Không tiếp tục chung sống, tài sản tạo lập khi "sống thử" chia như thế nào?
Khái niệm “sống thử’ trước hôn nhân cũng không còn xa lạ gì với một bộ phận người trẻ ngày nay. Vậy nếu có tài sản được tạo lập trong thời gian sống thử mà sau đó hai bên không tiếp tục chung sống thì được giải quyết như thế nào? Sống thử là gì? Sống thử dùng để chỉ hoạt động các cặp đôi chung sống với nhau như vợ chồng mà chưa thực hiện đăng ký kết hôn, chưa làm đám cưới hay thực hiện bất cứ thủ tục gì để được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, nếu hai bên cảm thấy phù hợp thì có thể tiến tới các bước tiếp theo để trở thành vợ chồng hợp pháp. Nếu không thể tiếp tục chung sống thì cũng không phải thực hiện thủ tục gì nếu như không có tranh chấp về tài sản chung. Sống thử có vi phạm pháp luật không? Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014, chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. Đồng thời, tại Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định cấm các hành vi có liên quan đến chung sống như vợ chồng sau: - Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Như vậy, ngoại trừ các hành vi bị cấm nêu trên, hiện nay pháp luật không quy định sống thử hay chung sống như vợ chồng là vi phạm pháp luật. Tài sản tạo lập khi sống thử được chia như thế nào? Theo Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: - Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. - Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: - Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Theo Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 quy định về phân chia tài sản chung như sau: - Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung: + Nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; + Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. - Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Như vậy, việc phân chia tài sản chung khi sống thử sẽ được thực hiện theo thỏa thuận của hai bên, tuy nhiên phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con (nếu có). Còn đối với trường hợp không tự thoả thuận được thì chia theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân sau khi sống thử Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014, trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn. Như vậy, dù cho trước khi đăng ký kết hôn, hai bên đã sống với nhau như vợ chồng nhưng khoảng thời gian này sẽ không được tính vào thời gian vợ chồng xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp. Thời gian pháp luật công nhận vợ chồng xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp với nhau là tính từ thời điểm đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, pháp luật vẫn có quy định các trường hợp ngoại lệ chung sống với nhau như vợ chồng vẫn được cho là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Xem cụ thể các trường hợp và quy định của pháp luật trong các trường hợp này tại Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.
Sống thử trước hôn nhân có vi phạm pháp luật không?
Việc sống thử diễn ra ở giới trẻ ngày càng phổ biến và dường như là một điều các bạn trẻ cho là hiển nhiên trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân. Vậy hiện nay có quy định nào về sống thử hay không? Sống thử có vi phạm pháp luật không? Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và các văn bản hướng dẫn không quy định khái niệm sống thử là gì? Trên thực tế, sống thử được hiểu là việc nam, nữ về sống chung với nhau như các cặp vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, không tổ chức hôn lễ. Việc sống thử diễn ra giữa những người đang độc thân dựa trên sự tự nguyện, nhằm tìm hiểu nhau kỹ hơn trước khi kết hôn. Pháp luật hiện hành không có quy định cấm 2 người trưởng thành chưa có vợ, chưa có chồng, không chung huyết thống sống chung với nhau. Việc sống thử mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng. Sống thử vừa có mặt tích cực, vừa có tiêu cực: Đối với bản thân người sống thử, đây là một cách để tìm hiểu đối phương, để quyết định có tiến tới hôn nhân hay không để tránh trường hợp ly hôn sau này. Tuy nhiên sống thử vẫn chưa được toàn xã hội chấp nhận về mặt truyền thống xã hội, ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe, tâm lý,… Việc sống thử không bị cấm nhưng cũng không được khuyến khích. Do không đăng ký kết hôn nên pháp luật khó bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ và trẻ em nếu qua trình sống thử phát sinh những vấn đề pháp lý. Do đó giới trẻ cần cân nhắc trước khi sống thử để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hiện nay một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ đang sống thử với người mà họ cho là người mình yêu hoặc người yêu mình. Tất nhiên trong tình yêu, giai đoạn nào cũng đẹp, giai đoạn nào cũng sẽ có đắng cay ngọt bùi nhưng đắng nhất là giai đoạn sau yêu hay còn gọi là hậu chia tay. Người đời nói rằng “yêu là chết ở trong lòng một ít” có lẽ khái niệm đó đúng bởi thực thế cho thấy khi yêu người ta “chết ở trong lòng” nhiều hơn một ít nên đôi lúc chúng ta tưởng như khi yêu con người bị điếc hoặc mù hoặc đại khái là như vậy. Vì sao lại nói như thế? Bởi khi yêu con người ta trở nên mù quáng, không còn phân biệt được đâu là địch đâu là ta. Dẫn tới việc lý trí bị mất kiểm soát và có những suy nghĩ sai lệch trong khi yêu nhất là vấn đề hợp thức hóa tài sản, biến tài sản riêng của cá nhân thành tài sản chung của cả địch và cả chính mình. Cho đến khi “chúng ta không hợp nhau nữa mình chia tay đi” thì lúc đó cái “thật” mới lòi ra chính là “tiền”. Tiền nếu trong thời kỳ hôn nhân mà cả vợ và chồng không có thỏa thuận về chế định tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì mặc nhiên tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung trừ các loại tài sản được tặng riêng, cho riêng trước hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân mà kéo dài đến hiện tại. Rơi vào trường hợp như vậy nếu ly hôn thì việc chia đôi sẻ nửa là việc hết sức bình thường và còn được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên nếu rơi vào trường hợp các bạn trẻ mới tìm hiểu mà “góp gạo thổi cơm chung” trong giai đoạn sống thử cho đến lúc đường ai nấy đi thì sẽ được pháp luật xử lý như thế nào? “Sống thử” không phải là một thuật ngữ pháp lý và cũng chưa có quy định pháp luật nào điều chỉnh vấn đề này. Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình mới chỉ có quy định về việc không công nhận là vợ chồng hoặc không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng nếu như nam nữ chung sống với nhau mà không có đăng ký kết hôn mà chưa đưa thuật ngữ “sống thử” vào chế định hôn nhân và gia đình theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Tuy nhiên vấn đề về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 với nội dung như sau: Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Theo đó từ việc “sống thử” và chia tay dẫn đến tranh chấp Dân sự sẽ được xử lý theo quy định tại Bộ Luật Dân Sự 2015 hay nói một cách khác hơn là “Dân sự hóa tình yêu” – sống thử với tiền thật.
