Từ 24 - 29/6, thông qua hàng loạt dự án Luật và Nghị quyết quan trọng
Dự kiến trong tuần làm việc cuối cùng (ngày 24 - 29/6) của Kỳ họp thứ 7, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua nhiều dự án Luật, Nghị quyết quan trọng. (1) Biểu quyết thông qua 10 dự án Luật Cụ thể, ngày 15/4/2024, tại phiên họp thứ 32, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Nghị quyết 45/2024/UBTVQH15. Theo đó, với việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật pháp lệnh năm 2024 thì tại tuần làm việc cuối cùng này (24 - 29/6), Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua 10 dự án Luật bao gồm: - Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi). - Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). - Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. - Luật Đường bộ. - Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ. - Luật Thủ đô (sửa đổi). - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản. - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ. - Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi). - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2014, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Các tổ chức tín dụng 2024. (2) Biểu quyết thông qua 07 Nghị quyết Đối với Nghị quyết, tại tuần họp cuối cùng, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua nhiều Nghị quyết quan trọng như sau: - Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2022. - Nghị quyết phê chuẩn văn kiện gia nhập Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) của Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. - Nghị quyết về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An. - Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 119/2020/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. - Nghị quyết về Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. - Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) - Chơn Thành (Bình Phước). - Nghị quyết về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023”. (3) Thảo luận, xem xét một số nội dung khác Bên cạnh những dự án Luật, Nghị quyết sẽ được biểu quyết thông qua như đã có nêu tại mục (1) và (2), trong tuần làm việc cuối, Quốc hội sẽ thảo luận thêm về 09 dự án Luật bao gồm: - Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi). - Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). - Luật Công chứng (sửa đổi). - Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược. - Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. - Luật Phòng không nhân dân. - Luật Quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn. - Luật Địa chất và khoáng sản. Ngoài ra, theo chương trình nghị sự, từ 11 giờ sáng 25/6 và chiều cùng ngày, Quốc hội sẽ họp riêng để xem xét, quyết định nội dung thuộc thẩm quyền. Dự kiến Phiên bế mạc Kỳ họp thứ 7 sẽ diễn ra vào sáng 29/6. Tại đây, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua các nội dung như: - Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn. - Nghị quyết Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV (trong đó có nội dung về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và giảm thuế giá trị gia tăng) Cuối cùng, Chủ tịch Quốc hội sẽ phát biểu bế mạc kỳ họp.
Thông qua Nghị quyết giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn về mức sàn
Sáng 6/7, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên bất thường đã xem xét, thông qua Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn với 100% thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần quy định hiệu lực thi hành sớm nhất có thể Tại phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày Tờ trình của Chính phủ và Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường trình bày Báo cáo thẩm tra về dự án Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn. Theo đó, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhóm xăng, dầu, mỡ nhờn xuống mức sàn trong khung thuế đến hết ngày 31/12/2022 như sau: Xăng: Giảm từ 2.000 đồng/lít xuống mức sàn 1.000 đồng/lít; Nhiên liệu bay: Giảm từ 1.500 đồng/lít xuống mức sàn 1.000 đồng/lít; Dầu diesel: Giảm từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 500 đồng/lít; Dầu mazut, dầu nhờn: Giảm từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 300 đồng/lít; Mỡ nhờn: Giảm từ 1.000 đồng/kg xuống mức sàn 300 đồng/kg; Dầu hỏa: Giữ mức 300 đồng/lít vì đây là mức sàn trong khung mức thuế. Từ ngày 01/01/2023, mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Phát biểu tại phiên họp, nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho rằng việc tiếp tục trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét để điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường về mức sàn trong biểu khung thuế bảo vệ môi trường theo Luật Thuế bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết nhằm góp phần bình ổn và tiếp tục giảm mức tăng giá xăng, dầu trong nước trước bối cảnh biến động của tình hình giá xăng, dầu thế giới, góp phần vào thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cũng như giải quyết khó khăn cho đời sống người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cũng cho rằng nếu nội dung này được trình xem xét quyết định sớm hơn sẽ tốt hơn nữa. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho biết, việc ban hành nghị quyết này là phù hợp với thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và việc xem xét quyết định theo trình tự thủ tục rút gọn là phù hợp với quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp cấp bách để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Nhất trí với các mức giảm mà Chính phủ đề xuất, bởi vì đây là kịch khung trong thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không thể giảm thêm được nữa, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cũng đề nghị có thêm đánh giá tác động của việc giảm thuế bảo vệ môi trường đến việc giảm giá xăng dầu trên thực tế. Bởi tỷ trọng thuế trong giá xăng dầu so với các nước là thấp. Cho nên tác động của việc giảm thuế chưa chắc đã tác động lớn đến giảm giá. Ngoài ra, tác động đến ngân sách nhà nước cũng cần được xem xét. Liên quan đến hiệu lực của Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho rằng Nghị quyết này có hiệu lực càng sớm càng tốt để có thể hỗ trợ ngay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, cũng phụ thuộc vào điều hành nữa của Chính phủ. Do đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị nếu kỳ điều hành giá xăng dầu tiếp theo sớm hơn ngày 15/7 thì có thể lấy mốc có hiệu lực của Nghị quyết từ kỳ điều hành tiếp theo; nếu kỳ điều hành giá của Chính phủ sau ngày 15/7 thì lấy ngày có hiệu lực của Nghị quyết là từ ngày 15/7. Có cùng quan điểm về việc Nghị quyết này cần sớm có hiệu lực thi hành, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường khẳng định, cần thiết phải giảm thuế xăng, dầu để góp phần vào việc giảm giá xăng, dầu, hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp và cho rằng để bảo đảm kịp thời thì nên quy định Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 10/7/2022. Theo Quốc Hội
Tỷ lệ biểu quyết thông qua Nghị quyết sửa đổi Điều lệ công ty
Vấn đề đặt ra ở đây là việc biểu quyết thông qua sửa đổi điều lệ công ty cổ phần có nhất thiết phải đủ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên không? Tại Khoản 6 điều 148 Luật Doanh nghiệp thì khi công ty sửa đổi điều lệ liên quan đến phân phối các quỹ và chia cổ tức thì biểu quyết thông qua có nhất thiết 65% không? Theo đó, các nội dung liên quan được quy định như sau: Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông Theo quy định tại Điều 145 Luật Doanh nghiệp 2020 có nêu: "Điều 145. Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông 1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. 2. Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thông báo mời họp lần thứ hai phải được gửi trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất, nếu Điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở lên; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. 3. Trường hợp cuộc họp lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại khoản 2 Điều này thì thông báo mời họp lần thứ ba phải được gửi trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày dự định họp lần thứ hai, nếu Điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần thứ ba được tiến hành không phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp. 4. Chỉ có Đại hội đồng cổ đông mới có quyền quyết định thay đổi chương trình họp đã được gửi kèm theo thông báo mời họp theo quy định tại Điều 142 của Luật này." Căn cứ theo quy định nêu trên, điều kiện để tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông là khi có số cổ đông dự họp đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết tham gia, cụ thể theo Điều lệ công ty. Nếu lần triệu tập đầu tiên không đáp ứng tỉ lệ nêu trên thì sẽ áp dụng theo Khoản 2 và Khoản 3. Cụ thể tại lần hai sẽ yêu cầu có số cổ đông dự họp đại diện từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở lên, tùy theo điều lệ, lần thứ ba thì không phụ thuộc tổng số phiếu biểu quyết. Điều kiện thông qua Nghị quyết sửa đổi điều lệ công ty Liên quan vấn đề này, tại Khoản 1 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020 được sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 7 Luật số 03/2022/QH15 có nêu: Điều 7. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp ... 5. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 ... Điều 148 như sau: “1. Nghị quyết về nội dung sau đây được thông qua nếu được số cổ đông đại diện từ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3, 4 và 6 Điều này; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định: a) Loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại; b) Thay đổi ngành, nghề và lĩnh vực kinh doanh; c) Thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý công ty; d) Dự án đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác; đ) Tổ chức lại, giải thể công ty; e) Vấn đề khác do Điều lệ công ty quy định." Theo đó, nếu Điều lệ công ty không quy định trường hợp phân phối các quỹ và chia cổ tức thì Nghị quyết về việc sửa đổi Điều lệ liên quan đến phân phối các quỹ và chia cổ tức không thuộc trường hợp phải áp dụng tỉ lệ tối thiểu 65% mà áp dụng các Khoản còn lại của Điều 148 (Khoản 2). Trường hợp nếu Điều lệ công ty có quy định về trường hợp sửa đổi Điều lệ của anh chị, mà việc biểu quyết thông qua nghị quyết dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông sở hữu trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông có quyền biểu quyết tán thành; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định (Theo Khoản 4 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020). Còn Khoản 6 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020 áp dụng đối với trường hợp việc điều chỉnh làm ảnh hưởng đến cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi mà không điều chỉnh cho cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông. Nếu công ty chỉ có cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông thì không cần quan tâm Khoản này. Nếu công ty có cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi, việc chỉnh làm thay đổi bất lợi quyền và nghĩa vụ của họ thì phải áp dụng theo tỉ lệ tại Khoản 6 Điều này.
