Thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất
Thủ tục giải quyết khiếu nại là một quy định bắt buộc các cơ quan nhà nước và người khiếu nại phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc Về trình tự khiếu nại Theo quy định tại Điều 7 Luật Khiếu nại 2011 đã nêu rất cụ thể về trình tự khiếu nại theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại trong việc lựa chọn các hình thức giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Công dân có quyền lựa chọn các hình thức khiếu kiện của mình theo trình tự hành chính hoặc trình tự tố tụng ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình khiếu nại; các quy định về hình thức khiếu nại, thời hiệu khiếu nại và thủ tục rút đơn khiếu nại cơ bản đồng bộ, thống nhất tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền khiếu nại, vừa bảo đảm quyền tự sửa chữa sai sót của người đã ra quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Đồng thời, đơn giản hóa thủ tục giải quyết, giúp cho việc giải quyết khiếu nại hành chính nhanh chóng, kịp thời, tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch trong giải quyết khiếu nại hành chính đối với lĩnh bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Về hình thức khiếu nại Việc khiếu nại của người khiếu nại nói chung và người có đất bị thu hồi nói riêng được thực hiện theo hai hình thức, gửi đơn khiếu nại hoặc trực tiếp trình bày khiếu nại với cơ quan, người có thẩm quyền. Về thời hạn, thời hiệu Theo quy định tại Điều 27 Luật Khiếu nại 2011 thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và không thuộc một trong các trường hợp không được thụ lý, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết; trường hợp không thụ lý để giải quyết thì phải nêu rõ lý do. Căn cứ quy định tại Điều 9 Luật Khiếu nại 2011 thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính. Theo quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại năm 2011 thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý; đối với những vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Pháp luật khiếu nại quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý (bao gồm cả ngày nghỉ và ngày lễ). Trong thời gian này, người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ, triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại, trưng cầu giám định, kiểm tra xác minh, báo cáo kiến nghị hướng giải quyết. Thời hạn này là quá ngắn đối với giải quyết khiếu nại lần đầu khi nhà nước thu hồi đất, nhất là các vụ việc phức tạp, hồ sơ nguồn gốc đất không rõ ràng, các dữ liệu địa chính không còn hoặc không tương thích, phải áp dụng nhiều loại văn bản pháp luật khác nhau để giải quyết... Điều này dẫn đến thực trạng chủ thể có thẩm quyền phải lựa chọn là giải quyết cẩu thả nhằm bảo đảm tuân thủ thời hạn, hoặc bất chấp thời hạn vi phạm pháp luật khiếu nại để đáp ứng nhu cầu giải quyết khiếu nại một cách chính xác, đúng đắn khi giải quyết các vụ việc khiếu nại đối với trường hợp thu hồi đất.
Thu hồi đất hộ gia đình khi còn đất chưa sử dụng
Hiện ở địa phương mình đang có trường hợp là cơ quan nhà nước cho xây trường Mẫu giáo ngay cạnh nhà một hộ gia đình và có thông báo thu hồi đất của hộ đó (đất ở, đất vườn, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để xây dựng trường. Trong khi đó quỹ đất chung quanh trường để trống, rất rộng, thừa để làm khuôn viên trường, lại gần đường bê-tông. Vậy: 1. Đây là hành vi lợi dụng việc xây dựng trường để hợp pháp hóa việc thu hồi đất? Đất thừa còn lại của gia đình sẽ dùng vào việc phân lô bán nền để mở rộng khu dân cư. 2. Hộ gia đình không đồng ý với Thông báo thu hồi đất (mặc dù đã chấp nhận kiểm đếm) như vậy có phải vi phạm Luật Đất đai khi nhà nước thu hồi đất không? Và họ cần làm gì để bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình? Theo mình tìm hiểu thì tại Luật Đất đai 2013 có nêu: Điều 63. Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng Việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng phải dựa trên các căn cứ sau đây: 1. Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này; 2. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; 3. Tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án. Theo đó, việc thu hồi đất sẽ căn cứ vào các yếu tố tại Điều 63 nêu trên chứ không phải chỉ dựa vào thực trạng. Có nghĩa là dù đất xung quanh còn trống nhưng nếu kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã duyệt nêu rõ phần đất của hộ gia đình được sử dụng vào giáo dục còn phần đất trống kia làm mục đích khác thì việc thu hồi đất của hộ gia đình trên là hoàn toàn hợp lý. Việc có lợi dụng hay không thì đây là vấn đề thực tế chứ không có cơ sở để xác định chính xác Khi đã có Thông báo thu hồi đất và Quyết định thu hồi đất rõ ràng, cụ thể thì buộc lòng hộ gia đình phải chấp hành theo, nếu không thực hiện bàn giao thì sẽ bị cơ quan quản lý nhà nước tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. Đứng trên phương diện của hộ gia đình đó, nếu họ cảm thấy việc thu hồi đất là không phù hợp, không chính đáng, vi phạm quy định thì có thể khiếu nại quyết định thu hồi đất đến thủ trưởng cơ quan ban hành quyết định đó. Lúc này bên tiếp nhận sẽ tiến hành giải quyết khiếu nại theo trình tự, thủ tục của Luật Khiếu nại. Mọi người có cách nào khác để bảo vệ quyền lợi của hộ gia đình đó hay không?
