương và 300 chiến sĩ thuộc Quân khu 2. Ngoài vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, vụ sạt lở tại thôn Nậm Tông, xã Nậm Lúc, huyện Bắc Hà cũng vùi lấp hoàn toàn 8 ngôi nhà khiến 7 người chết và 11 người bị thương; đến sáng 12/9 vẫn còn 11 người mất tích. Ngay từ sáng sớm hôm nay (12/9), công tác tìm kiếm cứu nạn tại Làng Nủ tiếp tục được triển khai với sự có mặt của trên 650 người thuộc các lực lượng - Ảnh: VGP Tỉnh Lào Cai và các huyện đã tổ chức nhiều đoàn công tác xuống thăm hỏi, động viên gia đình có người bị nạn; đồng thời hỗ trợ ban đầu cho mỗi gia đình có người thiệt mạng 25 triệu đồng/người, người bị thương 5 triệu đồng/người. Các cơ quan, đơn vị, nhà hảo tâm đã đến, tặng quà, thăm hỏi những hộ dân vùng thiên tai với 100.000 suất quà, cùng nhiều nhu yếu phẩm, trang thiết bị. Các huyện đã tiếp nhận cấp phát, phân bổ kịp thời cho nhân dân vùng thiên tai. Tuy nhiên, một số xã còn bị chia cắt, cô lập chưa tiếp cận được nên việc tiếp tế gặp rất nhiều khó khăn. Gặp thân nhân các gia đình tại hiện trường vụ sạt lở tại bản Làng Nủ, Thủ tướng bày tỏ sự chia sẻ sâu sắc nhất với nỗi đau của các gia đình. Ông nêu rõ các lực lượng chức năng đang tập trung, nỗ lực cao nhất để tìm kiếm các nạn nhân trong vụ lũ quét tại đây. Nói với Thủ tướng, một người dân cho biết, sau trận lũ quét đã được chính quyền địa phương lo hậu sự, thức ăn, quần áo đầy đủ. Nhưng hiện giờ nhiều gia đình không còn gì nữa, mong Nhà nước giúp đỡ về đất đai, nhà cửa ở nơi an toàn. Thủ tướng Phạm Minh Chính tại hiện trường vụ sạt lở tại thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Báo cáo trong cuộc làm việc nhanh sau đó tại nhà văn hóa thôn Làng Nủ - ngay cạnh hiện trường vụ sạt lở, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường cho hay khu vực sạt lở, có 37 hộ/158 nhân khẩu. Trong 158 nhân khẩu có 84 nam và 74 nữ; dưới 16 tuổi là 18 người; trên 16 tuổi 14 người. Trong đó, có 2 hộ mất hết cả gia đình là 1 hộ 4 người và 1 hộ 2 người. Tổng số 95 người thiệt mạng, mất tích và thời điểm Thủ tướng vào, đã tìm kiếm thêm được 1 nạn nhân nam. Đến nay còn 51 người mất tích. Hiện công tác tìm kiếm đang được tích cực triển khai. Đến nay có 17 người bị thương, trong đó có 5 người chuyển lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai, 3 trường hợp chuyển lên bệnh viện Việt Đức. Có một số trường hợp tiên lượng rất nặng. Với 95 người thiệt mạng, mất tích, Chủ tịch tỉnh Lào Cai nhận định đây là vụ việc rất khủng khiếp, chưa bao giờ xảy ra. Lãnh đạo UBND tỉnh Lào Cai cho biết thêm cùng với sự phối hợp của các bộ, ngành, Quân khu 2 đã huy động lực lượng lớn tham gia tìm kiếm, cứu hộ. Tại cuộc làm việc, Thủ tướng thay mặt Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gửi lời chia sẻ, thăm hỏi với nhân dân vùng bão lũ, đồng thời, gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới những gia đình, người thân có người tử vong, mất tích trong trận lũ lụt, trôi mất gần như cả bản này. Thủ tướng yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các bộ, cơ quan, lực lượng liên quan tập trung 7 nhiệm vụ trọng tâm trong khắc phục hậu quả vụ sạt lở, ổn định đời sống nhân dân. Theo đó, tìm kiếm người mất tích; cứu chữa, chăm sóc y tế những người bị thương, bị bệnh; dọn dẹp vệ sinh, môi trường, phòng chống dịch bệnh; khôi phục lại giao thông với tinh thần Trung ương lo đường lớn, tỉnh lo tỉnh lộ, huyện lo huyện lộ, xã lo xã lộ; nhanh chóng khôi phục trường lớp để các cháu trở lại trường sớm nhất có thể; khôi phục sản xuất kinh doanh, việc làm sinh kế cho người dân, nắm chắc tình hình, những khó khăn của người dân để giải quyết. Làng Nủ trước và sau khi lũ về Thủ tướng cũng yêu cầu khảo sát, quy hoạch địa điểm an toàn với sự tham gia ý kiến khoa học của các cơ quan chuyên môn, để xây dựng lại, khôi phục bản Làng Nủ, bảo đảm các hộ dân có nơi ở an toàn với hạ tầng phù hợp, chậm nhất 31/12/2024 phải hoàn thành, tỉnh Lào Cai chủ trì triển khai, nếu thiếu gì thì báo cáo Chính phủ; vận dụng cơ chế trong trường hợp đặc biệt để xử lý các vấn đề liên quan, như huy động lực lượng công binh xây dựng lại bản làng. "Đến ngày 31/12, tất cả người còn sống, các hộ dân phải có chỗ ở, nơi sinh sống ổn định, có điện nước, nơi vui chơi, cây xanh... đảm bảo môi trường sống an toàn, lành mạnh. Không để ai bị đói, rét, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu chỗ ở, thiếu nước sạch", Thủ tướng nêu rõ. Thủ tướng yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các bộ, cơ quan, lực lượng liên quan tập trung 7 nhiệm vụ trọng tâm trong khắc phục hậu quả vụ sạt lở - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Thủ tướng cảm ơn bà con đã chấp hành nghiêm túc các chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; cảm ơn các lực lượng cứu hộ, cứu nạn đã tích cực triển khai nhiệm vụ; các cơ quan báo chí – truyền thông đã tích cực thông tin về thiên tai và hướng dẫn người dân kỹ năng ứng phó thiên tai; đề nghị Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị tích cực tham gia chăm lo đời sống cho người dân trong khu vực này. Thủ tướng cảm ơn bà con đã chấp hành nghiêm túc các chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; cảm ơn các lực lượng cứu hộ, cứu nạn đã tích cực triển khai nhiệm vụ - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ tại Lào Cai. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ) Link bài viết: https://baochinhphu.vn/thu-tuong-toi-hien-truong-vu-sat-lo-lam-gan-100-nguoi-thiet-mang-va-mat-tich-tai-lao-cai-102240912124946254.htm
Chỉ đạo của Thủ tướng về việc thực hiện di chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia
Ngày 04/9 vừa qua, Thủ tướng đã thông qua Chỉ thị 32/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 175/NQ-CP của Chính phủ phê duyệt đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia. (1) Chỉ đạo của Thủ tướng về việc thực hiện di chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia Theo Chỉ thị 32/CT-TTg, ngày 30/10/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết 175/NQ-CP phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia, nhằm tạo ra một kho dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, phục vụ cho việc xây dựng Chính phủ số, xã hội số và kinh tế số. Trung tâm này sẽ cung cấp hạ tầng công nghệ thông tin cho các tổ chức và cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, bao gồm: (i) Các cơ sở dữ liệu quốc gia chưa đầy đủ. (ii) Trùng lặp và chồng chéo trong dữ liệu. (iii) Thiếu hạ tầng công nghệ thông tin ở một số bộ, ngành. (iv) Lộ trình di chuyển hạ tầng và đồng bộ dữ liệu chưa rõ ràng. Để khắc phục những khó khăn đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng các bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương tập trung thực hiện 8 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trong đó có nhiệm vụ về việc thực hiện di chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia. Cụ thể, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu: - Các bộ, cơ quan đã thống nhất phương án chuyển hạ tầng hệ thống thông tin về Trung tâm dữ liệu quốc gia [1]: + Các bộ, cơ quan chưa ban hành kế hoạch chuyển hạ tầng về Trung tâm dữ liệu quốc gia chủ trì, phối hợp Bộ Công an và các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch, lập danh sách thông tin tài nguyên của các hệ thống dự kiến di chuyển, hoàn thành trong tháng 9/2024; + Thực hiện di chuyển hệ thống công nghệ thông tin về Trung tâm dữ liệu quốc gia theo lộ trình thống nhất với Bộ Công an, thực hiện từ quý II năm 2025. - Các bộ, cơ quan đã thống nhất phương án tích hợp hạ tầng hệ thống thông tin vào nền tảng điện toán đám mây (Cloud) của Trung tâm dữ liệu quốc gia [2]: + Các bộ, cơ quan chưa ban hành kế hoạch chủ trì, phối hợp Bộ Công an và các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch, lập danh sách thông tin về nhu cầu sử dụng tài nguyên hạ tầng điện toán đám mây đối với các hệ thống dự kiến di chuyển hoặc triển khai mới, hoàn thành trong tháng 9/2024; + Bảo đảm hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin có khả năng hoạt động trên nền tảng điện toàn đám mây, sẵn sàng thực hiện di chuyển và tích hợp lên nền tảng điện toán đám mây của Trung tâm dữ liệu quốc gia, thực hiện từ quý III năm 2025. - Đối với các bộ, ngành là chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia: + Trường hợp có hạ tầng nhà trạm không đáp ứng tiêu chuẩn Trung tâm dữ liệu hạng III (TCVN 9250:2021) khẩn trương phối hợp với Bộ Công an hoàn thành xây dựng kế hoạch trong tháng 9/2024 để triển khai phương án chuyển hệ thống về Trung tâm dữ liệu quốc gia vào quý IV năm 2025; + Trường hợp có hạ tầng nhà trạm bảo đảm theo các tiêu chuẩn Trung tâm dữ liệu hạng III (TCVN 9250:2021, TIA-942 hoặc Uptime Tier-3): Tiếp tục quản trị, vận hành Trung tâm dữ liệu; phối hợp Trung tâm dữ liệu quốc gia và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đánh giá việc đầu tư nâng cấp hạ tầng nhà trạm phù hợp với lộ trình triển khai Trung tâm dữ liệu quốc gia và thời gian hết khấu hao của các thiết bị; + Trường hợp đang thuê dịch vụ hạ tầng Trung tâm dữ liệu do doanh nghiệp cung cấp: Phối hợp với Trung tâm dữ liệu quốc gia xây dựng kế hoạch và phương án chuyển hệ thống thông tin khi kết thúc hợp đồng dịch vụ, hoàn thành việc xây dựng kế hoạch trong tháng 9/2024. Những chỉ đạo này nhằm đảm bảo việc di chuyển hạ tầng diễn ra hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng quản lý và khai thác dữ liệu của các cơ quan nhà nước. [1] Bộ Ngoại giao; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Giao thông vận tải; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm toán nhà nước; Bộ Giáo dục và Đào tạo. [2] Bộ Ngoại giao; Bộ Nội vụ; Bộ Tư pháp; Bộ Công Thương; Bộ Xây dựng; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Y tế; Ủy ban dân tộc; Thanh tra Chính phủ; Văn phòng Chính phủ; Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. (2) Chỉ đạo của Thủ tướng về việc bảo đảm dữ liệu, nghiệp vụ tại Trung tâm dữ liệu quốc gia Thủ tướng đã đưa ra các yêu cầu cụ thể nhằm bảo đảm dữ liệu và nghiệp vụ tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, bao gồm: - Bộ Công an: Nghiên cứu và xây dựng mô hình nghiệp vụ cho Trung tâm, bao gồm các nghiệp vụ dữ liệu đầu vào, dịch vụ đầu ra và nghiệp vụ lõi, bảo đảm trước mắt phục vụ hiệu quả việc giải quyết thủ tục hành chính và việc phân tích các chỉ tiêu kinh tế xã hội quốc gia, chỉ tiêu thống kê các bộ, ngành, hoàn thành trong tháng 9/2024. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: + Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an rà soát, rà soát hệ thống thông tin thống kê quốc gia, thống nhất dữ liệu cần thiết cho Cơ sở dữ liệu tổng hợp, nhằm giảm gánh nặng cho các đối tượng cung cấp thông tin thống kê. + Xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu doanh nghiệp, hoàn thành trong tháng 9/2024. - Văn phòng Chính phủ: + Phát triển Cổng Dịch vụ công quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, bảo đảm kế thừa các kết quả đã triển khai. + Phát triển Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ và Hệ thống thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ tại Trung tâm. - Bộ Tài nguyên và Môi trường: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai đồng bộ với Trung tâm dữ liệu quốc gia - Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm đồng bộ với Trung tâm dữ liệu quốc gia. - Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: + Hoàn thành số hóa dữ liệu trong quý II năm 2025 và đồng bộ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia vào quý IV năm 2025. + Đồng bộ thông tin cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoàn thành trong quý IV năm 2024. + Hoàn thành đánh giá và ban hành danh mục cơ sở dữ liệu dùng chung và dữ liệu mở trong tháng 9/2024. + Phối hợp với Bộ Công an để số hóa và tạo lập dữ liệu trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hoàn thành trong tháng 12 năm 2024. Những yêu cầu này nhằm đảm bảo việc triển khai hiệu quả và đồng bộ các dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, phục vụ cho các hoạt động quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Xem chi tiết tại Chỉ thị 32/CT-TTg ngày 04/9/2024.
Thủ tướng chỉ đạo khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024
Bão số 3 năm 2024 hay còn gọi là Bão YAGI được dự đoán là một trong những cơn bão mạnh nhất sẽ đổ bộ vào nước ta trong năm nay. Vậy tình hình bão số 3 hiện tại thế nào? Thủ tướng có những chỉ đạo gì để ứng phó bão? Cập nhật tình hình bão số 3 năm 2024 (Bão YAGI) Ngày 03/9/2024, Thủ tướng Chính phủ có Công điện 86/CĐ-TTg gửi các Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình; Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Ngoại giao, Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024. Theo đó, đã cập nhật tình hình bão số 3 như sau: Sáng nay (ngày 03/9/2024), cơn bão có tên quốc tế là YAGI đã vượt qua đảo Lu-Dông (Philippin) vào khu vực đông bắc biển Đông trở thành cơn bão số 3 hoạt động trên biển Đông trong năm 2024, sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8, giật cấp 12. Dự báo, bão số 3 sẽ tiếp tục mạnh thêm, sức gió mạnh nhất trên biển có thể đạt cấp 13, giật cấp 16 trong những ngày tới, di chuyển nhanh về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) và khu vực Vịnh Bắc Bộ, khả năng rất cao ảnh hưởng trực tiếp đến vùng biển và đất liền khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta. Như vậy, bão số 3 được dự bão sẽ tiếp tục mạnh thêm và có thể đạt cấp 12, giật cấp 16 trong những ngày tới và có khả năng cao ảnh hưởng đến khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta. Thủ tướng chỉ đạo khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024 Theo Công điện 86/CĐ-TTg năm 2024, Thủ tướng nhận định đây là cơn bão được dự báo có cường độ rất mạnh. Theo đó, để chủ động ứng phó với bão và mưa lũ do ảnh hưởng của bão, Thủ tướng đã có các chỉ đạo, yêu cầu như sau: - Bộ trưởng các bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương nêu trên chủ động tổ chức theo dõi sát thông tin dự báo, diễn biến tình hình bão, mưa, lũ, kịp thời chỉ đạo, triển khai công tác ứng phó theo phương châm “bốn tại chỗ” theo nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không để bị động, bất ngờ nhằm bảo đảm an toàn tính mạng, hạn chế thấp nhất thiệt hại về tài sản cho người dân. - Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nêu trên căn cứ tình hình thực tế và khả năng ảnh hưởng của bão, mưa lũ tại địa phương chủ động thông tin kịp thời, chỉ đạo, hướng dẫn người dân ứng phó với bão, lũ, trong đó: + Tập trung bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, đảo: 1) Tổ chức rà soát, kiểm đếm, chủ động thông tin, hướng dẫn phương tiện, tàu thuyền (bao gồm cả tàu cá, tàu vận tải, tàu du lịch) còn đang hoạt động trên biển biết, không đi vào hoặc thoát ra khỏi khu vực nguy hiểm hoặc về nơi tránh trú an toàn; có biện pháp bảo đảm an toàn cho tàu thuyền tại khu neo đậu. 2) Rà soát, triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn đối với các hoạt động du lịch, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trên biển, cửa sông, ven bờ; kiên quyết sơ tán người dân trên lồng bè, chòi canh nuôi trồng thủy sản đến nơi an toàn trước khi bão ảnh hưởng trực tiếp. 3) Căn cứ tình hình cụ thể, chủ động quyết định việc cấm biển đối với tàu cá, tàu vận tải, tàu du lịch. + Bảo đảm an toàn khu vực ven biển và trên đất liền: 1) Chủ động tổ chức sơ tán người dân ra khỏi các nhà yếu không đảm bảo an toàn, khu vực có nguy cơ bị ngập sâu, sạt lở, nhất là ở cửa sông, ven biển. 2) Triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn, hạn chế thiệt hại về nhà ở, kho tàng, trụ sở, công trình công cộng, khu công nghiệp, nhà máy, đê điều; bảo vệ sản xuất nông nghiệp, chống ngập úng khu đô thị và khu công nghiệp. 3) Kiểm soát việc đi lại, tổ chức phân luồng, hướng dẫn giao thông, hạn chế người dân ra đường trong thời gian bão đổ bộ, mưa lũ lớn để đảm bảo an toàn. + Bảo đảm an toàn khu vực miền núi: 1) Chủ động di dời, sơ tán dân tại khu vực có nguy cơ bị ngập sâu, lũ quét, sạt lở đất; chuẩn bị lực lượng, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm theo phương châm “bốn tại chỗ” để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. 2) Kiểm tra, chủ động biện pháp đảm bảo an toàn các hồ chứa và hạ du; bố trí lực lượng thường trực sẵn sàng vận hành điều tiết và xử lý các tình huống. 3) Kiểm soát, hướng dẫn giao thông an toàn, nhất là qua các ngầm, tràn, khu vực ngập sâu, nước chảy xiết; chủ động bố trí lực lượng, vật tư, phương tiện để khắc phục sự cố, đảm bảo giao thông thông suốt trên các trục giao thông chính. 4) Sẵn sàng lực lượng, phương tiện để kịp thời cứu hộ, cứu nạn và khắc phục nhanh hậu quả bão, lũ nếu xảy ra tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình. - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi sát tình hình bão, lũ, chủ động chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành, địa phương liên quan kịp thời triển khai có hiệu quả công tác bảo đảm an toàn đê điều, hồ đập, bảo vệ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản, kịp thời báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền. - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường theo dõi chặt chẽ, tăng cường bản tin dự báo, cảnh báo, thông tin kịp thời về diễn biến bão, mưa lũ, nguy cơ lũ quét, sạt lở đất để các cơ quan liên quan và người dân biết chủ động triển khai các biện pháp ứng phó. - Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an chỉ đạo các lực lượng đóng trên địa bàn rà soát phương án ứng phó, chủ động tổ chức triển khai lực lượng, phương tiện sẵn sàng hỗ trợ địa phương ứng phó với bão, lũ, sơ tán dân, cứu hộ, cứu nạn. - Bộ trưởng các Bộ: Giao thông vận tải, Công Thương và các bộ, ngành có liên quan theo chức năng quản lý nhà nước và nhiệm vụ được phân công chủ động chỉ đạo, phối hợp với các địa phương triển khai công tác bảo đảm an toàn các hoạt động dầu khí trên biển, khai thác khoáng sản và hệ thống lưới điện; vận hành đảm bảo an toàn hồ chứa thủy điện; đảm bảo an toàn giao thông theo quy định. - Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan truyền thông tăng cường thời lượng, đưa tin kịp thời về diễn biến của bão, mưa lũ và công tác chỉ đạo ứng phó để người dân biết, chủ động phòng, tránh. - Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo các cơ quan thuộc quyền xử lý các vấn đề liên quan đến vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm...do bão, mưa, lũ gây ra. - Giao Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai Công điện này. - Văn phòng Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Công điện này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách những vấn đề đột xuất, phát sinh. Như vậy, để đối phó với cơn bão số 3 năm 2024, Thủ tướng đã chỉ đạo các bộ, ban, ngành có các biện pháp ứng phó như trên.