Quốc hội thông qua Nghị quyết về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai
Chiều 26/6, với 92,11% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Ảnh: Văn Bình Nghị quyết gồm 4 điều, đưa ra các nhiệm vụ, biện pháp cụ thể để tạo chuyển biến căn bản, không để xảy ra oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao sự cố gắng, tích cực của Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân các cấp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; về cơ bản đã bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra một số vụ oan, sai, có vụ nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận; có một số trường hợp còn chậm bồi thường cho người bị thiệt hại. So với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì việc phòng, chống oan, sai còn hạn chế, bất cập. Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện tốt một số nhiệm vụ, biện pháp cụ thể. Thứ nhất, Chỉ đạo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án các cấp tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội về công tác tư pháp, các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và tranh tụng trong xét xử; chấp hành nghiêm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự. Khi đã xác định có oan, sai thì phải kịp thời minh oan cho người bị oan, bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định pháp luật; xử lý nghiêm minh và xem xét trách nhiệm hoàn trả theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với người mắc sai phạm; xử lý trách nhiệm liên đới của người đứng đầu cơ quan gây nên oan, sai, để xảy ra bức cung, dùng nhục hình. Thứ hai, Chỉ đạo Cơ quan điều tra các cấp chủ động, tích cực điều tra, khám phá kịp thời các loại tội phạm; áp dụng các biện pháp ngăn chặn chính xác để giảm tối đa các trường hợp bắt, tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính; không để xảy ra bức cung, dùng nhục hình; không để xảy ra các trường hợp chết do tự sát, chết do can phạm đánh nhau tại cơ sở giam giữ và làm rõ trách nhiệm của cán bộ trực tiếp quản lý và người đứng đầu cơ sở này. Quá trình điều tra, lập hồ sơ vụ án phải tuân thủ đúng pháp luật, thu thập, đánh giá đầy đủ, khách quan các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội để xác định đúng sự thật vụ án; khắc phục việc làm oan người vô tội do hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; chấn chỉnh việc đình chỉ điều tra không đúng pháp luật để tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia các vụ án theo quy định pháp luật. Chỉ đạo các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện nghiêm thẩm quyền tố tụng do luật định; khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm do hành chính hóa các quan hệ hình sự, nâng cao chất lượng điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền, bảo đảm không để xảy ra oan, sai. Bộ Công an sớm hoàn thiện, ban hành hướng dẫn cụ thể về quy trình điều tra các loại án, về khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nhất là đối với các vụ án giết người, hiếp dâm không quả tang; tiếp tục triển khai có hiệu quả các biện pháp chống bức cung, dùng nhục hình. Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, cần giao cho Cơ quan điều tra Bộ Công an thụ lý, giải quyết các vụ án mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án có hiệu lực pháp luật kết án bị cáo hình phạt chung thân hoặc tử hình để điều tra lại. Thứ ba, Chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về thực hành quyền công tố gắn với hoạt động điều tra và kiểm sát hoạt động tư pháp; phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền điều tra trong xử lý tội phạm; bảo đảm việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra oan, sai; khắc phục tình trạng buông lỏng trách nhiệm, thống nhất một chiều với Cơ quan điều tra trong phân loại, xử lý vụ án; chấn chỉnh việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án không đúng pháp luật; tăng cường trách nhiệm công tố, tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự; kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là đơn kêu oan, đơn tố cáo bức cung, nhục hình. Thứ tư, Chỉ đạo Tòa án các cấp thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về quyền tư pháp và nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo đảm tranh tụng trong xét xử, tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm các bản án, quyết định hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra trường hợp kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm; kiên quyết tuyên bị cáo vô tội trong trường hợp không có căn cứ kết tội; chấn chỉnh, khắc phục việc xử phạt bị cáo quá nặng hoặc quá nhẹ, cho bị cáo hưởng án treo không đúng pháp luật, nhất là đối với các bị cáo phạm tội về kinh tế, chức vụ, tham nhũng. Tòa án nhân dân tối cao tăng cường tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an tiếp tục rà soát, xem xét, giải quyết dứt điểm các đơn khiếu nại kêu oan, nhất là đơn kêu oan của các bị án có mức hình