Sống thử và hôn nhân có đi đôi với nhau không?
Sống thử hay chung sống với nhau trước hôn nhân là một cụm từ thường được báo chí Việt Nam, đặc biệt là báo mạng, dùng để chỉ một hiện tượng xã hội, theo đó các cặp đôi có tình cảm về sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng không tổ chức hôn lễ cũng như đăng ký kết hôn. Vậy, giữa việc sống thử và hôn nhân có đi đôi với nhau không? Việc những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hôn nhân chính thức, sẽ đăng ký kết hôn theo pháp luật. Còn nếu thấy không phù hợp, họ sẽ chia tay nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Liệu, khi sống thử như vợ chồng của các cặp đôi của giới trẻ có tiến tới hôn nhân hay không và pháp luật có quy định về việc này không? Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình chưa có quy định nào về việc công nhận việc sống thử vào chế định của hôn nhân và gia đình theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, nếu được tiến tới hôn nhân thì là niềm vui của mọi người, nhưng nếu chia tay nhau thì việc tài sản chung của 2 người khi sống chung với nhau như vợ chồng có được giải quyết hay không? Và sẽ giải quyết như thế nào? Tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về vấn đề này với nội dung quy định như sau: - Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Như vậy, việc sống thử với nhau chỉ được Luật công nhận như hành vi sống chung như vợ chồng chứ không giống như việc 2 người đã kết hôn với nhau. Cho nên, giữa việc sống với nhau và việc kết hôn với nhau là hoàn toàn khác nhau và cơ hội để 2 điều đó gắn liền với nhau là rất mỏng manh.
Sống thử nếu có con thì giải quyết như thế nào?
Tham khảo: >>> Những ai có ý định sống thử hãy đọc qua bài này; >>> Hợp đồng sống thử; Hiện tượng sống thử trong giới trẻ ngày nay diễn ra khá phổ biến. Thông thường những đối tượng sống thử là các bạn học sinh, sinh viên đang ở độ tuổi rất trẻ từ 18 đến 24 tuổi. Do đó, khi đang ở độ tuổi suy nghĩ chưa chính chắn, nếu phát hiện có thai các bạn rất khó khăn trong việc quyết định có nên thông báo với gia đình và giữ đứa bé hay không? Thực tế đã có những trường hợp xấu xảy ra như người mẹ là sinh viên ở Hà nội bỏ con chết ỉu ở thùng rác xảy ra gần đây có thể sẽ bị truy cứu TNHS… Vậy nếu lỡ sống thử và có con thì nên giải quyết như thế nào? Mời các bạn cùng tham khảo bài viết sau: Thứ nhất: Nếu phát hiện mình có thai thì nên báo ngay cho gia đình hai bên biết để hỗ trợ bạn trong quá trình mang thai sắp tới và hai bạn nên dẫn nhau đi đăng kí kết hôn để thuận tiện cho việc khai sinh tên cho trẻ sau này. Mình biết nếu khi các bạn lỡ mang thai trong thời gian sống thử sẽ rất khó để nói với gia đình. Nhưng việc bạn không nói mà tự phá thai thì sau này bạn sẽ phải gánh chịu những hậu quả không thể lường tới đối với bạn như: bạn có thể bị vô sinh, ám ảnh tinh thần về đứa con đầu tiên của mình,... Sau khi bạn thông báo với gia đình hai bên và sẽ tiến hành đám cưới và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn để đảm bảo quyền lợi và cho đứa bé, cụ thể: Về thủ tục đăng ký kết hôn bạn thực hiện như sau: - Cả hai cùng đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn. + Điền thông tin vào tờ khai đăng ký kết hôn (theo mẫu quy định do nơi đăng ký cấp) + Mang theo giấy tờ tùy thân: CMND/CCCD của Vợ, chồng; sổ hộ khẩu, giấy tờ khác (nếu có). - Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ nêu trên, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Sau khi Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc. Sau khi sinh con thực thủ tục khai sinh cho con theo quy định, có đầy đủ cả tên cha và tên mẹ. >>> Tất tần tật quy định về thời hạn giải quyết các thủ tục về hộ tịch; Nếu có tranh chấp xảy ra được pháp luật bảo vệ, theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình. >>> Một số kỹ năng giải quyết vụ án hôn nhân gia đình; Thứ hai: Trường hợp hai bạn tiếp tục sống thử sẽ phát sinh rất nhiều rủi ro, cụ thể: - Bạn sẽ không được pháp luật bảo vệ nếu có sự xuất hiện của người thứ ba. Căn cứ khoản 1 Điều 5 và Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình 2015 quy định như sau: “1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.” Do đó, theo quy định trên khi xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định bạn sẽ pháp luật bảo vệ. Nếu phát hiện có người thứ ba làm ảnh hưởng đến gia đình sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự theo quy định pháp luật, căn