Thủ tướng chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, văn hóa không chỉ là một giá trị tinh thần mà còn là một nguồn lực kinh tế vô cùng quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TTg về phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. (1) Khó khăn, hạn chế và định hướng phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam Theo Chỉ thị 30/CT-TTg, ngành công nghiệp văn hóa trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, được coi là yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững và định vị thương hiệu quốc gia và Việt Nam được nhận định là có nhiều tiềm năng để phát triển lĩnh vực này, phù hợp với xu thế toàn cầu. Trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ đề ra, việc thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định 1755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ bước đầu đã đạt được một số kết quả tích cực đáng ghi nhận. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn còn 08 khó khăn, hạn chế bao gồm: - Thiếu văn bản pháp luật rõ ràng về quản lý nhà nước. - Cơ chế, chính sách chưa theo kịp thực tiễn. - Cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ. - Nguồn lực đầu tư chưa tương xứng và dàn trải. - Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. - Chưa xác định được sản phẩm, dịch vụ chủ lực. - Hệ thống thống kê chưa chuẩn hóa. - Vi phạm bản quyền chưa được ngăn chặn hiệu quả. Do đó, định hướng phát triển ngành công nghiệp văn hóa hiện tại của chúng ta là ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy quyền sở hữu trí tuệ để tạo ra sản phẩm văn hóa có giá trị. Bên cạnh đó, việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa phải khai thác hiệu quả tiềm năng, liên kết đa ngành và đảm bảo tính sáng tạo, độc đáo, và bền vững. Và mục tiêu chính là hướng tới xây dựng thương hiệu quốc gia và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và luật pháp quốc tế. (2) Thủ tướng chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam Theo Chỉ thị 30/CT-TTg, trong giai đoạn mới, để các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, tương xứng với tiềm năng, lợi thế và mang lại giá trị gia tăng kinh tế lớn, góp phần quan trọng phát huy và quảng bá các giá trị tốt đẹp, đặc sắc của văn hóa, truyền thống dân tộc, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: - Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: + Nâng cao nhận thức về vai trò của ngành công nghiệp văn hóa; đề cao trách nhiệm lãnh đạo. + Rà soát và đề xuất sửa đổi các chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư và cải cách thủ tục hành chính. - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: + Tuyên truyền về vai trò của ngành công nghiệp văn hóa. + Xây dựng phương án đầu tư cho các lĩnh vực ưu tiên như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn. + Phát triển cơ sở dữ liệu và bản đồ số về ngành công nghiệp văn hóa. - Bộ Thông tin và Truyền thông: + Hỗ trợ phát triển sản phẩm phần mềm và trò chơi điện tử mang bản sắc Việt Nam. + Thúc đẩy chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. - Bộ Công Thương: + Triển khai sản phẩm công nghiệp văn hóa gắn với cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". + Hỗ trợ phát triển các lĩnh vực thủ công mỹ nghệ và thiết kế. - Bộ Xây dựng: Hoàn thiện cơ chế về kiến trúc để quảng bá sản phẩm văn hóa. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới. - Bộ Ngoại giao: Tăng cường quảng bá thương hiệu sản phẩm văn hóa Việt Nam ra thế giới. - Bộ Khoa học và Công nghệ: Thực hiện chương trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030. - Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đào tạo giảng viên cho ngành công nghiệp văn hóa. - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động trong ngành văn hóa. - Ngân hàng Nhà nước: Phát triển sản phẩm tín dụng cho doanh nghiệp trong ngành văn hóa. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hướng dẫn đầu tư theo phương thức đối tác công - tư. - Bộ Tài chính: Hỗ trợ ngân sách cho phát triển ngành công nghiệp văn hóa. - Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố: Phát triển ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương và xây dựng kế hoạch ưu tiên đầu tư. - Các hội, hiệp hội: Kết nối doanh nghiệp và hỗ trợ sáng tạo trong ngành văn hóa. - Cộng đồng doanh nghiệp: Hợp tác phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa. - Chuyên gia và cá nhân sáng tạo: Nghiên cứu và phát triển sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu công chúng. - Các cơ quan báo chí: Tăng cường tuyên truyền về ngành công nghiệp văn hóa. - Chỉ đạo thực hiện: Các bộ, ngành và địa phương phải ban hành kế hoạch cụ thể và báo cáo kết quả thực hiện. - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Là cơ quan đầu mối theo dõi và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện chỉ thị. Theo đó, các nhiệm vụ, yêu cầu mà Thủ tướng đề ra bao hàm các nội dung chính như: phải nâng cao nhận thức, sửa đổi chính sách, đầu tư vào văn hóa, hỗ trợ phát triển công nghệ, thúc đẩy sản phẩm văn hóa, đào tạo và hỗ trợ doanh nghiệp, kết nối và hợp tác nhằm tháo gỡ những khó khăn, hạn chế để phát triển ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam. Chỉ thị 30/CT-TTg không chỉ tạo ra động lực cho ngành công nghiệp văn hóa mà còn góp phần phát huy và quảng bá giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo công khai, minh bạch thu, chi tiền công đức
Ngày 08/8/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện 77/CĐ-TTg yêu cầu tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc. Công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ vẫn còn một số hạn chế Đây là một trong những nội dung tại Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024. Cụ thể, tại Công điện 77/CĐ-TTg, Thủ tướng đã nêu: - Thời gian qua, triển khai các quy định tại Nghị định 110/2018/NĐ-CP, Thông tư 04/2023/TT-BTC và tiền công đức, tài trợ, công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc đã đạt được một số kết quả nhất định. Hầu hết các địa phương đã xây dựng và ban hành văn bản quy định về quản lý tiền công đức, tài trợ, bảo đảm phù hợp với thực tế của từng di tích và phong tục, tập quán của địa phương. - Nguồn thu công đức, tài trợ tại các di tích đã được sử dụng công khai, minh bạch, không những cho việc tu bổ, tôn tạo di tích và tổ chức lễ hội, tạo sức hấp dẫn đối với du khách, mà còn đóng góp tích cực cho các hoạt động cộng đồng thông qua các hoạt động hỗ trợ cho người có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, ủng hộ xây nhà cho hộ nghèo, làm đường giao thông nông thôn, xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ cộng đồng… - Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ vẫn còn một số hạn chế. Số liệu báo cáo thu, chi tiền công đức, tài trợ của các di tích, kể cả di tích xếp hạng quốc gia đặc biệt mới chỉ phản ánh một phần, chưa đầy đủ. Còn một số cơ sở di tích lịch sử - văn hóa chưa báo cáo kịp thời, đầy đủ công tác quản lý tiền công đức, tiền tài trợ; chưa thực hiện lắp đặt camera để giám sát tại các điểm tiếp nhận, kiểm đếm tiền công đức, tài trợ. Vẫn tồn tại tình trạng du khách đặt nhiều loại tiền trên các ban thờ tại các di tích làm mất đi sự tôn nghiêm, thanh tịnh nơi thờ tự. Việc quản lý tiền công đức, tiền tài trợ có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, tiềm ẩn rủi ro để thất thoát, trộm cắp… Theo đó, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc sử dụng nguồn thu công đức, tài trợ tại các di tích thì vẫn còn một số hạn chế như số liệu báo cáo thu, chi chưa đầy đủ, chưa có camera giám sát,... Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo công khai, minh bạch thu, chi tiềncông đức Tại Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: - Nghiên cứu nội dung báo cáo, kiến nghị của Bộ Tài chính về kết quả kiểm tra tổng thể việc quản lý tiền công đức, tài trợ tại các di tích lịch sử-văn hóa trên phạm vi toàn quốc năm 2023 tại văn bản 174/BC-BTC ngày 26/6/2024, theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, kịp thời, hiệu quả theo quy định để tăng cường công tác quản lý tiền công đức, tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hoá; - Rà soát văn bản, quy định của địa phương liên quan đến quản lý thu, chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội để ban hành Quyết định mới hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp theo quy định của Bộ Tài chính; - Chỉ đạo các tổ chức, cá nhân có liên quan công khai, minh bạch việc thu, chi các khoản công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội và cung cấp thông tin kịp thời khi được cơ quan chức năng có thẩm quyền yêu cầu theo quy định của pháp luật. - Tăng cường công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội, huy động sự vào cuộc, đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; - Cây dựng kế hoạch kiểm tra định kỳ và tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội được sử dụng chặt chẽ, công khai, minh bạch, hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm theo quy định của pháp luật, tuyệt đối không để xảy ra lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi, phục vụ lợi ích cá nhân; - Góp phần giữ gìn, phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đóng góp tích cực cho việc bảo tồn, tu bổ, tôn tạo di tích, tổ chức lễ hội, phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc Việt Nam. Như vậy, thông qua Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024, Thủ tướng đã yêu cầu chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW chỉ đạo tổ chức, cá nhân có liên quan công khai, minh bạch việc thu, chi các khoản công đức và cung cấp thông tin kịp thời khi được cơ quan chức năng có thẩm quyền yêu cầu. Ngoài chỉ đạo đối với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW, Thủ tướng cũng có các yêu cầu đối với Bộ trưởng các Bộ và Văn phòng Chính phủ trong công tác quản lý nhà nước đối với tiền công đức, tiền tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc. Xem chi tiết tại Công điện 77/CĐ-TTg ngày 08/8/2024
Chính phủ thảo luận về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao và 4 dự án luật, đề nghị xây dựng luật
Ngày 24/7, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 7/2024 - phiên họp chuyên đề pháp luật thứ 6 trong năm 2024. Mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thành kính dành phút mặc niệm tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa từ trần- Ảnh: VGP/Nhật Bắc Cùng tham dự phiên họp có các Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ. Theo chương trình, phiên họp thảo luận về 5 nội dung quan trọng gồm 2 đề nghị xây dựng luật (Luật Tình trạng khẩn cấp, Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi)); 2 dự án luật (Luật Điện lực (sửa đổi), Luật Việc làm (sửa đổi)); Đề án về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam. Mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thành kính dành phút mặc niệm tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa từ trần. Phát biểu ý kiến khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, đột phá về thể chế là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Chính phủ rất coi trọng công tác này và từ đầu nhiệm kỳ tới nay, Chính phủ đã tổ chức 27 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật; cho ý kiến, xem xét, thông qua đối với hơn 100 đề nghị xây dựng luật, dự án luật, trình Quốc hội xem xét, thông qua hơn 60 luật, nghị quyết. Chính phủ ban hành hơn 380 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành gần 90 quyết định quy phạm. Thủ tướng nhắc lại yêu cầu các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng thể chế; thường xuyên rà soát, xem xét các vướng mắc, vấn đề phát sinh trên thực tiễn, những vấn đề mới, những vấn đề cần phải có các quy định pháp luật - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Riêng trong năm 2024, Chính phủ đã tổ chức 5 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, cho ý kiến, thông qua đối với 26 đề nghị xây dựng luật, nghị quyết, dự án luật. Đặc biệt, Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban. Theo Thủ tướng, ngoài việc cần coi trọng về số lượng, bảo đảm tiến độ, phải đặc biệt coi trọng chất lượng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là thực hiện phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của cấp dưới, thiết kế các công cụ giám sát, kiểm tra; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, chấm dứt cơ chế "xin-cho", giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho các cơ quan, người dân, doanh nghiệp. Nguyên tắc xây dựng luật là phải tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, vượt qua thách thức phát sinh trong thực tiễn, từ đó huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển đất nước theo mục tiêu Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Thủ tướng nhắc lại yêu cầu các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng thể chế; thường xuyên rà soát, xem xét các vướng mắc, vấn đề phát sinh trên thực tiễn, những vấn đề mới, những vấn đề cần phải có các quy định pháp luật để góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, đầu tư nguồn lực cho công tác xây dựng thể chế; bảo đảm các điều kiện về tư liệu, tài liệu, các trang thiết bị cần thiết khác; bố trí những cán bộ đủ trình độ, năng lực, có trách nhiệm cao, đam mê, cảm xúc đối công việc; khuyến khích đổi mới sáng tạo, sáng kiến và ưu tiên chế độ chính sách phù hợp với những cán bộ tham gia xây dựng pháp luật. Thủ tướng chỉ đạo đã qua 6 tháng đầu năm 2024 và 3 năm của nhiệm kỳ này, các bộ, ngành cần xem xét những cán bộ nào từ đầu nhiệm kỳ đến nay có thành tích xuất sắc trong xây dựng thể chế thì đề xuất khen thưởng đột xuất; Bộ Nội vụ quan tâm và hướng dẫn công tác này. Bên cạnh đó, phải rà soát lại những ai chưa làm tốt phải kiểm điểm, nhắc nhở; ai vi phạm phải xử lý; bảo đảm công bằng, minh bạch, khách quan, bình đẳng. Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung trí tuệ, tiếp tục tinh thần đổi mới; trình bày báo cáo, phát biểu ý kiến ngắn gọn, rõ ý, đi thẳng vào vấn đề; tập trung trao đổi về các vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác nhau cần thảo luận, xin ý kiến Chính phủ - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Cũng tại phiên họp này, Chính phủ thảo luận Đề án về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam để trình có cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Bộ Chính trị đã có Kết luận 49-KL/TW ngày 28/2/2023 về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là việc lớn, quan trọng, phải lấy ý kiến của các thành viên Chính phủ trước khi trình cấp có thẩm quyền để triển khai, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, Kết luận của Bộ Chính trị. Lưu ý thời gian phiên họp có hạn, yêu cầu cao, phạm vi rộng, nội dung phong phú, Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung trí tuệ, tiếp tục tinh thần đổi mới; trình bày báo cáo, phát biểu ý kiến ngắn gọn, rõ ý, đi thẳng vào vấn đề; tập trung trao đổi về các vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác nhau cần thảo luận, xin ý kiến Chính phủ; bảo đảm tiến độ, chất lượng của Phiên họp với tinh thần "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm", từ đó dễ kiểm tra, giám sát, đôn đốc, thi đua khen thưởng. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ) Link: https://baochinhphu.vn/phien-hop-chinh-phu-ve-chu-truong-dau-tu-duong-sat-toc-do-cao-va-4-du-an-de-nghi-xay-dung-luat-102240724091334714.htm
Yêu cầu của Thủ tướng về việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT và quản lý trẻ em dịp nghỉ hè