phạt tù 20 năm, tù chung thân, tử hình; nếu có căn cứ pháp luật thì phải xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật, bảo đảm không oan, sai. Thứ năm, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao theo chức năng, nhiệm vụ của mình chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền sớm kết thúc điều tra, đưa ra truy tố, xét xử lại đối với các vụ án mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy bản án có hiệu lực pháp luật để điều tra lại; khẩn trương giải quyết các vụ án đã quá hạn luật định, xử lý dứt điểm những vụ án đã kéo dài trên 05 năm và một số vụ án khác dư luận cử tri quan tâm; minh oan và giải quyết bồi thường kịp thời cho người bị oan đã có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại; có giải pháp hiệu quả tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trách nhiệm công vụ cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán; kiên quyết loại bỏ khỏi bộ máy những cán bộ yếu kém về đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ; xem xét, điều chuyển biên chế phù hợp cho các địa phương xảy ra nhiều án, tránh áp lực quá nhiều công việc dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Các đại biểu thông qua Nghị quyết Ảnh: Văn Bình Thứ sáu, Liên Đoàn luật sư Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong việc đào tạo, phát triển nhanh đội ngũ luật sư, nâng cao tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của luật sư; giám sát Luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện tốt trách nhiệm bào chữa, cung cấp dịch vụ pháp lý, nhất là đối với những trường hợp bào chữa chỉ định theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tố tụng. Thứ bảy, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành chức năng tăng cường công tác quản lý, đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng công tác giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, giám định tài chính, ngân hàng, xây dựng, giao thông… đồng thời sớm hoàn thiện, ban hành quy trình, quy chuẩn giám định trong các lĩnh vực này, tạo cơ sở tin cậy cho cơ quan tố tụng xem xét, quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thứ tám, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các bộ, ngành liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình khẩn trương rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự đã ban hành; chậm nhất đến tháng 12/2015 phải hoàn thành việc sửa đổi Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn về giám định “hàm lượng” các chất nghi là ma túy và Công văn số 234/TANDTC ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án các địa phương khi xét xử các vụ án về ma túy buộc phải có giám định “hàm lượng” các chất nghi là ma túy; Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNNPTNT ngày 02/11/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn về phạm vi các trường hợp được bồi thường thiệt hại, bảo đảm phù hợp với Bộ luật hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử; đề xuất với Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan để phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường kịp thời cho người bị thiệt hại. Cuối cùng, Chính phủ đầu tư kinh phí để nâng cấp trang thiết bị cho hoạt động điều tra, khám nghiệm hiện trường, giám định tư pháp, nhất là các thiết bị ghi âm, ghi hình để ghi nhận chứng cứ, chống bức cung, dùng nhục hình; có lộ trình, kế hoạch cụ thể để nâng cấp kịp thời các cơ sở giam giữ đã xuống cấp nghiêm trọng hoặc quá tải về giam giữ; tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp, trước hết tại các nơi vẫn đang phải thuê, mượn trụ sở làm việc. Đặng Mai Nguồn: quochoi.vn
Từ 24 - 29/6, thông qua hàng loạt dự án Luật và Nghị quyết quan trọng
Dự kiến trong tuần làm việc cuối cùng (ngày 24 - 29/6) của Kỳ họp thứ 7, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua nhiều dự án Luật, Nghị quyết quan trọng. (1) Biểu quyết thông qua 10 dự án Luật Cụ thể, ngày 15/4/2024, tại phiên họp thứ 32, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Nghị quyết 45/2024/UBTVQH15. Theo đó, với việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật pháp lệnh năm 2024 thì tại tuần làm việc cuối cùng này (24 - 29/6), Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua 10 dự án Luật bao gồm: - Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi). - Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). - Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. - Luật Đường bộ. - Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ. - Luật Thủ đô (sửa đổi). - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản. - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ. - Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi). - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2014, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Các tổ chức tín dụng 2024. (2) Biểu quyết thông qua 07 Nghị quyết Đối với Nghị quyết, tại tuần họp cuối cùng, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua nhiều Nghị quyết quan trọng như sau: - Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2022. - Nghị quyết phê chuẩn văn kiện gia nhập Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) của Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. - Nghị quyết về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An. - Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 119/2020/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. - Nghị quyết về Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. - Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) - Chơn Thành (Bình Phước). - Nghị quyết về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023”. (3) Thảo luận, xem xét một số nội dung khác Bên cạnh những dự án Luật, Nghị quyết sẽ được biểu quyết thông qua như đã có nêu tại mục (1) và (2), trong tuần làm việc cuối, Quốc hội sẽ thảo luận thêm về 09 dự án Luật bao gồm: - Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi). - Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). - Luật Công chứng (sửa đổi). - Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược. - Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. - Luật Phòng không nhân dân. - Luật Quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn. - Luật Địa chất và khoáng sản. Ngoài ra, theo chương trình nghị sự, từ 11 giờ sáng 25/6 và chiều cùng ngày, Quốc hội sẽ họp riêng để xem xét, quyết định nội dung thuộc thẩm quyền. Dự kiến Phiên bế mạc Kỳ họp thứ 7 sẽ diễn ra vào sáng 29/6. Tại đây, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua các nội dung như: - Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn. - Nghị quyết Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV (trong đó có nội dung về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và giảm thuế giá trị gia tăng) Cuối cùng, Chủ tịch Quốc hội sẽ phát biểu bế mạc kỳ họp.
Thông qua Nghị quyết giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn về mức sàn
Sáng 6/7, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên bất thường đã xem xét, thông qua Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn với 100% thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần quy định hiệu lực thi hành sớm nhất có thể Tại phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày Tờ trình của Chính phủ và Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường trình bày Báo cáo thẩm tra về dự án Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn. Theo đó, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhóm xăng, dầu, mỡ nhờn xuống mức sàn trong khung thuế đến hết ngày 31/12/2022 như sau: Xăng: Giảm từ 2.000 đồng/lít xuống mức sàn 1.000 đồng/lít; Nhiên liệu bay: Giảm từ 1.500 đồng/lít xuống mức sàn 1.000 đồng/lít; Dầu diesel: Giảm từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 500 đồng/lít; Dầu mazut, dầu nhờn: Giảm từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 300 đồng/lít; Mỡ nhờn: Giảm từ 1.000 đồng/kg xuống mức sàn 300 đồng/kg; Dầu hỏa: Giữ mức 300 đồng/lít vì đây là mức sàn trong khung mức thuế. Từ ngày 01/01/2023, mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Phát biểu tại phiên họp, nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho rằng việc tiếp tục trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét để điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường về mức sàn trong biểu khung thuế bảo vệ môi trường theo Luật Thuế bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết nhằm góp phần bình ổn và tiếp tục giảm mức tăng giá xăng, dầu trong nước trước bối cảnh biến động của tình hình giá xăng, dầu thế giới, góp phần vào thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cũng như giải quyết khó khăn cho đời sống người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cũng cho rằng nếu nội dung này được trình xem xét quyết định sớm hơn sẽ tốt hơn nữa. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho biết, việc ban hành nghị quyết này là phù hợp với thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và việc xem xét quyết định theo trình tự thủ tục rút gọn là phù hợp với quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp cấp bách để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Nhất trí với các mức giảm mà Chính phủ đề xuất, bởi vì đây là kịch khung trong thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không thể giảm thêm được nữa, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cũng đề nghị có thêm đánh giá tác động của việc giảm thuế bảo vệ môi trường đến việc giảm giá xăng dầu trên thực tế. Bởi tỷ trọng thuế trong giá xăng dầu so với các nước là thấp. Cho nên tác động của việc giảm thuế chưa chắc đã tác động lớn đến giảm giá. Ngoài ra, tác động đến ngân sách nhà nước cũng cần được xem xét. Liên quan đến hiệu lực của Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho rằng Nghị quyết này có hiệu lực càng sớm càng tốt để có thể hỗ trợ ngay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, cũng