Diện tích đất thu hồi thực tế khác trên giấy tờ, bồi thường như thế nào?
Khi đất bị Nhà nước thu hồi, tùy từng trường hợp mà người sử dụng đất sẽ được xem xét bồi thường diện tích đất thu hồi. Tuy nhiên, không phải lúc nào diện tích đất đo đạc được trên thực tế cũng giống với giấy tờ về quyền sử dụng đất. Vậy, với những trường hợp diện tích đất thực tế khác với diện tích đất trên giấy tờ thì việc bồi thường được xử lý như thế nào? Hiện nay, vấn đề bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 12 Nghị định 47/2014/NĐ-CP như sau: Điều 12. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất Trường hợp thu hồi đất mà diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) thì được bồi thường theo quy định sau đây: 1. Nếu diện tích đo đạc thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. 2. Nếu diện tích đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất do việc đo đạc trước đây thiếu chính xác hoặc do khi kê khai đăng ký trước đây người sử dụng đất không kê khai hết diện tích nhưng toàn bộ ranh giới thửa đất đã được xác định là không thay đổi, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề, không do lấn, chiếm thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. 3. Nếu diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi có đất xác nhận diện tích nhiều hơn là do khai hoang hoặc nhận chuyển quyền của người sử dụng đất trước đó, đất đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp thì được bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. 4. Đối với phần diện tích đất nhiều hơn diện tích đất ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất mà diện tích đất nhiều hơn là do hành vi lấn, chiếm mà có thì không được bồi thường về đất. 5. Việc bồi thường về tài sản gắn liền với đất trong trường hợp đất thu hồi quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định này. Với quy định trên, chúng ta thấy rằng khi thu hồi đất mà diện tích thực tế khác so với diện tích được ghi nhận trong giấy tờ về quyền sử dụng đất thì tùy trường hợp sẽ có phương án bồi thường sẽ khác nhau: - Nếu diện tích đất nhiều hơn là do hành vi lấn, chiếm mà có thì không được bồi thường về đất. - Nếu diện tích đo đạc thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. - Nhà nước bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. Ngoài ra, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp này sẽ được bồi thường đầy đủ, không phụ thuộc vào diện tích đất được bồi thường. Nếu diện tích đo đạc thực tế lớn hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đât chứng minh được diện tích tăng lên: + Do việc đo đạc trước đây thiếu chính xác hoặc do khi kê khai đăng ký trước đây người sử dụng đất không kê khai hết diện tích nhưng toàn bộ ranh giới thửa đất đã được xác định là không thay đổi không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề, không do lấn, chiếm. + Diện tích đất nhiều hơn do khai hoang hoặc nhận chuyển quyền của người sử dụng đất trước đó, đất đã sử dụng ổn định, không có tranh chấp và được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận.
Cho em hỏi về việc thu hồi đất đai của gia đình
Xin chào mọi người, nhà em đang có vụ việc về việc thu hồi đất nông nghiệp mong được mọi người giúp đỡ. Nhà em có 2000 m2 đất nông nghiệp. Năm 2009, nhà em bị thu hồi 700m2 đất để thực hiện dự án A, được bồi thường tiền hỗ trợ chuyển nghề nghiệp và tạo việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp được bồi thường, được quy đổi ra bằng tối đa hạn mức giao đất tại địa phương (theo nghị định 69/2009/NĐ-CP và quyết định của UBND thành phố, UBND huyện). Cuối năm 2009, nhà em lại bị thu hồi 500m2 để thực hiện để thực hiện dự án cấp đất dịch vụ (cho các hộ mất đất ở dự án A) . Tuy nhiên không nhận được tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (lý do UBND huyện giải thích là ở dự án A đã nhận được hỗ trợ tối đa tức 150m2 nên không được nhận nữa). Năm 2010, nhà em bị thu hồi 200m2 nhưng lại nhận được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm. Năm 2017, bị thu hồi 300m2, vẫn nhận được tiền hỗ trợ và chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm. Vậy em xin hỏi anh(chị) giải thích của UBND huyện tại dự án khu đất dịch vụ có đúng hay không? (em không rõ quy định của pháp luật về trường hợp hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, liệu quyết định của UBND thành phố tức là chỉ được hỗ trợ một lần tối đa có đúng với quy định của pháp của luật hay không)
Thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất
Thủ tục giải quyết khiếu nại là một quy định bắt buộc các cơ quan nhà nước và người khiếu nại phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc Về trình tự khiếu nại Theo quy định tại Điều 7 Luật Khiếu nại 2011 đã nêu rất cụ thể về trình tự khiếu nại theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại trong việc lựa chọn các hình thức giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Công dân có quyền lựa chọn các hình thức khiếu kiện của mình theo trình tự hành chính hoặc trình tự tố tụng ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình khiếu nại; các quy định về hình thức khiếu nại, thời hiệu khiếu nại và thủ tục rút đơn khiếu nại cơ bản đồng bộ, thống nhất tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền khiếu nại, vừa bảo đảm quyền tự sửa chữa sai sót của người đã ra quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Đồng thời, đơn giản hóa thủ tục giải quyết, giúp cho việc giải quyết khiếu nại hành chính nhanh chóng, kịp thời, tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch trong giải quyết khiếu nại hành chính đối với lĩnh bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Về hình thức khiếu nại Việc khiếu nại của người khiếu nại nói chung và người có đất bị thu hồi nói riêng được thực hiện theo hai hình thức, gửi đơn khiếu nại hoặc trực tiếp trình bày khiếu nại với cơ quan, người có thẩm quyền. Về thời hạn, thời hiệu Theo quy định tại Điều 27 Luật Khiếu nại 2011 thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và không thuộc một trong các trường hợp không được thụ lý, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết; trường hợp không thụ lý để giải quyết thì phải nêu rõ lý do. Căn cứ quy định tại Điều 9 Luật Khiếu nại 2011 thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính. Theo quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại năm 2011 thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý; đối với những vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Pháp luật khiếu nại quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý (bao gồm cả ngày nghỉ và ngày lễ). Trong thời gian này, người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ, triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại, trưng cầu giám định, kiểm tra xác minh, báo cáo kiến nghị hướng giải quyết. Thời hạn này là quá ngắn đối với giải quyết khiếu nại lần đầu khi nhà nước thu hồi đất, nhất là các vụ việc phức tạp, hồ sơ nguồn gốc đất không rõ ràng, các dữ liệu địa chính không còn hoặc không tương thích, phải áp dụng nhiều loại văn bản pháp luật khác nhau để giải quyết... Điều này dẫn đến thực trạng chủ thể có thẩm quyền phải lựa chọn là giải quyết cẩu thả nhằm bảo đảm tuân thủ thời hạn, hoặc bất chấp thời hạn vi phạm pháp luật khiếu nại để đáp ứng nhu cầu giải quyết khiếu nại một cách chính xác, đúng đắn khi giải quyết các vụ việc khiếu nại đối với trường hợp thu hồi đất.
Thu hồi đất hộ gia đình khi còn đất chưa sử dụng
Hiện ở địa phương mình đang có trường hợp là cơ quan nhà nước cho xây trường Mẫu giáo ngay cạnh nhà một hộ gia đình và có thông báo thu hồi đất của hộ đó (đất ở, đất vườn, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để xây dựng trường. Trong khi đó quỹ đất chung quanh trường để trống, rất rộng, thừa để làm khuôn viên trường, lại gần đường bê-tông. Vậy: 1. Đây là hành vi lợi dụng việc xây dựng trường để hợp pháp hóa việc thu hồi đất? Đất thừa còn lại của gia đình sẽ dùng vào việc phân lô bán nền để mở rộng khu dân cư. 2. Hộ gia đình không đồng ý với Thông báo thu hồi đất (mặc dù đã chấp nhận kiểm đếm) như vậy có phải vi phạm Luật Đất đai khi nhà nước thu hồi đất không? Và họ cần làm gì để bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình? Theo mình tìm hiểu thì tại Luật Đất đai 2013 có nêu: Điều 63. Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng Việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng phải dựa trên các căn cứ sau đây: 1. Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này; 2. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; 3. Tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án. Theo đó, việc thu hồi đất sẽ căn cứ vào các yếu tố tại Điều 63 nêu trên chứ không phải chỉ dựa vào thực trạng. Có nghĩa là dù đất xung quanh còn trống nhưng nếu kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã duyệt nêu rõ phần đất của hộ gia đình được sử dụng vào giáo dục còn phần đất trống kia làm mục đích khác thì việc thu hồi đất của hộ gia đình trên là hoàn toàn hợp lý. Việc có lợi dụng hay không thì đây là vấn đề thực tế chứ không có cơ sở để xác định chính xác Khi đã có Thông báo thu hồi đất và Quyết định thu hồi đất rõ ràng, cụ thể thì buộc lòng hộ gia đình phải chấp hành theo, nếu không thực hiện bàn giao thì sẽ bị cơ quan quản lý nhà nước tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. Đứng trên phương diện của hộ gia đình đó, nếu họ cảm thấy việc thu hồi đất là không phù hợp, không chính đáng, vi phạm quy định thì có thể khiếu nại quyết định thu hồi đất đến thủ trưởng cơ quan ban hành quyết định đó. Lúc này bên tiếp nhận sẽ tiến hành giải quyết khiếu nại theo trình tự, thủ tục của Luật Khiếu nại. Mọi người có cách nào khác để bảo vệ quyền lợi của hộ gia đình đó hay không?