cứ Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình. Vậy nên, trường hợp bạn sống thử không được pháp luật quy định, do đó nếu xuất hiện người thứ 3 bạn sẽ không được bảo vệ. - Bạn sinh con sẽ không thể khai sinh cho con có cả tên cha và mẹ. Căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định 123/2015/NĐ-CP “Trường hợp chưa xác định được cha thì khi đăng ký khai sinh họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của con được xác định theo họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của mẹ; phần ghi về cha trong Sổ hộ tịch và Giấy khai sinh của trẻ để trống” Nên trong trường hợp hai bạn chưa đăng ký kết hôn thì việc khai sịnh tên cho con sẽ chỉ để tên mẹ. Nếu cha muốn nhận con phải đưa ra bằng chứng chứng minh con ruột như: Giấy xét nghiệm ADN, Giấy xác nhận cha của bệnh viện,.. Mới làm thủ tục cho con nhận cha. Vậy nên, nếu có sống thử và lỡ có con bạn cũng nên suy nghĩ thật kỹ không nên vì lợi ích cá nhân và bỏ rơi đứa bé gây hậu quả khó lường và sau này chắc chắn bạn sẽ phải hối hận. Trên đây là cách giải quyết mình đưa ra theo quan điểm của mình mong giúp ích cho những bạn sống thử có sự lựa chọn tốt nhất. Nếu công đồng dân luật mình có ý kiến đóng góp cùng để lại bình luận để hạn chế việc bỏ con đối với đối tượng giới trẻ ngày nay nhé.
Những ai có ý định sống thử hãy đọc qua bài này
>>> Chồng ngoại tình: 04 điều vợ cần biết để đảm bảo quyền lợi Sống thử là khái niệm đã không còn xa lạ với hầu hết mọi người. Đây là một hiện tượng xã hội, với việc nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn và không hoặc chưa tổ chức hôn lễ. Như vậy, dưới góc độ pháp lý thì những người sống thử phải chịu những rủi ro nào? Theo quy định pháp luật hiện hành, so với những người có đăng ký kết hôn thì những người sống thử phải chịu những rủi ro, thiệt thòi như sau: 1. Không được pháp luật bảo vệ khi xuất hiện người thứ ba Theo pháp luật hiện hành, không có quy định nào bắt buộc những người sống thử phải chung thủy với nhau, giữa họ không có một sự ràng buộc pháp lý nào nên cũng không được pháp luật bảo vệ. Do đó, khi một bên trong quan hệ này ngoại tình thì bên còn lại cũng không thể yêu cầu cơ quan nào xử phạt hay buộc người đó chấm dứt việc ngoại tình. Đối chiếu với những quy định hiện hành dành cho những người có đăng ký kết hôn như: Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.” Căn cứ Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: "Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình 1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. ..." Theo đó, vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc… và đặc biệt là phải chung thủy với nhau, đảm bảo chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Như vậy, những người được pháp luật công nhận là vợ chồng, sẽ được pháp luật bảo vệ trước người thứ ba. Khi một người có hành vi ngoại tình có thể bị xử lý theo chế tài của pháp luật: xử phạt hành chính theo Điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP, xử lý hình sự theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015. Qua đây ta thấy, so với những người có đăng ký kết hôn thì những người sống thử sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có sự xuất hiện của người thứ ba và cũng không có biện pháp pháp lý nào để bảo vệ quyền lợi của mình. 2. Khai sinh cho con gặp rắc rối với việc ghi tên cha Trong trường hợp hai người sống thử mà có con, việc xác định quan hệ cha con sẽ không thể căn cứ vào thời kỳ hôn nhân như Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình, cũng như khi đăng ký khai sinh cho con không có giấy đăng ký kết hôn để xác định cha cho con. Chính vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định 123/2015/NĐ-CP thì trong Giấy khai sinh cho trẻ chỉ ghi phần thông tin của mẹ và phần ghi về cha sẽ bị để trống. Trong trường hợp này, nếu người cha muốn nhận con thì căn cứ Điều 11 Thông tư 15/2015/TT-BTP, Điều 25 và Điều 44 Luật Hộ tịch, người cha phải nộp những chứng cứ chứng minh quan hệ cha con như: kết quả của cơ quan giám định xác nhận quan hệ cha con… 3. Quan hệ tài sản rắc rối, phải chứng minh khi có tranh chấp Khi hai bên sống thử thì tài sản được xác lập trong thời kỳ này không được xác định theo quy định của Luật hôn nhân gia đình 2014. - Khi hai bên có đăng ký kết hôn: + Tranh chấp một tài sản mà vợ hoặc chồng đang có là tài sản riêng thì phải có chứng cứ để chứng minh nếu không chứng minh được thì tài sản đó được coi là tài sản chung.(Khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình). - Trong trường hợp hai bên sống thử, đối với tài sản đứng tên một người thì để chứng minh nó là tài sản chung phải có chứng cứ chứng minh công sức đóng góp của mình. Khi giải quyết quan hệ tài sản cho những người sống chung như vợ chồng sẽ căn cứ Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình: "1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập." Tuy nhiên trên thực tế, khi quan hệ tình cảm còn tốt thường sẽ ít ai quan tâm, tính toán, giữ tại chứng cứ chứng minh sự đóng góp của mình trong việc tạo lập tài sản. Do đó, để xác định tài sản, công sức của mình trong việc tạo lập tài sản khi sống thử là điều khó khăn. 4. Cấp dưỡng nuôi con gặp khó khăn Khi hai người sống thử chia tay, việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sẽ gặp khó khăn. Không giống với những người có đăng ký kết hôn thì cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con (Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình) và việc cấp dưỡng thường được giải quyết khi ly hôn. Việc chia tay khi sống thử sẽ không phải qua một thủ tục pháp lý nào. Do đó, nếu muốn đòi cấp dưỡng nuôi con thì phải có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ con. 5. Chia tay bất cứ lúc nào ngay cả khi người nữ đang mang thai Khi hai người sống thử, quan hệ không bị ràng buộc bởi một quy định pháp luật nào, nên khi muốn chia tay cũng không cần tuân thủ một thủ tục pháp lý nào. Việc chia tay có thể xảy ra bất cứ lúc nào ngay cả khi người nữ đang mang thai. Điều này sẽ là thiệt thòi cho các bạn nữ khi sống thử so với những người có đăng ký kết hôn. Bởi vì, trong quan hệ hôn nhân, chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. (Khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình). Như vậy các bạn cần nên cân nhắc khi quyết định sống thử để đảm bảo quyền lợi của mình.
“Sống thử” là giải pháp tốt để tiến đến một hôn nhân hoàn hảo hay nó chỉ là lối sống suy đồi trong cái bẫy của tiền hôn nhân. Bài viết sau đây, sẽ cung cấp cho bạn những nguyên nhân cốt lõi theo quan điểm cho rằng đây là cái bẫy của tiền hôn nhân. 1. Nguyên nhân bản thân Do sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, thiếu vật chất, hoặc có thể vì đua đòi, một số bạn có lối sống buông thả thích một cuộc sống hưởng thụ, phóng đãng, không tôn trọng chuẩn mực đạo đức của cộng đồng hay luật lệ của tôn giáo. Mặt khác, vì tư tưởng mạnh mẽ giúp họ cởi mở hơn trong quan niệm tình dục nên họ không còn e dè dư luận xã hội như trước kia. Rất nhiều bạn không những coi thường luật pháp và giáo luật mà còn tự hạ thấp nhân phẩm của mình, không coi trọng giá trị của đời sống gia đình, cho dù biết hành động mình đang làm là sai trái với chuẩn mực cuộc sống nhưng vẫn cố tình bước vào. 2. Nguyên nhân từ gia đình Do cha mẹ sống không hạnh phúc, những cảnh xào xáo, chửi bới và cãi vã thường ngày trong gia đình chính là yếu tố làm cho giới trẻ không muốn nghĩ đến hôn nhân; ngược lại, coi hôn nhân như một sự ràng buộc, cùm kẹp, hoặc chỉ như cơ hội để người ta lợi dụng nhau. Đồng thời, do cha mẹ bồ bịch, mèo chuột, muốn “tìm của lạ” hoặc “ông ăn chả, bà ăn nem” nên không thể khuyên bảo con cái được. Hơn nữa, cha mẹ không quan tâm đến đời sống và tình cảm của con mình, không động viên con cái sống lành mạnh, chỉ biết phó mặc cho nhà trường, thì làm sao chúng không hư hỏng? 3. Nguyên nhân từ xã hội Do ảnh hưởng văn hóa Phương Tây tràn vào, nên tình trạng quan hệ tình dục và “sống thử” trước hôn nhân ở giới trẻ đang ở mức báo động. Đồng thời, do ảnh hưởng của nền văn hóa “tốc độ”, một số bạn trẻ quan niệm về tình yêu “rất hiện đại” hay còn gọi tình yêu tốc độ”. Hơn nữa, do ảnh hưởng của truyền thông, các bạn nghe nhạc, đọc tiểu thuyết, xem phim ảnh, tạp chí về yêu đương và cả những trang web về tình dục là điều không thể tránh khỏi. “Tai nghe không bằng mắt thấy”, có nhiều bạn trẻ vì tò mò “sống thử để biết”, và “sống thử vì thấy bạn bè mình có nhiều cặp cũng đang sống chung đấy thôi”. Đến với nhau chỉ vì tò mò, vì tiết kiệm, vì người khác sống thử thì mình cũng sống thử và chỉ để thỏa mãn dục vọng nhất thời. Mặt khác, do hội nhập văn hoá làm cho giới trẻ sống “tây hoá” không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người”.
Theo mọi người thì hợp đồng sống thử như thế này có vi phạm pháp luật hay không? Nếu có phát sinh tranh chấp thì Tòa án có làm căn cứ để giải quyết hay không? Rất mong nhận được góp ý từ quý thành viên Dân Luật. Trân trọng cảm ơn!