phụ thuộc vào điều hành nữa của Chính phủ. Do đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị nếu kỳ điều hành giá xăng dầu tiếp theo sớm hơn ngày 15/7 thì có thể lấy mốc có hiệu lực của Nghị quyết từ kỳ điều hành tiếp theo; nếu kỳ điều hành giá của Chính phủ sau ngày 15/7 thì lấy ngày có hiệu lực của Nghị quyết là từ ngày 15/7. Có cùng quan điểm về việc Nghị quyết này cần sớm có hiệu lực thi hành, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường khẳng định, cần thiết phải giảm thuế xăng, dầu để góp phần vào việc giảm giá xăng, dầu, hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp và cho rằng để bảo đảm kịp thời thì nên quy định Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 10/7/2022. Theo Quốc Hội
Tỷ lệ biểu quyết thông qua Nghị quyết sửa đổi Điều lệ công ty
Vấn đề đặt ra ở đây là việc biểu quyết thông qua sửa đổi điều lệ công ty cổ phần có nhất thiết phải đủ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên không? Tại Khoản 6 điều 148 Luật Doanh nghiệp thì khi công ty sửa đổi điều lệ liên quan đến phân phối các quỹ và chia cổ tức thì biểu quyết thông qua có nhất thiết 65% không? Theo đó, các nội dung liên quan được quy định như sau: Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông Theo quy định tại Điều 145 Luật Doanh nghiệp 2020 có nêu: "Điều 145. Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông 1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. 2. Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thông báo mời họp lần thứ hai phải được gửi trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất, nếu Điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở lên; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. 3. Trường hợp cuộc họp lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại khoản 2 Điều này thì thông báo mời họp lần thứ ba phải được gửi trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày dự định họp lần thứ hai, nếu Điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần thứ ba được tiến hành không phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp. 4. Chỉ có Đại hội đồng cổ đông mới có quyền quyết định thay đổi chương trình họp đã được gửi kèm theo thông báo mời họp theo quy định tại Điều 142 của Luật này." Căn cứ theo quy định nêu trên, điều kiện để tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông là khi có số cổ đông dự họp đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết tham gia, cụ thể theo Điều lệ công ty. Nếu lần triệu tập đầu tiên không đáp ứng tỉ lệ nêu trên thì sẽ áp dụng theo Khoản 2 và Khoản 3. Cụ thể tại lần hai sẽ yêu cầu có số cổ đông dự họp đại diện từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở lên, tùy theo điều lệ, lần thứ ba thì không phụ thuộc tổng số phiếu biểu quyết. Điều kiện thông qua Nghị quyết sửa đổi điều lệ công ty Liên quan vấn đề này, tại Khoản 1 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020 được sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 7 Luật số 03/2022/QH15 có nêu: Điều 7. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp ... 5. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 ... Điều 148 như sau: “1. Nghị quyết về nội dung sau đây được thông qua nếu được số cổ đông đại diện từ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3, 4 và 6 Điều này; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định: a) Loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại; b) Thay đổi ngành, nghề và lĩnh vực kinh doanh; c) Thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý công ty; d) Dự án đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác; đ) Tổ chức lại, giải thể công ty; e) Vấn đề khác do Điều lệ công ty quy định." Theo đó, nếu Điều lệ công ty không quy định trường hợp phân phối các quỹ và chia cổ tức thì Nghị quyết về việc sửa đổi Điều lệ liên quan đến phân phối các quỹ và chia cổ tức không thuộc trường hợp phải áp dụng tỉ lệ tối thiểu 65% mà áp dụng các Khoản còn lại của Điều 148 (Khoản 2). Trường hợp nếu Điều lệ công ty có quy định về trường hợp sửa đổi Điều lệ của anh chị, mà việc biểu quyết thông qua nghị quyết dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông sở hữu trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông có quyền biểu quyết tán thành; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định (Theo Khoản 4 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020). Còn Khoản 6 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020 áp dụng đối với trường hợp việc điều chỉnh làm ảnh hưởng đến cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi mà không điều chỉnh cho cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông. Nếu công ty chỉ có cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông thì không cần quan tâm Khoản này. Nếu công ty có cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi, việc chỉnh làm thay đổi bất lợi quyền và nghĩa vụ của họ thì phải áp dụng theo tỉ lệ tại Khoản 6 Điều này.