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 60/CĐ-TTg ngày 22/6/2024 về việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm học 2024, và việc quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè Tại Công điện 60/CĐ-TTg ngày 22/6/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền luôn đặc biệt quan tâm đến công tác tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và công tác quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè. Các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và cả hệ thống chính trị đã tham gia và phối hợp với ngành Giáo dục để triển khai thực hiện các công tác này. Do đó, để việc tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2024 được an toàn, nghiêm túc, thật chu đáo; hoạt động vui chơi, giải trí cho trẻ em, học sinh trong kỳ nghỉ hè thật sự an toàn, hữu ích, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tại công điện những nội dung sau: Chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 Theo đó, Thủ tướng yêu cầu các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện: 1- Tập trung chỉ đạo và quán triệt các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức có liên quan tham gia, phối hợp có hiệu quả với ngành Giáo dục để chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho Kỳ thi, thực hiện nghiêm Chỉ thị 15/CT-TTg 2- Chỉ đạo các cấp, các ngành, các tổ chức có liên quan phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục: - Triển khai các biện pháp bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn cho Kỳ thi; chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi sử dụng thiết bị công nghệ cao để gian lận trong Kỳ thi; - Tạo điều kiện thuận lợi về ăn ở, đi lại cho học sinh đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, vùng sâu, vùng xa; học sinh khuyết tật và học sinh tại các vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai tham dự Kỳ thi với phương châm không để học sinh nào phải bỏ thi vì gặp khó khăn về kinh tế, đi lại; - Chủ động các phương án đề phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường; cung ứng đầy đủ điện, nước sinh hoạt trong quá trình tổ chức Kỳ thi; - Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát Kỳ thi; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế thi, đưa thông tin không đúng về Kỳ thi. Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn cho Kỳ thi Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 15/CT-TTg và thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn, nghiêm túc, hiệu quả Kỳ thi, trong đó: - Bộ Giáo dục và Đào tạo bảo đảm đề thi chất lượng, chính xác, tuyệt đối an toàn, tập trung chỉ đạo và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn diện Kỳ thi. - Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục triển khai các biện pháp bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn cho Kỳ thi; phòng ngừa, phát hiện xử lý kịp thời các hành vi sử dụng thiết bị công nghệ cao để gian lận trong Kỳ thi. - Bộ Y tế chỉ đạo các địa phương triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường; chuẩn bị nhân lực, vật tư, trang thiết bị y tế thực hiện công tác khám, chữa bệnh cho các trường hợp thí sinh và những người tham gia tổ chức Kỳ thi có vấn đề về sức khoẻ. Quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè Ngoài việc đảm bảo cho kỳ thi tốt nghiệp THPT được diễn ra an toàn, thuận lợi, Thủ tướng còn yêu cầu các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc chỉ đạo các cấp, các ngành, các tổ chức, đặc biệt là Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Ban Bảo vệ trẻ em các cấp tạo điều kiện để trẻ em, học sinh được vui chơi, giải trí an toàn, lành mạnh, hữu ích trong dịp nghỉ hè. Bên cạnh đó, phối hợp với gia đình quản lý, giám sát trẻ em, học sinh trong thời gian không đến trường bảo đảm an toàn nhất là phòng, chống tai nạn, thương tích, đuối nước và việc xâm hại trẻ em trên môi trường mạng. Ngoài ra, Thủ tướng cũng giao cho: - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đôn đốc, hướng dẫn các địa phương thực hiện công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, nhất là phòng, chống tai nạn thương tích, phòng, chống đuối nước trẻ em, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác này. - Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các địa phương thực hiện các biện pháp phòng, chống xâm hại trẻ em trong không gian mạng. Cuối công điện, Thủ tướng giao cho Phó Thủ tướng Lê Thành Long chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo việc thực hiện Kỳ thi và việc quản lý trẻ em, học sinh trong dịp nghỉ hè theo Công điện này và các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Nhà tạm, nhà dột là gì? Lan rộng phong trào "Xóa nhà tạm, nhà dột" do Thủ tướng phát động
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động phong trào thi đua cả nước chung tay "Xóa nhà tạm, nhà dột nát" trên cả nước trong năm 2025. (1) Như thế nào là nhà tạm, nhà dột? Theo quy định, nhà tạm, nhà dột nát là loại nhà xây dựng bằng các vật liệu tạm thời, dễ cháy, có niên hạn sử dụng dưới 5 năm hoặc không đảm bảo “3 cứng” (nền cứng, khung cứng, mái cứng), thiếu diện tích ở, thiếu nhà bếp, nhà vệ sinh, không đảm bảo an toàn cho người sử dụng Trong văn bản hướng dẫn Hướng dẫn 01/HD-SXD của Sở Xây dựng tỉnh Bình định ban hành, nhà tạm, nhà dột nát là nhà có các đặc điểm sau đây: Nhà tạm: - Nền: bằng đất hoặc lát bằng gạch nhưng không có chít mạch gắn kết bằng vữa xi măng; - Sàn: bằng tre, nứa (đối với nhà sàn); - Cột, kèo, xà gồ, đòn tay: bằng cây gỗ tạp hoặc bằng tre, nứa.. - Liên kết cột, kèo, xà gồ, đòn tay không chắc chắn (dây buộc, đinh, chốt gỗ dễ mục ...), không có liên kết bằng bu lông, mộng gỗ....; - Tường bao che: bằng đất, phên tre, tôn, bằng gạch rỗng liên kết bằng các thanh luồn qua lỗ gạch….; - Mái: lợp bằng vật liệu tranh, rơm, lá các loại; - Thiếu nhà bếp, nhà vệ sinh Nhà dột nát: - Có kết cấu chịu lực bị mối, mục. Tường, mái lợp không có đủ khả năng che mưa, che nắng, không đảm bảo an toàn cho người sử dụng. - Mái bằng ngói, tôn, fibro xi-măng, tranh, rơm, rạ, lá ... đã bị thủng, dột nước, không có đủ khả năng che mưa, che nắng; kết cấu đỡ mái bằng gỗ hoặc sắt bị cong vênh nhiều, nhiều chỗ bị mục; - Cột, dầm, sàn, trần bê tông nứt rạn nhiều chỗ, cốt thép bị đứt, lộ rỉ sét nhiều chỗ; móng, tường có vết nứt, mục, cong vênh, có nguy cơ sụp đổ, không còn an toàn cho người ở. Theo đó, nhà tạm, nhà dột nát là những căn nhà có kết cấu tạm bợ, dựng lên để ở thời gian ngắn. Tuy nhiên, nhiều người dân đã sống trong những căn nhà như vậy suốt thời gian dài. Những căn nhà tạm, nhà dột nát này có nguy cơ sập, đổ bất cứ lúc nào, không đảm bảo an toàn cho người dân sinh sống bên trong đó. Do đó, ngày 13/4 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động phong trào thi đua cả nước chung tay "Xóa nhà tạm, nhà dột nát" trên cả nước trong năm 2025. (2) Lan rộng phong trào "Xóa nhà tạm, nhà dột" do Thủ tướng phát động Phong trào “Xóa nhà dột, nhà tạm” do Thủ tướng phát động được lan tỏa rộng rãi, việc này vừa góp phần ổn định, cải thiện đời sống của người dân, đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vừa đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Thủ tướng tham gia khởi công xây nhà mới cho hộ gia đình ông Xa Văn Vọng, xóm Sơn Phú, xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình Thực tế thì việc hành động xóa nhà dột, nhà tạm đã được thực hiện từ nhiều năm trước đây, tuy nhiên việc Thủ tướng phát động phong trào xóa 100% nhà tạm, nhà dột trong năm 2025 đã làm sức nóng của việc xây nhà cho người dân khó khăn càng được quan tâm nhiều hơn nữa. Trong những năm qua, tỉnh Cao Bằng luôn quan tâm, kịp thời triển khai, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chương trình giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới. Trên địa bàn toàn tỉnh đã hỗ trợ về nhà ở cho 3.656/16.049 hộ nghèo, cận nghèo, gia đình chính sách (đạt tỉ lệ 22,78%). Còn tại Tuyên Quang, phong trào xóa nhà dột, nhà tạm đã được triển khai hiệu quả tại xã Minh Hương - một xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn của huyện Hàm Yên. Bắc Giang cũng là địa phương triển khai hiệu quả công tác xóa nhà dột, nhà tạm. Năm 2022-2023, tỉnh Bắc Giang xây dựng hơn 3.000 ngôi nhà từ chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, giúp các hộ nghèo, gia đình chính sách có căn nhà mới khang trang, ổn định cuộc sống. Trong năm 2024, tỉnh Bắc Giang đề ra chỉ tiêu xóa 100% nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hỗ trợ 100% gia đình người có công gặp khó khăn về nhà ở, nhà xuống cấp cần được sửa chữa, xây mới trên địa bàn tỉnh. Chương trình vận động, hỗ trợ được triển khai đến từng hộ gia đình; bảo đảm dân chủ, công khai, công bằng và minh bạch, đúng quy định; phù hợp với phong tục, tập quán và điều kiện thực tiễn và gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Từ đó, hỗ trợ trực tiếp đến từng hộ gia đình để xây dựng mới hoặc sửa chữa nhà ở, cộng đồng giúp đỡ, hộ gia đình tự tổ chức xây dựng nhà ở; hộ gia đình được hỗ trợ nhà ở, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Thành viên Chính phủ gồm những ai? Thủ tướng Chính phủ do ai bầu ra?