Không tiếp tục chung sống, tài sản tạo lập khi "sống thử" chia như thế nào?
Khái niệm “sống thử’ trước hôn nhân cũng không còn xa lạ gì với một bộ phận người trẻ ngày nay. Vậy nếu có tài sản được tạo lập trong thời gian sống thử mà sau đó hai bên không tiếp tục chung sống thì được giải quyết như thế nào? Sống thử là gì? Sống thử dùng để chỉ hoạt động các cặp đôi chung sống với nhau như vợ chồng mà chưa thực hiện đăng ký kết hôn, chưa làm đám cưới hay thực hiện bất cứ thủ tục gì để được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, nếu hai bên cảm thấy phù hợp thì có thể tiến tới các bước tiếp theo để trở thành vợ chồng hợp pháp. Nếu không thể tiếp tục chung sống thì cũng không phải thực hiện thủ tục gì nếu như không có tranh chấp về tài sản chung. Sống thử có vi phạm pháp luật không? Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014, chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. Đồng thời, tại Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định cấm các hành vi có liên quan đến chung sống như vợ chồng sau: - Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Như vậy, ngoại trừ các hành vi bị cấm nêu trên, hiện nay pháp luật không quy định sống thử hay chung sống như vợ chồng là vi phạm pháp luật. Tài sản tạo lập khi sống thử được chia như thế nào? Theo Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: - Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. - Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: - Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Theo Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 quy định về phân chia tài sản chung như sau: - Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung: + Nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; + Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. - Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Như vậy, việc phân chia tài sản chung khi sống thử sẽ được thực hiện theo thỏa thuận của hai bên, tuy nhiên phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con (nếu có). Còn đối với trường hợp không tự thoả thuận được thì chia theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân sau khi sống thử Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014, trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn. Như vậy, dù cho trước khi đăng ký kết hôn, hai bên đã sống với nhau như vợ chồng nhưng khoảng thời gian này sẽ không được tính vào thời gian vợ chồng xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp. Thời gian pháp luật công nhận vợ chồng xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp với nhau là tính từ thời điểm đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, pháp luật vẫn có quy định các trường hợp ngoại lệ chung sống với nhau như vợ chồng vẫn được cho là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Xem cụ thể các trường hợp và quy định của pháp luật trong các trường hợp này tại Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.
Sống thử trước hôn nhân có vi phạm pháp luật không?
Việc sống thử diễn ra ở giới trẻ ngày càng phổ biến và dường như là một điều các bạn trẻ cho là hiển nhiên trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân. Vậy hiện nay có quy định nào về sống thử hay không? Sống thử có vi phạm pháp luật không? Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và các văn bản hướng dẫn không quy định khái niệm sống thử là gì? Trên thực tế, sống thử được hiểu là việc nam, nữ về sống chung với nhau như các cặp vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, không tổ chức hôn lễ. Việc sống thử diễn ra giữa những người đang độc thân dựa trên sự tự nguyện, nhằm tìm hiểu nhau kỹ hơn trước khi kết hôn. Pháp luật hiện hành không có quy định cấm 2 người trưởng thành chưa có vợ, chưa có chồng, không chung huyết thống sống chung với nhau. Việc sống thử mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng. Sống thử vừa có mặt tích cực, vừa có tiêu cực: Đối với bản thân người sống thử, đây là một cách để tìm hiểu đối phương, để quyết định có tiến tới hôn nhân hay không để tránh trường hợp ly hôn sau này. Tuy nhiên sống thử vẫn chưa được toàn xã hội chấp nhận về mặt truyền thống xã hội, ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe, tâm lý,… Việc sống thử không bị cấm nhưng cũng không được khuyến khích. Do không đăng ký kết hôn nên pháp luật khó bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ và trẻ em nếu qua trình sống thử phát sinh những vấn đề pháp lý. Do đó giới trẻ cần cân nhắc trước khi sống thử để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hiện nay một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ đang sống thử với người mà họ cho là người mình yêu hoặc người yêu mình. Tất nhiên trong tình yêu, giai đoạn nào cũng đẹp, giai đoạn nào cũng sẽ có đắng cay ngọt bùi nhưng đắng nhất là giai đoạn sau yêu hay còn gọi là hậu chia tay. Người đời nói rằng “yêu là chết ở trong lòng một ít” có lẽ khái niệm đó đúng bởi thực thế cho thấy khi yêu người ta “chết ở trong lòng” nhiều hơn một ít nên đôi lúc chúng ta tưởng như khi yêu con người bị điếc hoặc mù hoặc đại khái là như vậy. Vì sao lại nói như thế? Bởi khi yêu con người ta trở nên mù quáng, không còn phân biệt được đâu là địch đâu là ta. Dẫn tới việc lý trí bị mất kiểm soát và có những suy nghĩ sai lệch trong khi yêu nhất là vấn đề hợp thức hóa tài sản, biến tài sản riêng của cá nhân thành tài sản chung của cả địch và cả chính mình. Cho đến khi “chúng ta không hợp nhau nữa mình chia tay đi” thì lúc đó cái “thật” mới lòi ra chính là “tiền”. Tiền nếu trong thời kỳ hôn nhân mà cả vợ và chồng không có thỏa thuận về chế định tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì mặc nhiên tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung trừ các loại tài sản được tặng riêng, cho riêng trước hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân mà kéo dài đến hiện tại. Rơi vào trường hợp như vậy nếu ly hôn thì việc chia đôi sẻ nửa là việc hết sức bình thường và còn được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên nếu rơi vào trường hợp các bạn trẻ mới tìm hiểu mà “góp gạo thổi cơm chung” trong giai đoạn sống thử cho đến lúc đường ai nấy đi thì sẽ được pháp luật xử lý như thế nào? “Sống thử” không phải là một thuật ngữ pháp lý và cũng chưa có quy định pháp luật nào điều chỉnh vấn đề này. Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình mới chỉ có quy định về việc không công nhận là vợ chồng hoặc không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng nếu như nam nữ chung sống với nhau mà không có đăng ký kết hôn mà chưa đưa thuật ngữ “sống thử” vào chế định hôn nhân và gia đình theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Tuy nhiên vấn đề về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 với nội dung như sau: Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Theo đó từ việc “sống thử” và chia tay dẫn đến tranh chấp Dân sự sẽ được xử lý theo quy định tại Bộ Luật Dân Sự 2015 hay nói một cách khác hơn là “Dân sự hóa tình yêu” – sống thử với tiền thật.