Quốc hội thông qua Nghị quyết về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai
Chiều 26/6, với 92,11% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Ảnh: Văn Bình Nghị quyết gồm 4 điều, đưa ra các nhiệm vụ, biện pháp cụ thể để tạo chuyển biến căn bản, không để xảy ra oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao sự cố gắng, tích cực của Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân các cấp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; về cơ bản đã bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra một số vụ oan, sai, có vụ nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận; có một số trường hợp còn chậm bồi thường cho người bị thiệt hại. So với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì việc phòng, chống oan, sai còn hạn chế, bất cập. Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện tốt một số nhiệm vụ, biện pháp cụ thể. Thứ nhất, Chỉ đạo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án các cấp tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội về công tác tư pháp, các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và tranh tụng trong xét xử; chấp hành nghiêm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự. Khi đã xác định có oan, sai thì phải kịp thời minh oan cho người bị oan, bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định pháp luật; xử lý nghiêm minh và xem xét trách nhiệm hoàn trả theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với người mắc sai phạm; xử lý trách nhiệm liên đới của người đứng đầu cơ quan gây nên oan, sai, để xảy ra bức cung, dùng nhục hình. Thứ hai, Chỉ đạo Cơ quan điều tra các cấp chủ động, tích cực điều tra, khám phá kịp thời các loại tội phạm; áp dụng các biện pháp ngăn chặn chính xác để giảm tối đa các trường hợp bắt, tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính; không để xảy ra bức cung, dùng nhục hình; không để xảy ra các trường hợp chết do tự sát, chết do can phạm đánh nhau tại cơ sở giam giữ và làm rõ trách nhiệm của cán bộ trực tiếp quản lý và người đứng đầu cơ sở này. Quá trình điều tra, lập hồ sơ vụ án phải tuân thủ đúng pháp luật, thu thập, đánh giá đầy đủ, khách quan các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội để xác định đúng sự thật vụ án; khắc phục việc làm oan người vô tội do hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; chấn chỉnh việc đình chỉ điều tra không đúng pháp luật để tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia các vụ án theo quy định pháp luật. Chỉ đạo các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện nghiêm thẩm quyền tố tụng do luật định; khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm do hành chính hóa các quan hệ hình sự, nâng cao chất lượng điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền, bảo đảm không để xảy ra oan, sai. Bộ Công an sớm hoàn thiện, ban hành hướng dẫn cụ thể về quy trình điều tra các loại án, về khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nhất là đối với các vụ án giết người, hiếp dâm không quả tang; tiếp tục triển khai có hiệu quả các biện pháp chống bức cung, dùng nhục hình. Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, cần giao cho Cơ quan điều tra Bộ Công an thụ lý, giải quyết các vụ án mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án có hiệu lực pháp luật kết án bị cáo hình phạt chung thân hoặc tử hình để điều tra lại. Thứ ba, Chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về thực hành quyền công tố gắn với hoạt động điều tra và kiểm sát hoạt động tư pháp; phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền điều tra trong xử lý tội phạm; bảo đảm việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra oan, sai; khắc phục tình trạng buông lỏng trách nhiệm, thống nhất một chiều với Cơ quan điều tra trong phân loại, xử lý vụ án; chấn chỉnh việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án không đúng pháp luật; tăng cường trách nhiệm công tố, tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự; kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là đơn kêu oan, đơn tố cáo bức cung, nhục hình. Thứ tư, Chỉ đạo Tòa án các cấp thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về quyền tư pháp và nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo đảm tranh tụng trong xét