Diện tích đất thu hồi thực tế khác trên giấy tờ, bồi thường như thế nào?
Khi đất bị Nhà nước thu hồi, tùy từng trường hợp mà người sử dụng đất sẽ được xem xét bồi thường diện tích đất thu hồi. Tuy nhiên, không phải lúc nào diện tích đất đo đạc được trên thực tế cũng giống với giấy tờ về quyền sử dụng đất. Vậy, với những trường hợp diện tích đất thực tế khác với diện tích đất trên giấy tờ thì việc bồi thường được xử lý như thế nào? Hiện nay, vấn đề bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 12 Nghị định 47/2014/NĐ-CP như sau: Điều 12. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất Trường hợp thu hồi đất mà diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) thì được bồi thường theo quy định sau đây: 1. Nếu diện tích đo đạc thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. 2. Nếu diện tích đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất do việc đo đạc trước đây thiếu chính xác hoặc do khi kê khai đăng ký trước đây người sử dụng đất không kê khai hết diện tích nhưng toàn bộ ranh giới thửa đất đã được xác định là không thay đổi, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề, không do lấn, chiếm thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. 3. Nếu diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi có đất xác nhận diện tích nhiều hơn là do khai hoang hoặc nhận chuyển quyền của người sử dụng đất trước đó, đất đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp thì được bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. 4. Đối với phần diện tích đất nhiều hơn diện tích đất ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất mà diện tích đất nhiều hơn là do hành vi lấn, chiếm mà có thì không được bồi thường về đất. 5. Việc bồi thường về tài sản gắn liền với đất trong trường hợp đất thu hồi quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định này. Với quy định trên, chúng ta thấy rằng khi thu hồi đất mà diện tích thực tế khác so với diện tích được ghi nhận trong giấy tờ về quyền sử dụng đất thì tùy trường hợp sẽ có phương án bồi thường sẽ khác nhau: - Nếu diện tích đất nhiều hơn là do hành vi lấn, chiếm mà có thì không được bồi thường về đất. - Nếu diện tích đo đạc thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. - Nhà nước bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế. Ngoài ra, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp này sẽ được bồi thường đầy đủ, không phụ thuộc vào diện tích đất được bồi thường. Nếu diện tích đo đạc thực tế lớn hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đât chứng minh được diện tích tăng lên: + Do việc đo đạc trước đây thiếu chính xác hoặc do khi kê khai đăng ký trước đây người sử dụng đất không kê khai hết diện tích nhưng toàn bộ ranh giới thửa đất đã được xác định là không thay đổi không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề, không do lấn, chiếm. + Diện tích đất nhiều hơn do khai hoang hoặc nhận chuyển quyền của người sử dụng đất trước đó, đất đã sử dụng ổn định, không có tranh chấp và được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận.
Cho em hỏi về việc thu hồi đất đai của gia đình
Xin chào mọi người, nhà em đang có vụ việc về việc thu hồi đất nông nghiệp mong được mọi người giúp đỡ. Nhà em có 2000 m2 đất nông nghiệp. Năm 2009, nhà em bị thu hồi 700m2 đất để thực hiện dự án A, được bồi thường tiền hỗ trợ chuyển nghề nghiệp và tạo việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp được bồi thường, được quy đổi ra bằng tối đa hạn mức giao đất tại địa phương (theo nghị định 69/2009/NĐ-CP và quyết định của UBND thành phố, UBND huyện). Cuối năm 2009, nhà em lại bị thu hồi 500m2 để thực hiện để thực hiện dự án cấp đất dịch vụ (cho các hộ mất đất ở dự án A) . Tuy nhiên không nhận được tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (lý do UBND huyện giải thích là ở dự án A đã nhận được hỗ trợ tối đa tức 150m2 nên không được nhận nữa). Năm 2010, nhà em bị thu hồi 200m2 nhưng lại nhận được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm. Năm 2017, bị thu hồi 300m2, vẫn nhận được tiền hỗ trợ và chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm. Vậy em xin hỏi anh(chị) giải thích của UBND huyện tại dự án khu đất dịch vụ có đúng hay không? (em không rõ quy định của pháp luật về trường hợp hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, liệu quyết định của UBND thành phố tức là chỉ được hỗ trợ một lần tối đa có đúng với quy định của pháp của luật hay không)