Sống thử và hôn nhân có đi đôi với nhau không?
Sống thử hay chung sống với nhau trước hôn nhân là một cụm từ thường được báo chí Việt Nam, đặc biệt là báo mạng, dùng để chỉ một hiện tượng xã hội, theo đó các cặp đôi có tình cảm về sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng không tổ chức hôn lễ cũng như đăng ký kết hôn. Vậy, giữa việc sống thử và hôn nhân có đi đôi với nhau không? Việc những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hôn nhân chính thức, sẽ đăng ký kết hôn theo pháp luật. Còn nếu thấy không phù hợp, họ sẽ chia tay nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Liệu, khi sống thử như vợ chồng của các cặp đôi của giới trẻ có tiến tới hôn nhân hay không và pháp luật có quy định về việc này không? Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình chưa có quy định nào về việc công nhận việc sống thử vào chế định của hôn nhân và gia đình theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, nếu được tiến tới hôn nhân thì là niềm vui của mọi người, nhưng nếu chia tay nhau thì việc tài sản chung của 2 người khi sống chung với nhau như vợ chồng có được giải quyết hay không? Và sẽ giải quyết như thế nào? Tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về vấn đề này với nội dung quy định như sau: - Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Như vậy, việc sống thử với nhau chỉ được Luật công nhận như hành vi sống chung như vợ chồng chứ không giống như việc 2 người đã kết hôn với nhau. Cho nên, giữa việc sống với nhau và việc kết hôn với nhau là hoàn toàn khác nhau và cơ hội để 2 điều đó gắn liền với nhau là rất mỏng manh.
Sống thử nếu có con thì giải quyết như thế nào?
Tham khảo: >>> Những ai có ý định sống thử hãy đọc qua bài này; >>> Hợp đồng sống thử; Hiện tượng sống thử trong giới trẻ ngày nay diễn ra khá phổ biến. Thông thường những đối tượng sống thử là các bạn học sinh, sinh viên đang ở độ tuổi rất trẻ từ 18 đến 24 tuổi. Do đó, khi đang ở độ tuổi suy nghĩ chưa chính chắn, nếu phát hiện có thai các bạn rất khó khăn trong việc quyết định có nên thông báo với gia đình và giữ đứa bé hay không? Thực tế đã có những trường hợp xấu xảy ra như người mẹ là sinh viên ở Hà nội bỏ con chết ỉu ở thùng rác xảy ra gần đây có thể sẽ bị truy cứu TNHS… Vậy nếu lỡ sống thử và có con thì nên giải quyết như thế nào? Mời các bạn cùng tham khảo bài viết sau: Thứ nhất: Nếu phát hiện mình có thai thì nên báo ngay cho gia đình hai bên biết để hỗ trợ bạn trong quá trình mang thai sắp tới và hai bạn nên dẫn nhau đi đăng kí kết hôn để thuận tiện cho việc khai sinh tên cho trẻ sau này. Mình biết nếu khi các bạn lỡ mang thai trong thời gian sống thử sẽ rất khó để nói với gia đình. Nhưng việc bạn không nói mà tự phá thai thì sau này bạn sẽ phải gánh chịu những hậu quả không thể lường tới đối với bạn như: bạn có thể bị vô sinh, ám ảnh tinh thần về đứa con đầu tiên của mình,... Sau khi bạn thông báo với gia đình hai bên và sẽ tiến hành đám cưới và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn để đảm bảo quyền lợi và cho đứa bé, cụ thể: Về thủ tục đăng ký kết hôn bạn thực hiện như sau: - Cả hai cùng đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn. + Điền thông tin vào tờ khai đăng ký kết hôn (theo mẫu quy định do nơi đăng ký cấp) + Mang theo giấy tờ tùy thân: CMND/CCCD của Vợ, chồng; sổ hộ khẩu, giấy tờ khác (nếu có). - Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ nêu trên, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Sau khi Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc. Sau khi sinh con thực thủ tục khai sinh cho con theo quy định, có đầy đủ cả tên cha và tên mẹ. >>> Tất tần tật quy định về thời hạn giải quyết các thủ tục về hộ tịch; Nếu có tranh chấp xảy ra được pháp luật bảo vệ, theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình. >>> Một số kỹ năng giải quyết vụ án hôn nhân gia đình; Thứ hai: Trường hợp hai bạn tiếp tục sống thử sẽ phát sinh rất nhiều rủi ro, cụ thể: - Bạn sẽ không được pháp luật bảo vệ nếu có sự xuất hiện của người thứ ba. Căn cứ khoản 1 Điều 5 và Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình 2015 quy định như sau: “1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.” Do đó, theo quy định trên khi xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định bạn sẽ pháp luật bảo vệ. Nếu phát hiện có người thứ ba làm ảnh hưởng đến gia đình sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự theo quy định pháp luật, căn