xử, tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm các bản án, quyết định hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra trường hợp kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm; kiên quyết tuyên bị cáo vô tội trong trường hợp không có căn cứ kết tội; chấn chỉnh, khắc phục việc xử phạt bị cáo quá nặng hoặc quá nhẹ, cho bị cáo hưởng án treo không đúng pháp luật, nhất là đối với các bị cáo phạm tội về kinh tế, chức vụ, tham nhũng. Tòa án nhân dân tối cao tăng cường tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an tiếp tục rà soát, xem xét, giải quyết dứt điểm các đơn khiếu nại kêu oan, nhất là đơn kêu oan của các bị án có mức hình phạt tù 20 năm, tù chung thân, tử hình; nếu có căn cứ pháp luật thì phải xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật, bảo đảm không oan, sai. Thứ năm, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao theo chức năng, nhiệm vụ của mình chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền sớm kết thúc điều tra, đưa ra truy tố, xét xử lại đối với các vụ án mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy bản án có hiệu lực pháp luật để điều tra lại; khẩn trương giải quyết các vụ án đã quá hạn luật định, xử lý dứt điểm những vụ án đã kéo dài trên 05 năm và một số vụ án khác dư luận cử tri quan tâm; minh oan và giải quyết bồi thường kịp thời cho người bị oan đã có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại; có giải pháp hiệu quả tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trách nhiệm công vụ cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán; kiên quyết loại bỏ khỏi bộ máy những cán bộ yếu kém về đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ; xem xét, điều chuyển biên chế phù hợp cho các địa phương xảy ra nhiều án, tránh áp lực quá nhiều công việc dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Các đại biểu thông qua Nghị quyết Ảnh: Văn Bình Thứ sáu, Liên Đoàn luật sư Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong việc đào tạo, phát triển nhanh đội ngũ luật sư, nâng cao tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của luật sư; giám sát Luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện tốt trách nhiệm bào chữa, cung cấp dịch vụ pháp lý, nhất là đối với những trường hợp bào chữa chỉ định theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tố tụng. Thứ bảy, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành chức năng tăng cường công tác quản lý, đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng công tác giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, giám định tài chính, ngân hàng, xây dựng, giao thông… đồng thời sớm hoàn thiện, ban hành quy trình, quy chuẩn giám định trong các lĩnh vực này, tạo cơ sở tin cậy cho cơ quan tố tụng xem xét, quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thứ tám, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các bộ, ngành liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình khẩn trương rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự đã ban hành; chậm nhất đến tháng 12/2015 phải hoàn thành việc sửa đổi Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn về giám định “hàm lượng” các chất nghi là ma túy và Công văn số 234/TANDTC ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án các địa phương khi xét xử các vụ án về ma túy buộc phải có giám định “hàm lượng” các chất nghi là ma túy; Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNNPTNT ngày 02/11/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn về phạm vi các trường hợp được bồi thường thiệt hại, bảo đảm phù hợp với Bộ luật hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử; đề xuất với Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan để phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường kịp thời cho người bị thiệt hại. Cuối cùng, Chính phủ đầu tư kinh phí để nâng cấp trang thiết bị cho hoạt động điều tra, khám nghiệm hiện trường, giám định tư pháp, nhất là các thiết bị ghi âm, ghi hình để ghi nhận chứng cứ, chống bức cung, dùng nhục hình; có lộ trình, kế hoạch cụ thể để nâng cấp kịp thời các cơ sở giam giữ đã xuống cấp nghiêm trọng hoặc quá tải về giam giữ; tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp, trước hết tại các nơi vẫn đang phải thuê, mượn trụ sở làm việc. Đặng Mai Nguồn: quochoi.vn