Thành viên Chính phủ gồm những ai? Thủ tướng Chính phủ do ai bầu ra? Thủ tướng chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì? bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Thành viên Chính phủ gồm những ai? Theo Điều 2 Luật Tổ chức Chính phủ 2015 quy định về cơ cấu tổ chức và thành viên của Chính phủ, trong đó: Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Thủ tướng Chính phủ do ai bầu ra? Thủ tướng Chính phủ được quy định theo Điều 98 Hiến pháp 2013 như sau: Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Đồng thời, theo Điều 8 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 thì Quốc hội bầu các chức danh chức danh trong bộ máy nhà nước gồm: Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước. Như vậy, theo quy định nêu trên thì Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ? Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Điều 98 Hiến pháp 2013, được cụ thể hoá tại Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ 2015. Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ bao gồm: - Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí: + Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; + Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các văn bản pháp luật và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; + Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các thành viên Chính phủ; quyết định các vấn đề khi còn có ý kiến khác nhau giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; + Lãnh đạo việc thực hiện công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà nước và các hoạt động kinh tế - xã hội; + Lãnh đạo, chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các quy định của pháp luật và các chương trình, kế hoạch, chiến lược của Chính phủ trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh; + Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi toàn quốc. - Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, liên tục của nền hành chính quốc gia: + Quản lý và điều hành hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương trong quá trình phục vụ Nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh; + Chỉ đạo việc quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập + Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước; + Lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, thanh tra công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; + Quyết định phân cấp hoặc ủy quyền thực hiện những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập + Lãnh đạo, chỉ đạo việc quản lý, điều hành toàn bộ cơ sở vật chất, tài chính và nguồn ngân sách nhà nước để phục vụ cho sự vận hành của bộ máy nhà nước; + Ủy quyền cho Phó Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; + Lãnh đạo, chỉ đạo công tác cải cách hành chính và cải cách chế độ công vụ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; + Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. - Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; trong thời gian Quốc hội không họp, trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ. - Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định giao quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, quyết định giao quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. - Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ. - Phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới khi không hoàn thành nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao hoặc vi phạm pháp luật. - Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ. - Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan, tổ chức khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quyết định thành lập hội đồng, Ủy ban hoặc ban khi cần thiết để giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng liên ngành. - Triệu tập và chủ trì các phiên họp của Chính phủ. Như vậy, Thủ tướng Chính phủ là chức danh cao nhất của Chính phủ, sẽ được bầu từ đại biểu Quốc hội, có những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật.
Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm trước Chính Phủ về bảo đảm trật tự ATGT dịp 30/04 - 01/05
Ngày 11/04/2024, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã ký Công điện 36/CĐ-TTg về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân dịp nghỉ lễ 30/4 - 01/5 và cao điểm du lịch hè 2024. Cụ thể, để đảm bảo trật tự an toàn giao thông cũng như tạo thuận lợi cho người dân cả nước đi lại trong dịp 30/04 - 01/05 và cao điểm du lịch hè năm 2024, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan, bộ, ngành thực hiện những nhiệm vụ như sau: (1) Phân luồng giao thông, đảm bảo an toàn và thông suốt Theo Công điện 36/CĐ-TTg, Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo tăng cường tuần tra, kiểm soát. Qua đó, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và cả những trường hợp điều khiển phương tiện vi phạm quy định về nồng độ cồn, ma tuý, chở quá tải trọng, quá số người quy định, phương tiện kinh doanh vận tải vi phạm về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường,… Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Công an chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tụ tập gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép và cương quyết xử lý, trấn áp những đối tượng có hành vi chống người thi hành công vụ. Ngoài ra, Bộ Công an phải có phương án điều tiết, phân luồng giao thông hợp lý, hướng dẫn lưu thông an toàn, thông suốt. Đặc biệt là trên các tuyến đường, các khu vực được dự báo sẽ có lưu lượng phương tiện tham gia giao thông tăng cao trong dịp nghỉ lễ 30/4-01/5 và nghỉ hè 2024. (2) Tổ chức các điểm dừng nghỉ tạm thời dọc các tuyến cao tốc chưa có trạm dừng nghỉ Bộ Giao thông vận tải được giao trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan trực thuộc, các Sở và các đơn vị kinh doanh vận tải xây dựng phương án tổ chức vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, bảo đảm an toàn giao thông, giảm ùn tắc giao thông. Đối với kết cấu hạ tầng giao thông, phải được bảo đảm chỉnh trang, đáp ứng được những điều kiện an toàn, trường hợp xảy ra sự cố phải kịp thời khắc phục. Những tuyến giao thông trọng điểm, nhất là các tuyến giao thông chính, các đầu mối giao thông quan trọng, nhất là tại các đô thị lớn và địa bàn thu hút đông khách du lịch phải được khẩn trương hoàn thành nâng cấp, sửa chữa. Bên cạnh đó, trên những đoạn, tuyến, công trình có hoạt động thi công xây dựng cũng phải bảo đảm thực hiện nghiêm việc tổ chức, hướng dẫn bảo đảm giao thông. Đối với đường cao tốc, đặc biệt là các tuyến cao tốc phân kỳ có 02 làn xe chưa có làn dừng khẩn cấp. Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan liên quan kiểm tra, rà soát kết cấu hạ tầng giao thông (nhất là hệ thống báo hiệu đường bộ) và phương án tổ chức giao thông. Để từ đó phát hiện và xử lý kịp thời tồn tại, bất cập phát sinh. Bên cạnh đó cũng phải lưu ý những trường hợp các tuyến cao tốc chưa có trạm dừng nghỉ thì phải có giải pháp về phân luồng điều tiết giao thông từ xa, tổ chức các điểm dừng nghỉ tạm thời. Trong trường hợp cần thiết, phê duyệt điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế phương án tổ chức giao thông, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế, nâng cao an toàn giao thông. (3) Tăng cường thời lượng tuyên truyền về ATGT Nội dung chỉ đạo này dành cho Bộ Thông tin và Truyền thông, theo đó Bộ có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tấn báo chí tăng cường thời lượng và nội dung tuyên truyền về ATGT. Đối với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các cơ quan thông tấn báo chí và các tổ chức chính trị - xã hội phải tổ chức thông tin, tuyên truyền về hậu quả của tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đã từng xảy ra trước đây để người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về an toàn giao thông và phòng tránh tai nạn giao thông. Đồng thời, phải cảnh báo về các hành vi, các địa bàn và những tình huống về thời tiết, môi trường có nguy cơ cao dẫn đến tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông. (4) Bảo đảm khả năng cao nhất trong việc cứu chữa nạn nhân gặp tai nạn Bộ Y tế phải chỉ đạo các Sở Y tế cùng các cơ sở khám, chữa bệnh trong cả nước tăng cường lực lượng, phương tiện, trang thiết bị y tế cũng như thuốc men để bảo đảm khả năng cao nhất trong việc cứu chữa khi xảy ra tai nạn giao thông, giảm thiểu tối đa thiệt hại về người. (5) Bảo đảm an toàn giao thông trong công tác tổ chức du lịch Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan trực thuộc, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu các tổ chức cá nhân có liên quan đưa nội dung bảo đảm an toàn giao thông vào trong công tác tổ chức các hoạt động du lịch trên toàn quốc, đặc biệt là bảo đảm các điều kiện an toàn về phương tiện, kết cấu hạ tầng giao thông kết nối đến các địa bàn thu hút khách du lịch, điểm đỗ và trông giữ phương tiện phục vụ khách du lịch. (6) Tuyệt đối không giao phương tiện hoặc để cho người không đủ điều kiện Công điện 36/CĐ-TTg nêu rõ, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục trên toàn quốc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 31/CT-TTg về tăng cường công tác bảo đảm TTATGT cho lứa tuổi học sinh trong tình hình mới, yêu cầu phụ huynh phải có biện pháp giáo dục, quản lý chặt chẽ con em mình trong thời gian nghỉ hè, tuyệt đối không giao phương tiện hoặc để cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông. (7) Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm trước Chính Phủ về bảo đảm trật tự, ATGT Theo đó, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng tăng cường tuyên truyền, vận động người dân chấp hành các quy định của pháp luật về trật tự ATGT. Đồng thời, phải có giải pháp kiểm soát chặt chẽ và phương án tổ chức giao thông an toàn, thông suốt, gắn chặt với hướng dẫn, hỗ trợ người dân trong việc đi lại. Nỗ lực cao nhất không để xảy ra TNGT đặc biệt nghiêm trọng, nhất là trên tuyến, khu vực có nguy cơ cao xảy ra TNGT, ùn tắc giao thông trên địa bàn. Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND các tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo đảm trật tự ATGT trên địa bàn mình quản lý. Riêng đối với những địa phương có địa hình đèo dốc quanh co nguy hiểm ngoài việc tuyên truyền hướng dẫn các lái xe tuần thủ quy định còn phải có phương án phân luồng giao thông phù hợp với thực tế lưu lượng phương tiện. Các địa phương có các tuyến cao tốc đi qua, phối hợp thực hiện tốt phương án tổ chức giao thông trên các tuyến cao tốc phân kỳ đầu tư có hai làn xe, chưa có làn dừng khẩn cấp, chưa có trạm dừng nghỉ. (8) Tổ chức trực theo chế độ 24/7, phối hợp, trao đổi thông tin trực về bảo đảm ATGT Tại nội dung cuối cùng của Công điện 36/CĐ-TTg, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải tổ chức trực theo chế độ 24/7. Đồng thời, tăng cường công tác phối hợp, trao đổi thông tin trực về bảo đảm trật tự ATGT giữa các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ trên tuyến, địa bàn (như lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, các đơn vị quản lý đường bộ, các đơn vị chức năng có liên quan). Bên cạnh đó, phải công bố số điện thoại đường dây nóng về bảo đảm trật tự ATGT để tiếp nhận, kịp thời xử lý các phản ánh của người dân về tình hình ATGT trong dịp nghỉ lễ trên địa bàn.