cứ Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình. Vậy nên, trường hợp bạn sống thử không được pháp luật quy định, do đó nếu xuất hiện người thứ 3 bạn sẽ không được bảo vệ. - Bạn sinh con sẽ không thể khai sinh cho con có cả tên cha và mẹ. Căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định 123/2015/NĐ-CP “Trường hợp chưa xác định được cha thì khi đăng ký khai sinh họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của con được xác định theo họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của mẹ; phần ghi về cha trong Sổ hộ tịch và Giấy khai sinh của trẻ để trống” Nên trong trường hợp hai bạn chưa đăng ký kết hôn thì việc khai sịnh tên cho con sẽ chỉ để tên mẹ. Nếu cha muốn nhận con phải đưa ra bằng chứng chứng minh con ruột như: Giấy xét nghiệm ADN, Giấy xác nhận cha của bệnh viện,.. Mới làm thủ tục cho con nhận cha. Vậy nên, nếu có sống thử và lỡ có con bạn cũng nên suy nghĩ thật kỹ không nên vì lợi ích cá nhân và bỏ rơi đứa bé gây hậu quả khó lường và sau này chắc chắn bạn sẽ phải hối hận. Trên đây là cách giải quyết mình đưa ra theo quan điểm của mình mong giúp ích cho những bạn sống thử có sự lựa chọn tốt nhất. Nếu công đồng dân luật mình có ý kiến đóng góp cùng để lại bình luận để hạn chế việc bỏ con đối với đối tượng giới trẻ ngày nay nhé.
Những ai có ý định sống thử hãy đọc qua bài này
>>> Chồng ngoại tình: 04 điều vợ cần biết để đảm bảo quyền lợi Sống thử là khái niệm đã không còn xa lạ với hầu hết mọi người. Đây là một hiện tượng xã hội, với việc nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn và không hoặc chưa tổ chức hôn lễ. Như vậy, dưới góc độ pháp lý thì những người sống thử phải chịu những rủi ro nào? Theo quy định pháp luật hiện hành, so với những người có đăng ký kết hôn thì những người sống thử phải chịu những rủi ro, thiệt thòi như sau: 1. Không được pháp luật bảo vệ khi xuất hiện người thứ ba Theo pháp luật hiện hành, không có quy định nào bắt buộc những người sống thử phải chung thủy với nhau, giữa họ không có một sự ràng buộc pháp lý nào nên cũng không được pháp luật bảo vệ. Do đó, khi một bên trong quan hệ này ngoại tình thì bên còn lại cũng không thể yêu cầu cơ quan nào xử phạt hay buộc người đó chấm dứt việc ngoại tình. Đối chiếu với những quy định hiện hành dành cho những người có đăng ký kết hôn như: Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.” Căn cứ Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: "Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình 1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. ..." Theo đó, vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc… và đặc biệt là phải chung thủy với nhau, đảm bảo chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Như vậy, những người được pháp luật công nhận là vợ chồng, sẽ được pháp luật bảo vệ trước người thứ ba. Khi một người có hành vi ngoại tình có thể bị xử lý theo chế tài của pháp luật: xử phạt hành chính theo Điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP, xử lý hình sự theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015. Qua đây ta thấy, so với những người có đăng ký kết hôn thì những người sống thử sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có sự xuất hiện của người thứ ba và cũng không có biện pháp pháp lý nào để bảo vệ quyền lợi của mình. 2. Khai sinh cho con gặp rắc rối với việc ghi tên cha Trong trường hợp hai người sống thử mà có con, việc xác định quan hệ cha con sẽ không thể căn cứ vào thời kỳ hôn nhân như Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình, cũng như khi đăng ký khai sinh cho con không có giấy đăng ký kết hôn để xác định cha cho con. Chính vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định 123/2015/NĐ-CP thì trong Giấy khai sinh cho trẻ chỉ ghi phần thông tin của mẹ và phần ghi về cha sẽ bị để trống. Trong trường hợp này, nếu người cha muốn nhận con thì căn cứ Điều 11 Thông tư 15/2015/TT-BTP, Điều 25 và Điều 44 Luật Hộ tịch, người cha phải nộp những chứng cứ chứng minh quan hệ cha con như: kết quả của cơ quan giám định xác nhận quan hệ cha con… 3. Quan hệ tài sản rắc rối, phải chứng minh khi có tranh chấp Khi hai bên sống thử thì tài sản được xác lập trong thời kỳ này không được xác định theo quy định của Luật hôn nhân gia đình 2014. - Khi hai bên có đăng ký kết hôn: + Tranh chấp một tài sản mà vợ hoặc chồng đang có là tài sản riêng thì phải có chứng cứ để chứng minh nếu không chứng minh được thì tài sản đó được coi là tài sản chung.(Khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình). - Trong trường hợp hai bên sống thử, đối với tài sản đứng tên một người thì để chứng minh nó là tài sản chung phải có chứng cứ chứng minh công sức đóng góp của mình. Khi giải quyết quan hệ tài sản cho những người sống chung như vợ chồng sẽ căn cứ Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình: "1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập." Tuy nhiên trên thực tế, khi quan hệ tình cảm còn tốt thường sẽ ít ai quan tâm, tính toán, giữ tại chứng cứ chứng minh sự đóng góp của mình trong việc tạo lập tài sản. Do đó, để xác định tài sản, công sức của mình trong việc tạo lập tài sản khi sống thử là điều khó khăn. 4. Cấp dưỡng nuôi con gặp khó khăn Khi hai người sống thử chia tay, việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sẽ gặp khó khăn. Không giống với những người có đăng ký kết hôn thì cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con (Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình) và việc cấp dưỡng thường được giải quyết khi ly hôn. Việc chia tay khi sống thử sẽ không phải qua một thủ tục pháp lý nào. Do đó, nếu muốn đòi cấp dưỡng nuôi con thì phải có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ con. 5. Chia tay bất cứ lúc nào ngay cả khi người nữ đang mang thai Khi hai người sống thử, quan hệ không bị ràng buộc bởi một quy định pháp luật nào, nên khi muốn chia tay cũng không cần tuân thủ một thủ tục pháp lý nào. Việc chia tay có thể xảy ra bất cứ lúc nào ngay cả khi người nữ đang mang thai. Điều này sẽ là thiệt thòi cho các bạn nữ khi sống thử so với những người có đăng ký kết hôn. Bởi vì, trong quan hệ hôn nhân, chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. (Khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình). Như vậy các bạn cần nên cân nhắc khi quyết định sống thử để đảm bảo quyền lợi của mình.
“Sống thử” là giải pháp tốt để tiến đến một hôn nhân hoàn hảo hay nó chỉ là lối sống suy đồi trong cái bẫy của tiền hôn nhân. Bài viết sau đây, sẽ cung cấp cho bạn những nguyên nhân cốt lõi theo quan điểm cho rằng đây là cái bẫy của tiền hôn nhân. 1. Nguyên nhân bản thân Do sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, thiếu vật chất, hoặc có thể vì đua đòi, một số bạn có lối sống buông thả thích một cuộc sống hưởng thụ, phóng đãng, không tôn trọng chuẩn mực đạo đức của cộng đồng hay luật lệ của tôn giáo. Mặt khác, vì tư tưởng mạnh mẽ giúp họ cởi mở hơn trong quan niệm tình dục nên họ không còn e dè dư luận xã hội như trước kia. Rất nhiều bạn không những coi thường luật pháp và giáo luật mà còn tự hạ thấp nhân phẩm của mình, không coi trọng giá trị của đời sống gia đình, cho dù biết hành động mình đang làm là sai trái với chuẩn mực cuộc sống nhưng vẫn cố tình bước vào. 2. Nguyên nhân từ gia đình Do cha mẹ sống không hạnh phúc, những cảnh xào xáo, chửi bới và cãi vã thường ngày trong gia đình chính là yếu tố làm cho giới trẻ không muốn nghĩ đến hôn nhân; ngược lại, coi hôn nhân như một sự ràng buộc, cùm kẹp, hoặc chỉ như cơ hội để người ta lợi dụng nhau. Đồng thời, do cha mẹ bồ bịch, mèo chuột, muốn “tìm của lạ” hoặc “ông ăn chả, bà ăn nem” nên không thể khuyên bảo con cái được. Hơn nữa, cha mẹ không quan tâm đến đời sống và tình cảm của con mình, không động viên con cái sống lành mạnh, chỉ biết phó mặc cho nhà trường, thì làm sao chúng không hư hỏng? 3. Nguyên nhân từ xã hội Do ảnh hưởng văn hóa Phương Tây tràn vào, nên tình trạng quan hệ tình dục và “sống thử” trước hôn nhân ở giới trẻ đang ở mức báo động. Đồng thời, do ảnh hưởng của nền văn hóa “tốc độ”, một số bạn trẻ quan niệm về tình yêu “rất hiện đại” hay còn gọi tình yêu tốc độ”. Hơn nữa, do ảnh hưởng của truyền thông, các bạn nghe nhạc, đọc tiểu thuyết, xem phim ảnh, tạp chí về yêu đương và cả những trang web về tình dục là điều không thể tránh khỏi. “Tai nghe không bằng mắt thấy”, có nhiều bạn trẻ vì tò mò “sống thử để biết”, và “sống thử vì thấy bạn bè mình có nhiều cặp cũng đang sống chung đấy thôi”. Đến với nhau chỉ vì tò mò, vì tiết kiệm, vì người khác sống thử thì mình cũng sống thử và chỉ để thỏa mãn dục vọng nhất thời. Mặt khác, do hội nhập văn hoá làm cho giới trẻ sống “tây hoá” không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người”.
Theo mọi người thì hợp đồng sống thử như thế này có vi phạm pháp luật hay không? Nếu có phát sinh tranh chấp thì Tòa án có làm căn cứ để giải quyết hay không? Rất mong nhận được góp ý từ quý thành viên Dân Luật. Trân trọng cảm ơn!