Thủ tướng: An minh mạng cần được tăng cường mạnh mẽ
Sau hàng loạt vụ tấn công mạng bằng Ransomware, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có Công điện yêu cầu tăng cường bảo đảm an ninh mạng. Hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp cần phải được quan tâm, triển khai bảo đảm an toàn thông tin mạng ở mức độ cao nhất. Thủ tướng đã có nhiều văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương về tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng sau hàng loạt vụ tấn công mạng gần đây nhắm đến các cơ quan, tổ chức, gây hoang mang và lo lắng về độ an toàn trên không gian mạng cho công dân. Trước tình hình phức tạp, một số ngành, lĩnh vực chưa quán triệt, ưu tiên nguồn lực triển khai, để xảy ra sự cố gây mất an toàn thông tin mạng và tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn không gian mạng Việt Nam. Do đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 33/CĐ-TTg ngày 7/4/2024 yêu cầu tăng cường bảo đảm an ninh mạng, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng Triển khai cấp thiết các nhiệm bảo đảm an ninh mạng Thủ tướng Chính phủ yêu cầu triển khai một số nhiệm vụ cấp thiết sau: 1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp: - Tiếp tục thực hiện quyết liệt, có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tập trung vào các nội dung trọng tâm; - Trường hợp xảy ra sự cố tấn công mạng, tuân thủ nghiêm túc theo quy định và chỉ đạo tại Quyết định 05/2017/QĐ-TTg ngày 16/03/2017, Chỉ thị 18/CT-TTg ngày 13/10/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 20/2017/TT-BTTTT ngày 12/9/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông; - Hằng Quý gửi Bộ Thông tin và Truyền thông báo cáo tình hình bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với các hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý trước ngày 20 của tháng cuối Quý. 2. Bộ trưởng, Thủ trưởng các Bộ, Cơ quan: Giao thông vận tải, Công Thương, Tài Nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Y tế, Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại khoản 1 Công điện này phải tập trung chỉ đạo thực hiện ngay những nhiệm vụ cụ thể sau: - Chủ trì, phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các tổ chức, doanh nghiệp chủ quản hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp (gọi tắt là tổ chức, doanh nghiệp): + Thực hiện rà soát, đánh giá và báo cáo tình hình bảo đảm an toàn thông tin theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành liên quan có chức năng quản lý an toàn, an ninh mạng. + Hoàn thành phê duyệt hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn cho 100% hệ thống thông tin trong tháng 9/2024 và triển khai đầy đủ phương án bảo đảm an toàn thông tin + Định kỳ kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin - Phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông, các bộ, ngành có chức năng quản lý an toàn, an ninh mạng hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra công tác bảo đảm an toàn thông tin của các tổ chức, doanh nghiệp. 3. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông: - Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tình hình bảo đảm an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước trước ngày 11/4/2024; tổng hợp kết quả, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30/4/2024. - Hướng dẫn các cơ quan chủ trì các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin mạng tổ chức rà soát, đánh giá và báo cáo tình hình bảo đảm an toàn thông tin của các tổ chức, doanh nghiệp trước ngày 20/4/2024; tổng hợp kết quả, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10/5/2024. - Chủ trì, phối hợp Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện công tác giám sát, phát hiện, cảnh báo sớm và ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng. Tổng hợp kết quả phân tích, đánh giá, rút ra bài học từ hoạt động ứng cứu sự cố; công bố, cảnh báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến kinh nghiệm, giúp các tổ chức, cá nhân nhận biết, chủ động phòng ngừa, ứng phó sự cố tương tự và nâng cao nhận thức về an toàn thông tin mạng. - Chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan liên quan tổ chức thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng tại các cơ quan, tổ chức nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, để xảy ra sự cố mất an toàn thông tin mạng. - Phát triển, vận hành, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng các nền tảng hỗ trợ bảo đảm an toàn thông tin để quản lý và thực thi pháp luật về an toàn thông tin mạng. - Chỉ đạo các cơ quan truyền thông, báo chí, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tăng cường tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật an toàn thông tin mạng, nâng cao nhận thức về bảo đảm an toàn thông tin mạng. - Hằng Quý báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các nguy cơ, rủi ro mất an toàn thông tin đối với hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, doanh nghiệp. 4. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng theo chức năng, nhiệm vụ được giao và trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; chỉ đạo các tổ chức, doanh nghiệp chủ quản hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý quy định tại Quyết định 632/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tương tự tại khoản 2 Công điện này; phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thông tin mạng. 5. Các bộ, ngành, địa phương chủ động phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng, tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật về an toàn thông tin mạng, đặc biệt là quy định về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ. 6. Giao Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang chỉ đạo theo dõi lĩnh vực này; Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông theo chức năng nhiệm vụ được giao theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Công điện này; tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện. Tình hình tấn công an ninh mạng gần đây đang trở nên mạnh mẽ và nguy hiểm hơn, nhất là mã độc tống tiền Ransomware thời gian gần đây xâm nhập vào hệ thống VNDirect và PVOIL đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh trước các tình huống tấn công mạng. Việc Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo quyết liệt tăng cường bảo đảm tình hình an ninh mạng quốc gia là hết sức cần thiết và kịp thời, giúp các bộ, ngành, cơ quan phải tập trung, tìm biện pháp khắc phục và đối phó khi có sự kiện tấn công mạng xảy ra một lần nữa. (Xem chi tiết hơn tại baochinhphu.vn)
Chỉ thị 11/CT-TTg: Không để người dân thiếu nước sinh hoạt
Ngày 01/4/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ban hành Chỉ thị 11/CT-TTg yêu cầu tăng cường thực hiện các biện pháp phòng, chống nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/02/chi-thi-01.pdf Chỉ thị 11/CT-TTg (1) Diễn biến nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trong thời gian sắp tới Cụ thể, tại Chỉ thị 11/CT-TTg, Thủ tướng đề cập rõ đến ảnh hưởng của El Nino là một trong những tác nhân chính gây ra tình trạng nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn kéo dài ở một số địa phương, nhất là tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung, Tây Nguyên. Theo đó, thời gian sắp tới, các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra dự báo như sau: - Nhiệt độ trung bình có xu hướng cao hơn trung bình nhiều năm, đặc biệt trong mùa hè. - Nắng nóng có khả năng tiếp tục xuất hiện nhiều đợt và gay gắt hơn trung bình nhiều năm. - Mùa lũ ở Bắc Bộ ít có khả năng đến sớm, dòng chảy đến các hồ chứa lớn trên sông Đà có thể thiếu hụt 30-40% so với trung bình nhiều năm. - Nguy cơ tiếp tục xảy ra nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, nhất là ờ khu vực Trung Bộ và Nam Bộ. Để hạn chế tối đa những thiệt hại trước những tình trạng nêu trên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ trưởng các Bộ và Thủ trưởng cơ quan có liên quan tổ chức theo dõi sát tình hình. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo triển khai các giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả với thiên tai, thời tiết cực đoan, nhất là nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn. (2) Chủ động có hình thức linh hoạt tích trữ nước ngọt, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả Cụ thể, Chỉ thị 11/CT-TTg nêu rõ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đặc biệt là các địa phương khu vực Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau: - Chỉ đạo cơ quan chức năng của địa phương: + Theo dõi chặt chẽ diễn biến và dự báo về thời tiết, khí tượng, thủy văn, nguồn nước, xâm nhập mặn. + Kiểm kê, nắm chắc thông tin về nguồn nước trên địa bàn để cập nhật phương án, kế hoạch phòng, chống phù hợp với các kịch bản nguồn nước. + Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân chủ động, linh hoạt tích trữ nước ngọt, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, triệt để chống thất thoát, lãng phí nguồn nước ngọt. - Tuân thủ chỉ đạo, hướng dẫn: của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ, ngành có liên quan, để từ đó: + Tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả giải pháp phòng, chống. Trường hợp xảy ra thiếu nước không bảo đảm cung cấp đủ cho các nhu cầu sử dụng thì phải ưu tiên cấp đủ nước cho sinh hoạt, tưới cho cây lâu năm có giá trị kinh tế cao và các nhu cầu thiết yếu khác. + Vận hành hiệu quả các hệ thống, công trình thủy lợi để lấy nước, chủ động trữ nước bảo đảm đáp ứng nhu cầu tối thiểu nước tưới cho cây trồng khi xảy ra thiếu nước, hạn chế thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh, nhất là sản xuất nông nghiệp. (3) Không để người dân thiếu nước sinh hoạt Tại Chỉ thị 11/CT-TTg, Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu các cơ quan liên quan chủ động Xác định các khu vực có nguy cơ xảy ra thiếu nước sinh hoạt để từ đó, tổ chức triển khai giải pháp bảo đảm cấp nước sinh hoạt. Không được để người dân thiếu nước sinh hoạt, trường hợp cần thiết phải huy động lực lượng, phương tiện vận chuyển nước để cung cấp cho người dân. Bên cạnh đó, phải chủ động nạo vét các kênh mương, hồ chứa nước bị bồi lắng để khôi phục, tăng khả năng trữ nước, kết hợp tận thu vật liệu xây dựng theo quy định của pháp luật; rà soát, đánh giá khả năng lấy nước các công trình thủy lợi, nhất là dọc các tuyến sông xảy ra tình trạng hạ thấp mực nước và gia tăng xâm nhập mặn để chủ động triển khai các giải pháp thích ứng phù hợp. Song song với đó, kết hợp với việc bố trí ngân sách địa phương để triển khai thực hiện các giải pháp phòng, chống. Đặc biệt ưu tiên bố trí kinh phí để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp công trình phục vụ kiểm soát nguồn nước, cấp nước sinh hoạt tập trung, công trình lấy nước ven sông và hồ chứa nước ngọt. Bên cạnh đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính còn nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của từng Bộ, ngành, địa phương có liên quan. Xem chi tiết tại Chỉ thị 11/CT-TTg. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/02/chi-thi-01.pdf Chỉ thị 11/CT-TTg.
Thủ tướng chỉ đạo bãi bỏ các loại chứng chỉ không cần thiết, thu gọn các chứng chỉ trùng nội dung
Ngày 18/03/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính - Trưởng ban Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ vừa ký Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ban Chỉ đạo này. Đặc biệt, trong đó có đề cập đến việc bãi bỏ các chứng chỉ không cần thiết, cụ thể như sau. (1) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và cải cách thủ tục hành chính Đề cập trong Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, Ngành phối hợp rà soát, báo cáo phương án tổng thể cắt giảm, đơn giản hóa các quy định kinh doanh hiện đang là rào cản, kìm hãm sự phát triển, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Trong đó tập trung ưu tiên rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa giấy phép liên quan đến hoạt động kinh doanh. Chủ động nghiên cứu, rà soát, kiến nghị đưa ra khỏi danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đối với những ngành nghề có thể áp dụng biện pháp quản lý khác hiệu quả hơn. Đối với các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không khả thi, không rõ ràng, khó xác định, không phù hợp thực tiễn phải thực hiện rà soát và kiến nghị bãi bỏ. Đối với các loại chứng chỉ, thực hiện bãi bỏ những trường hợp không cần thiết, đồng thời thu gọn các loại chứng chỉ hiện đang trùng lặp về nội dung. Các quy định liên quan đến kinh doanh, kết quả rà soát, chi phí tuân thủ, phương án cắt giảm, đơn giản hóa phải được cập nhật đầy đủ, chính xác và công khai kịp thời. Đồng thời, phải thực hiện tham vấn các tổ chức, cá nhân, đối tượng chịu tác động về chính sách, quy định. Qua đó, tiếp nhận, tổng hợp, tiếp thu, giải trình, phản hồi, cập nhật kết quả xử lý đối với ý kiến góp ý, vướng mắc, đề xuất của tổ chức, cá nhân về chính sách, quy định thuộc phạm vi chức năng quản lý và công khai trên cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh. Cuối cùng, Thủ tướng chỉ đạo các bộ, cơ quan có trách nhiệm rà soát, điều chỉnh, thống nhất phương án đơn giản hóa, lộ trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư đã giao tại các Nghị quyết chuyên đề giai đoạn 2017 - 2018 nhằm bảo đảm phù hợp với hiện trạng kết nối, quản lý, khai thác dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Qua đó, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành để tổ chức thực thi phương án đơn giản hóa quy định thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư trong năm 2024. (2) Sớm phát hiện và có biện pháp khắc phục các quy định pháp luật chồng chéo, bất cập Cụ thể, theo Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC, việc xây dựng thể chế, chính sách, các bộ, ngành, địa phương nâng cao chất lượng thẩm định, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm đồng bộ, khả thi; ban hành kịp thời các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết; tăng cường nguồn lực và kinh phí cho công tác tư pháp. Đồng thời, ưu tiên nguồn lực cho công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ khung khổ pháp lý thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đối với các quy định pháp luật chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn, gây khó khăn, kìm hãm sự phát triển phải nhanh chóng rà soát, sớm phát hiện và có biện pháp khắc phục. Đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật cũng là một trong những nội dung chỉ đạo của Quyết định 42/QĐ-BCĐCCHC. Qua đó, tập trung vào các lĩnh vực được xác định là trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội của năm 2024, phù hợp với nhiệm vụ chung của cả giai đoạn 2021 - 2025. Thực hiện tốt Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2024. Tiếp tục thực hiện hiệu quả, thực chất các giải pháp nhằm nâng cao điểm số và nâng xếp hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số Bl). Bên cạnh đó, phải tiến hành thực hiện có hiệu quả Đề án "Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022 - 2027" được ban hành kèm theo Quyết định 407/QĐ-TTg. Cuối cùng là nghiên cứu, xây dựng chế độ, chính sách đặc thù cho người làm công tác thể chế. (3) Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính Theo chỉ đạo của Thủ tướng, việc cải cách chế độ công vụ, các bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục triển khai các giải pháp nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, chất lượng thực thi công vụ và cải thiện chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp; kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính, bảo đảm sự nghiêm minh trong thực thi pháp luật và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Đồng thời, Quyết định cũng đề cập đến việc yêu cầu Bộ Nội vụ hoàn thiện trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp phó tại Nghị định 101/2020/NĐ-CP, Nghị định 120/2020/NĐ-CP và Nghị định về chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng vào cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Theo Báo điện tử Chính phủ
Công điện 18/CĐ-TTg: Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay
Ngày 05/03/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính ký ban hành Công điện 18/CĐ-TTg về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Trong đó có đề cập đến việc tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Cụ thể về nội dung của Công điện như sau. Công điện nêu rõ năm 2024 là năm đóng vai trò then chốt trong việc hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực dự báo còn nhiều biến động khó lường, cùng với ảnh hưởng dai dẳng của đại dịch COVID-19. Đối với tình hình trong nước, tuy có những cơ hội và thuận lợi đan xen, nhưng khó khăn, thách thức vẫn chiếm ưu thế. Đặc biệt là áp lực lạm phát cao, hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số ngành còn gặp nhiều trở ngại. Mặt bằng lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng chưa tương xứng với mức giảm của lãi suất huy động, dẫn đến tăng trưởng tín dụng 02 tháng đầu năm 2024 thấp hơn so với cuối năm 2023. Nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đưa ra yêu cầu: (1) Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan Khẩn trương rà soát toàn diện kết quả cấp tín dụng: - Đánh giá hiệu quả cấp tín dụng cho từng ngành, lĩnh vực và từng tổ chức tín dụng. - Dựa trên kết quả rà soát này, xây dựng những đề xuất, biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng và lãi suất năm 2024 hiệu quả, khả thi và kịp thời. - Đảm bảo cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, đồng thời bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng ách tắc, chậm trễ hay không đúng thời điểm. - Trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, phải thực hiện báo cáo ngay cho cấp có thẩm quyền theo quy định. Đồng thời, phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành chính sách tiền tệ và tăng trưởng tín dụng. Theo dõi sát diễn biến kinh tế và điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt: - Phân tích tình hình kinh tế thế giới và trong nước để đưa ra các biện pháp điều hành kịp thời và hiệu quả. - Điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt, hài hòa, hợp lý, bảo đảm diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ thực hiện theo đúng nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP. Trong đó, ưu tiên việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. - Đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng để có thể thực hiện được các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã đề ra trong năm 2024. Giảm mặt bằng lãi suất cho vay và tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng: - Thực hiện các giải pháp để giảm lãi suất cho vay. - Tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho người dân và doanh nghiệp. - Đảm bảo cung cấp đủ vốn tín dụng, ngoại tệ lành mạnh cho các nhu cầu chính đáng của nền kinh tế. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng: - Tập trung dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, quan trọng và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế. - Nghiêm cấm việc cấp tín dụng sai quy định, không đúng đối tượng, việc cấp tín dụng cho ban lãnh đạo, ban điều hành và người có liên quan của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp thuộc hệ sinh thái, doanh nghiệp sân sau… với lãi suất ưu đãi trong khi người dân, doanh nghiệp có nhu cầu chính đáng, hợp pháp lại gặp khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng, ngoại tệ. - Thực hiện các công cụ kiểm soát lạm phát và giảm thiểu nợ xấu cho các tổ chức tín dụng. (2) Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các tổ chức tín dụng thực hiện Giảm mặt bằng lãi suất cho vay: - Theo đó, Công điện nêu rõ việc bám sát chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay (tiết giảm chi phí; đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số…). - Đồng thời phải công khai lãi suất cho vay bình quân để người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận tín dụng và lựa chọn ngân hàng phù hợp. - Triển khai hiệu quả các gói tín dụng ưu đãi cho các lĩnh vực quan trọng và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ. - Phát huy vai trò tiên phong của các tổ chức tín dụng kinh doanh hiệu quả và các tổ chức tín dụng nhà nước. - Tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh doanh trong việc chia sẻ, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Hướng nguồn vốn tín dụng hiệu quả: - Tiếp tục ưu tiên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng truyền thống như tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, chuyển đổi số, chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. - Đồng thời, kết hợp kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn và hiệu quả. Tăng cường công tác thông tin truyền thông: trong việc hướng dẫn khách hàng và đối tượng thụ hưởng tiếp cận chính sách. Công tác truyền thông phải rõ ràng, đầy đủ, minh bạch và chính xác về các chính sách, sản phẩm, dịch vụ tín dụng, ngoại hối đến công chúng. Ngoài ra, tại Công điện cũng nêu rõ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái được giao nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc xử lý theo thẩm quyền. Văn phòng Chính phủ có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, thẩm quyền được giao và báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền.