Vợ ngoại tình thì phải chịu án phí sơ thẩm?
Theo quy định hiện nay thì đối với vụ án hôn nhân và gia đình thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như thế nào trong trường hợp chồng có đơn kiện ly hôn vợ, nếu nguyên nhân dẫn đến ly hôn do Vợ ngoại tình thì phải chịu án phí sơ thẩm có đúng không? Vợ ngoại tình thì phải chịu án phí sơ thẩm? Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau: 1. Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm. 2. Trường hợp các đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi đương sự phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng. 3. Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 4. Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. 5. Trong vụ án có đương sự được miễn án phí sơ thẩm thì đương sự khác vẫn phải nộp án phí sơ thẩm mà mình phải chịu theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này. 6. Trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết thì nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định tại Điều này. Do đó, Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Hay nói cách khác nếu vợ ngoại tình nhưng người yêu cầu ly hôn là chồng thì chồng phải chịu với tư cách nguyên đơn. Quy định về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án? Căn cứ Điều 17 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án như sau: 1. Thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự: - Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng; - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án cấp sơ thẩm về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 2. Thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí hành chính: - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm, người khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án hành chính phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng; - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án cấp sơ thẩm về việc nộp tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm, tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm trong vụ án hành chính, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 3. Thời hạn nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án: - Tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự: Người phải nộp tiền tạm ứng lệ phí có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng lệ phí sơ thẩm, phúc thẩm và nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng; - Tạm ứng lệ phí Tòa án khác: Người kháng cáo quyết định của Tòa án quy định tại khoản 5 Điều 38, khoản 4 Điều 39 của Nghị quyết này phải nộp tiền tạm ứng lệ phí kháng cáo trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 4. Trường hợp có lý do chính đáng theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này là những trường hợp có trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động hoặc những sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép làm cho người có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án không thể thực hiện được việc nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án trong thời hạn quy định. 5. Thời hạn nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án: - Người có nghĩa vụ nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án phải nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; - Người yêu cầu Tòa án giải quyết các việc quy định tại các điều từ Điều 38 đến Điều 45 của Nghị quyết này phải nộp tiền lệ phí cho cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 10 của Nghị quyết này trong thời hạn do pháp luật quy định. Trên đây là quy định về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án hiện hành.
Án phí ly hôn hiện nay là bao nhiêu và ai sẽ là người trả?
Năm 2024 án phí ly hôn sơ thẩm là bao nhiêu? Ai sẽ là người phải chịu mức án phí này? Bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Án phí ly hôn hiện nay là bao nhiêu? Theo Điều 24 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì án phí dân sự có giá ngạch và án phí dân sự không có giá ngạch chỉ áp dụng đối với các vụ án dân sự sơ thẩm, trong đó: - Vụ án dân sự không có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự không phải là một số tiền hoặc không thể xác định được giá trị bằng một số tiền cụ thể. - Vụ án dân sự có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự là một số tiền hoặc là tài sản có thể xác định được bằng một số tiền cụ thể. Theo đó, Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định án phí ly hôn sơ thẩm như sau: 1 Án phí dân sự sơ thẩm 1.1 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch 300.000 đồng 1.3 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000. 000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng. Như vậy, năm 2024 mức án phí ly hôn không có giá ngạch là 300 nghìn đồng, trường hợp có thêm các yêu cầu về tiền, tài sản (có giá ngạch) sẽ được xác định theo giá trị của tài sản được yêu cầu giải quyết. Ai sẽ là người trả án phí ly hôn? Theo khoản 3, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định: - Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. - Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. Như vậy, nếu đơn phương ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm không phụ thuộc vào việc đơn yêu cầu có được chấp thuận hay không. Nếu ly hôn thuận tình, mỗi bên chịu một nửa án phí hoặc 02 bên tự thỏa thuận. Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và tranh chấp về quyền sử dụng đất 02 bên phải chịu án phí theo giá trị tài sản. Ngoài ra, nếu tại phiên hòa giải trước phiên Toà mà hai bên đương sự tự thỏa thuận giải quyết được với nhau thì sẽ chỉ chịu 50% án phí ly hôn. Trường hợp nào được miễn án phí ly hôn? Theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí: - Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; - Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; - Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; - Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; - Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ. Như vậy, cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ sẽ được miễn án phí ly hôn. https://cdn.thuvienphapluat.vn//uploads/danluatfile/2024/05/30/don-de-nghi-mien-an-phi.doc Mẫu đơn đề nghị miễn tạm ứng án phí, án phí phí mới nhất
Bị cáo không kháng cáo thì Tòa có áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được không?
Mới đây, TAND cấp cao TPHCM xét xử phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phương Hằng đã tuyên bố giảm án 3 tháng phạt tù cho bị cáo dù bị cáo không kháng cáo. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm án khi bị cáo không kháng cáo có đúng với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? (1) Khi nào thì được mở phiên tòa phúc thẩm? Theo Điều 27 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo như sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 - Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật - Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về tính chất của phiên xét xử phúc thẩm, khoản 1 Điều 330 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: - Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Căn cứ vào 2 quy định trên, để mở phiên tòa phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng nghị từ đương sự hoặc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị với bản án quyết định sơ thẩm trong thời hạn quy định thì bản án sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực thi hành. Trong vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng, mặc dù bà Hằng cho rằng mức án 3 năm tù đối tội của bà là quá cao, tuy nhiên bà cũng không kháng cáo. Do bà Hằng không kháng cáo trong thời hạn quy định, bản án của tòa cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực, nghĩa là bà Hằng phải thi hành án phạt tù 03 năm theo như bản án quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, các đồng phạm của bà trong vụ việc này đã làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên bản án, quyết định sơ thẩm đối với các bị cáo này là chưa có hiệu lực. Tòa án cấp cao sẽ mở phiên xét xử phúc thẩm để xét xử hoặc xem xét lại quyết định, bản án cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 Do đó, việc tổ chức phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng là hoàn toàn đúng thủ tục tố tụng. (2) Bị cáo không kháng cáo có được giảm nhẹ hình phạt? Theo Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về việc sửa bản án sơ thẩm như sau: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: - Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; - Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; - Giảm hình phạt cho bị cáo; - Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; - Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: - Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; - Tăng mức bồi thường thiệt hại; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; - Không cho bị cáo hưởng án treo. - Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. - Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định trên, HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy có điểm chưa đúng trong bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khi vụ án có thêm tình tiết mới. Trong đó, HĐXX có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo hoặc tăng nặng tùy theo các tình tiết mới mà các bên cung cấp. Tại khoản 3 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng có nhắc đến trường hợp bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo nhưng HĐXX có căn cứ về tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. Do đó, tuy bà Hằng không làm kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, nhưng HĐXX xét thấy bị cáo đã nộp đầy đủ án phí, khắc phục thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Có lẽ với tình tiết giảm nhẹ đó và sự thành khẩn, ăn năn của bà Hằng, HĐXX đã có đủ căn cứ để sửa lại bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Phương Hằng theo quy định tại Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. (3) Sau khi được giảm án, bà Phương Hằng còn phải chấp hành phạt tù đến khi nào? Bà Phương Hằng bị bắt tạm giam vào ngày 24/3/2022. Tính từ ngày bị bắt tạm giam đến nay (5/4), bà Hằng đã chấp hành án được 2 năm 11 ngày. Như vậy, bà Hằng còn phải chấp hành bản án trên đến ngày 24/12/2024, tức còn 8 tháng 19 ngày là hết thời gian phạt tù.
Lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm có được xem là chứng cứ không?
Liên quan đến trường hợp xác định chứng cứ trong vụ án dân sự, thông thường thì nguyên đơn sẽ nộp các chứng cứ kèm theo trong suốt quá trình từ trước khi thụ lý đến trước thời điểm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, vậy nếu trong quá trình đó nguyên đơn thiếu chứng cứ hoặc chưa bổ sung kịp thì lời khai tại phiên tòa có thể được xem là chứng cứ không? Lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm có được xem là chứng cứ không? Căn cứ Khoản 5 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định xác định chứng cứ như sau: 1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. 2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. 3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. 4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc. 5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. 6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định. Vấn đề về giao nộp tài liệu, chứng cứ theo quy định hiện hành? Căn cứ Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ như sau: 1. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự. 2. Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ. 3. Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. 4. Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự. 5. Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. Quy định về nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự? Căn cứ Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ chứng minh như sau: 1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây: - Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; - Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động; - Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh. 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. 3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Do đó, không chỉ những chứng cứ nộp trước phiên xét xử mới được chấp nhận mà thay vào đó lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa
Chồng phải chịu án phí sơ thẩm khi ly hôn?
Chồng phải chịu án phí sơ thẩm khi ly hôn? Tình huống phát sinh: Em và chồng em mới thống nhất việc ly hôn theo thỏa thuận, mặc dù trước đó em không chịu. Tuy nhiên, hiện tại đã đi đến thống nhất sẽ ly hôn và nếu sau này nộp lên Tòa, và Tòa cũng giải quyết ly hôn thì tiền án phí chồng chịu đúng không ? Nếu như không thống nhất được thuận tình ly hôn thì một trong hai người có thể ly hôn đơn phương? Hơn nữa vấn đề về chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn quy định thế nào? Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về Nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau: - Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm. - Trường hợp các đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi đương sự phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng. - Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. - Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. Không thỏa thuận được thuận tình ly hôn thì một trong hai người có thể ly hôn đơn phương? Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: - Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. - Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. - Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn quy định thế nào? Căn cứ Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn như sau: - Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. - Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau: + Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 . Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; + Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; + Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 + Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai. - Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 Do đó, vì đây là vụ việc ly hôn nên trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. Không đặt ra quy định chỉ mình chồng chịu trong trường hợp trên. Mặt khác không thỏa thuận được ly hôn thì vẫn có thể ly hôn đơn phương nếu như đáp ứng các điều kiện đã viện dẫn trên.
Hướng dẫn 13/HD-VKSTC về kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2021
Kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy Để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đạt và vượt chỉ tiêu trong Nghị quyết 96/2019/QH14. Tăng cường trách nhiệm công tố và kiểm soát chặt các hoạt động tư pháp... cùng phương châm "Đoàn kết, đổi mới - Trách nhiệm, kỷ cương - Thực chất, hiệu quả", ngày 15/1/2021 VKSNDTC ban hành hướng dẫn 13/HD-VKSTC công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2021 hướng dẫn VKS các cấp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2021 với một số nhiệm vụ cụ thể về: - Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp: + Về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về ma túy + Trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can + Trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam + Trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án hình sự về ma túy + Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy + Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc giải quyết đơn khiểu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp + Công tác phối hợp - Về công tác tương trợ tư pháp - Công tác kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với VKS cấp dưới - Chấp hành chế độ báo cáo Mời bạn xem chi tiết hướng dẫn cụ thể tại file đính kèm:
Một số kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính ở giai đoạn sơ thẩm
Nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính ở giai đoạn sơ thẩm Luật Tố tụng hành chính 2015 được xây dựng dựa trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp luật Tố tụng hành chính 2011, kế thừa kinh nghiệm giải quyết các vụ án hành chính từ thực tiễn xét xử của tòa án và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm từ nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội và của quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Với sự thay đổi của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật Tố tụng hành chính 2015 ra đời, có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2016 cũng có nhiều điểm mới, đặc biệt là thẩm quyền của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính được mở rộng, trong đó có quyền phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại phiên tòa xét xử. Bên cạnh đó, việc mở rộng thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh mà cụ thể là đối với khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch và UBND cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh sẽ do TAND cấp tỉnh giải quyết, dẫn đến số lượng án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của VKSND thành phố Hà Nội tăng đột biến, nhưng tỷ lệ giải quyết lại chưa cao (năm 2017, VKSND thành phố Hà Nội thụ lý hơn 300 vụ giải quyết 73 vụ; năm 2018, thụ lý 883, giải quyết 203 vụ; năm 2019, thụ lý 994, giải quyết 355 vụ). Chỉ tính riêng 10 tháng năm 2020, tổng số lượng án hành chính VKSND thành phố Hà Nội thụ lý là 928 vụ, trong đó, tòa án đã giải quyết 280 vụ, hiện còn tồn 648 vụ. Các khiếu kiện hành chính chủ yếu liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai. Có thể nói, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển đô thị hóa, tình hình khiếu kiện trong lĩnh vực hành chính nói chung và lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng gia tăng về số lượng, đa dạng và phức tạp về tính chất, chiếm khoảng 90% số lượng các vụ án hành chính mà TAND thành phố Hà Nội phải giải quyết hàng năm; trong đó, khiếu kiện hành chính về đất đai tại đô thị chiếm 30%. Do đó, để giải quyết một cách hiệu quả loại án này thì trước hết chúng ta phải nâng cao chất lượng nghiên cứu và có phương pháp nghiên cứu hồ sơ chuyên sâu, áp dụng căn cứ pháp luật chính xác. Cụ thể: 1. Về phần tố tụng, Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề cơ bản sau Thứ nhất, xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính Khi nhận được thông báo thụ lý, Kiểm sát viên phải xác định đối tượng khởi kiện là Quyết định hành chính hay hành vi hành chính? do chủ thể nào ban hành? đối tượng khởi kiện (Quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị kiện) có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện hay không? từ đó, mới xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không? Nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp nào theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 Luật TTHC. Thứ hai, nắm vững các trường hợp trả lại đơn khởi kiện Khi đương sự có đơn khởi kiện gửi Tòa án thì bước đầu tiên của Thẩm phán được phân công thụ lý đơn là xem xét đơn khởi kiện có thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 123 Luật TTHC hay không. Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các trường hợp trả lại đơn khởi kiện để nếu như đương sự có khiếu nại việc trả lại đơn hoặc Viện kiểm sát kiến nghị việc trả lại đơn thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên họp và đề xuất quan điểm việc giữ nguyên việc trả lại đơn hay nhận lại đơn khởi kiện. Thứ ba, xác định rõ nội dung khởi kiện khi nghiên cứu hồ sơ Sau khi Tòa án thu thập chứng cứ đầy đủ, mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại xong, nếu vụ án không thuộc trường hợp đình chỉ hoặc tạm đình chỉ theo Điều 141 và Điều 143 Luật TTHC thì tòa án sẽ ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn 15 ngày theo Điều 147 Luật TTHC. Khi nhận được hồ sơ thì Kiểm sát viên lưu ý phải đọc kỹ đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung của đương sự, xem họ khởi kiện về vấn đề gì, có phù hợp với nội dung trong thông báo thụ lý vụ án không? Thứ tư, xem xét về vấn đề thời hiệu khởi kiện Kiểm sát viên khi xem xét đến Quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khiếu kiện cần chú ý các văn bản này còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 116 Luật TTHC không? Nếu hết thời hiệu khởi kiện thì phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, xem có lý do khách quan hoặc trường hợp bất khả kháng khiến cho người khởi kiện không khởi kiện đúng thời hạn hay không? Thứ năm, xác định tư cách người tham gia tố tụng Về xác định tư cách người tham gia tố tụng phải lưu ý Quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu kiện có liên quan đến một hay nhiều người, tránh bỏ sót người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ví dụ: Khiếu kiện quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất đối với hộ gia đình thì ngoài người khởi kiện còn phải đưa các thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm có quyết định thu hồi đất vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nếu những người đó có văn bản ủy quyền thì phải kiểm tra xem đủ các thành viên chưa. Thứ sáu, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính, Kiểm sát viên cần phải lưu ý việc ủy quyền phải đúng quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật TTHC. Thứ bảy, việc thực hiện quyền yêu cầu và quyền kiến nghị Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu và kiến nghị theo quy định tại Điều 25 Luật TTHC. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ phát hiện cần phải xác minh thu thập tài liệu chứng cứ thì lúc này Kiểm sát viên sẽ thực hiện quyền yêu cầu. Đây là một nội dung quan trọng trong quá trình nghiên cứu và giải quyết vụ án bởi chỉ khi có đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì việc giải quyết vụ án hành chính mới khách quan, đúng quy định của pháp luật. Đối với quyền kiến nghị thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong giải quyết vụ án hành chính và kiến nghị Tòa án áp dụng hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ví dụ: trường hợp Tòa án có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử, chuyển các văn bản tố tụng cho VKS chậm hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 66 Luật TTHC trong trường hợp cần áp dụng thì Viện kiểm sát có quyền ban hành kiến nghị đối với từng vi phạm cụ thể. Trong thực tiễn giải quyết án hành chính, việc áp dụng quyền yêu cầu hay kiến nghị cũng là một nội dung tương đối khó bởi luật quy định cũng chưa rõ ràng. Điều 25 chỉ quy định quyền của Viện kiểm sát từ khi thụ lý vụ án đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án, trong đó có nói đến việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị nhưng không nêu rõ khi nào thì thực hiện quyền yêu cầu và khi nào thực hiện quyền kiến nghị. Do đó, để thực hiện tốt các quyền này, KSV cần phải nghiên cứu kỹ Điều 43 Luật TTHC quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên. Thứ tám, về tài liệu, chứng cứ Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Kiểm sát viên cũng cần lưu ý đến vấn đề tài liệu, chứng cứ, trong đó, có biên bản phiên họp công khai chứng cứ và đối thoại. Về cơ bản, các căn cứ khởi kiện cũng như tài liệu do người bị kiện xuất trình phải được thể hiện trong biên bản này bởi có trường hợp tại phiên tòa người khởi kiện hoặc luật sư của người khởi kiện yêu cầu Tòa án ngừng phiên tòa để thu thập thêm tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, nếu có căn cứ thì Viện kiểm sát có ý kiến cho ngừng phiên tòa, nếu thấy yêu cầu thu thập tài liệu này không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục và có quan điểm tại phiên họp công khai chứng cứ và đối thoại các bên đã cam đoan không còn tài liệu nào khác. Về vấn đề thu thập tài liệu chứng cứ, Kiểm sát viên cần lưu ý: Viện kiểm sát chỉ có thể tự xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ để thực hiện quyền kháng nghị theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật TTHC. 2. Về việc giải quyết nội dung vụ án Để đảm bảo giải quyết vụ án khách quan, đúng quy định pháp luật thì nhiệm vụ của Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ bên cạnh việc kiểm tra các thủ tục tố tụng thì việc giải quyết nội dung, hướng giải quyết vụ án cũng cần có quan điểm rõ ràng, đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể: Kiểm sát viên phải nắm vững căn cứ pháp luật và các văn bản có liên quan để xác định tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khởi kiện xem trình tự, thủ tục, thẩm quyền và căn cứ ban hành Quyết định hành chính trong từng vụ việc cụ thể có đúng không? Nếu là khiếu kiện về hành vi hành chính thì phải xác định cơ quan, người có thẩm quyền nếu không thực hiện hành vi hoặc nếu thực hiện hành vi thì có ai bị ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp bởi hành vi đó hay không? Bởi sự khách quan đúng pháp luật của vụ án chỉ có thể được xác định trên cơ sở tổng hợp các thông tin về vụ án và các thông tin này được phản ảnh qua các tài liệu, chứng cứ của vụ án do Tòa án thu thập. Ví dụ: Khi nghiên cứu một vụ án hành chính vể khiếu kiện đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất: Khi có yêu cầu khởi kiện của đương sự và Tòa án thụ lý, sau đó Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát. Lúc này, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là ngoài kiểm tra về thủ tục tố tụng phải nghiên cứu xem trong hồ sơ Tòa án đã thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án chưa. Kiểm sát viên cần xác định quyết định thu hồi đất của UBND là loại đất gì, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư có thể hiện đúng nguồn gốc đất và loại đất không? Việc áp dụng mức bồi thường có đúng loại đất, đúng căn cứ không... Ngoài ra, cũng cần phải căn cứ vào quá trình sử dụng đất, việc kê khai, đăng ký đất và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, từ đó đối chiếu với quy định của pháp luật tại thời điểm phê duyệt phương án xem phương án bồi thường, hỗ trợ đã đúng chưa, nếu chưa thì sẽ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện và hủy phương án bồi thường, hỗ trợ. Như vậy để nghiên cứu một hồ sơ vụ án hành chính theo trình tự sơ thẩm đạt hiệu quả, Kiểm sát viên buộc phải nghiên cứu kỹ về thủ tục tố tụng cũng như quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. Phải xác định rõ xem cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định hoặc thực hiện hành vi hành chính đúng hay sai, nếu thấy cần thiết phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ mới giải quyết vụ án một cách khách quan thì chúng ta thực hiện quyền yêu cầu hoặc quyền kiến nghị. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên mới có thể đề xuất, báo cáo vụ án với Lãnh đạo một cách rõ ràng và đưa ra quan điểm giải quyết đúng đắn. Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án là cơ sở, tiền đề quan trọng nhất để Kiểm sát viên tham gia phiên tòa tự tin, thể hiện vai trò, vị thế của Viện kiểm sát; đồng thời, tạo niềm tin cho các đương sự tham gia tố tụng, từ đó khắc phục tình trạng khiếu kiện kéo dài, hạn chế việc khiếu nại trở thành điểm nóng, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn và quan trọng nhất là phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương./. Phòng 10 - VKSND thành phố Hà Nội vkshanoi.gov.vn Theo Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm
ThS LÊ ĐÌNH NGHĨA (Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5) - BLTTHS năm 2015, quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm tại điểm b khoản 2 Điều 45; khoản 2 Điều 174; Điều 246; điểm b khoản 1 Điều 277 và Điều 280 BLTTHS. Qua thực tiễn xét xử, còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 1.Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định trong BLTTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Qua thực tiễn xét xử, còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể như sau: Thứ nhất, khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần”. Theo quy định trên quá trình giải quyết vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa HĐXX chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Đồng thời buộc Thẩm phán phải nêu cao tinh thần trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, phát hiện các vấn đề cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tránh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần. Thực tế có những trường hợp sau khi Thẩm phán, HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trường hợp này phải giải quyết như thế nào khi Tòa án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan chức năng hướng dẫn cụ thể. Thứ hai, khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT hướng dẫn “Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung” hướng dẫn này hiện nay có những quan điểm, cách hiểu khác nhau. Quan điểm thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ sung tất cả các yêu cầu của Tòa án nhưng còn sót vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án hoặc có điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án, trong thời hạn 15 ngày Thẩm phán được quyền tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung (lần 2 trong thời hạn chuẩn bị xét xử) và nêu rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung như hướng dẫn. Quan điểm thứ hai: Trường hợp này, Thẩm phán không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung và nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT. Quan điểm của tác giả: BLTTHS quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần và HĐXX được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Tuy nhiên, trường hợp Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án nhưng kết quả điều tra bổ sung còn sót những vấn đề Tòa án yêu cầu hoặc có điều tra bổ sung nhưng không đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước và nêu rõ lý do như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT. Bởi lẽ, trong trường hợp này Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề Viện kiểm sát đã chấp nhận nhưng điều tra bổ sung còn thiếu sót, chưa đạt yêu cầu, hoặc do điều tra bổ sung làm phát sinh các vấn đề mới cần Viện kiểm sát điều tra lại đầy đủ theo yêu cầu. Trường hợp nếu Viện kiểm sát điều tra đầy đủ, đúng yêu cầu và kết quả điều tra không làm phát sinh vấn đề gì mới, sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán phát hiện còn có vấn đề cần điều tra bổ sung nhưng quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa yêu cầu thì Thẩm phán không được trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, trường hợp này HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Thứ ba, khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định: ‘‘Kết thúc việc nghị án, HĐXX phải quyết định một trong các vấn đề: Ra bản án và tuyên án; Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ; Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án’’. BLTTHS không quy định các trường hợp HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên, theo hướng dẫn Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng là các trường hợp HĐXX trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa khi nào? Trường hợp thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng không phát hiện ra các vấn đề cần điều tra bổ sung hoặc tại phiên tòa xuất hiện các vấn đề mới mà tài liệu trong hồ sơ vụ án không phản ánh nên Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không phát hiện. Nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trường hợp thứ hai: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phát hiện những vấn đề trong vụ án chưa được làm rõ nhưng không trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung vì tự tin tại phiên tòa sẽ làm rõ hoặc bổ sung chứng cứ được, nhưng tại phiên tòa không bổ sung, làm rõ chứng cứ được thì HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa, HĐXX thấy có những vấn đề thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS mà trước đó Thẩm phán chưa trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì HĐXX trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Còn những vấn đề trước đó Thẩm phán đã trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát có văn bản trả lời là không có căn cứ thì HĐXX không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Thứ tư, khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Quy định trên được hiểu Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung và Viện kiểm sát thấy yêu cầu của Tòa án là có căn cứ và tiến hành điều tra bổ sung nhưng không bổ sung được và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án; nếu những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là những căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội, Viện kiểm sát không điều tra bổ sung (cho rằng không có căn cứ) và giữ nguyên quyết định truy tố, trường hợp này giải quyết như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ thì HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280 và điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 298 BLTTHS để giải quyết vụ án. Nếu tiếp tục trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ thì có trả tiếp chỉ kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Nếu không đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Sau đó, kiến nghị lên Tòa án cấp trên. Nếu trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung theo điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 298 BLTTHS xét xử vụ án và nhận định trong bản án. Thứ năm, trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định, kết luận định giá tài sản, cần giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản thì Tòa án trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hay Tòa án tiến hành yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản. Hiện nay, vấn đề này giữa Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm khác nhau. Quan điểm Viện kiểm sát cho rằng: Việc giám định, định giá tài sản đã tiến hành đúng theo trình tự thủ tục; kết quả giám định, định giá tài sản là đúng và khách quan, đầy đủ. Hơn nữa, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 252 BLTTHS nên Viện kiểm sát không tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả: Theo quy định tại khoản 1 Điều 210; khoản 1 Điều 211; khoản 1 Điều 218 BLTTHS: Các chứng cứ trên là cơ sở để Viện kiểm sát chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội ở khoản nào của điều luật, nhưng những chứng cứ quan trọng đó không thể bổ sung tại phiên tòa được. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là đúng theo quy định. 2.Một số kiến nghị Qua nghiên cứu chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm, tác giả có một số kiến nghị như sau: – Cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể khi nào Hội đồng xét xử trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; quy định rõ: “Viện kiểm sát phải trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản” hoặc quy định: “Tòa án trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản nếu có nghi ngờ kết quả giám định, định giá tài sản”. – Quy định cụ thể và xem xét xử lý trách nhiệm đối với những người tiến hành tố tụng khi để xảy ra việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung không có căn cứ. – Trường hợp sau khi Thẩm phán, Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tòa án phải giải quyết như thế nào khi Tòa án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Theo Tạp chí tòa án
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự: Áp dụng khi nào?
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Tố tụng Hình sự - Ảnh minh họa Khác với quy định trước đây về Thủ tục rút gọn, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS) quy định thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục này dành cho cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Vậy trong những trường hợp nào thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng? Trước tiên cần nắm được phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 455 BLTTHS: Điều 455. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này. Như vậy có thể thấy thủ tục rút gọn có thể được áp dụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và đặc biệt là cả với xét xử phúc thẩm. Đối với các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm, thủ tục rút gọn được ra quyết định thi hành khi có các căn cứ tại Khoản 1 Điều 456 BLTTHS: 1. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện: a) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; b) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; c) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; d) Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Trong những căn cứ nêu trên, tình tiết “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” được hiểu là những sự việc mà vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp và dễ xác định, vụ án ít bị cáo, các chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ từ đầu. Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm, căn cứ áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Khoản 2 Điều 456 như sau: 2. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện: a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy nêu trên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định này bị hủy bỏ trong trường hợp căn cứ áp dụng Thủ tục rút gọn tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Một số bất cập về quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
HOÀNG ĐÌNH DŨNG (TAQS khu vực Quân khu 4) - Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) có hiệu lực đã đánh dấu một sự thay đổi rất lớn về tư duy lập pháp và khắc phục được rất nhiều các hạn chế của BLTTHS 2003 sau hơn 10 năm thi hành. Tuy nhiên, quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn còn một số điểm bất cập khi áp dụng trên thực tế. Một trong những sự thay đổi “đột phá” trong BLTTHS 2015 đó là về giới hạn xét xử sơ thẩm. Quy định mới đã cho phép Hội đồng xét xử “linh hoạt” hơn và bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn còn một số điểm bất cập khi áp dụng trên thực tế. 1.Về mặt kỹ thuật lập pháp Thứ nhất, về tên gọi của điều luật. Điều 298 với tên gọi là “giới hạn xét xử” theo tác giả là chưa phù hợp với nội dung điều chỉnh của điều luật vì: Hiện nay, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Đây là hai giai đoạn riêng biệt trong các giai đoạn của tố tụng hình sự và được quy định ở hai chương khác nhau của BLTTHS. Tuy nhiên, Điều 298 lại nằm ở chương XXI của BLTTHS quy định về xét xử sơ thẩm nên nếu nhà làm luật muốn dùng một điều luật để điều chỉnh giới hạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì đặt ở vị trí này là không hợp lý. Mặt khác, nội dung của Điều 298 BLTTHS 2015 đang điều chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm. Bởi vì, theo Điều 345 BLTTHS thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị và chỉ trong một số trường hợp mới xem xét phần khác của bản án. Hơn nữa, tại khoản 3 Điều 298 quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Quy định việc cho phép Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát (VKS) để truy tố lại chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm. Vì tại Điều 355 BLTTHS 2015 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm thì không quy định quyền này. Như vậy, có thể thấy, nội dung của Điều 298 chỉ điều chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm mà nhà làm luật lại đặt tên điều luật là giới hạn xét xử là chưa phù hợp với nội dung điều chỉnh và vị trí của điều luật. Theo tác giả, nên đổi tên của Điều 298 là “giới hạn xét xử sơ thẩm” Thứ hai, khoản 1 Điều 298 quy định: “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” Và khoản 2 Điều 298 quy định: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.” Qua hai quy định có thể thấy sự chưa thống nhất trong quy định giữa hai khoản trong cùng một điều luật. Khoản 1 của điều luật quy định Tòa án xét xử những bị cáo và hành những hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố. Còn khoản 2 lại cho phép Tòa án xét xử về tội danh nhẹ hơn VKS truy tố là chưa thống nhất. Theo tác, Tòa án đóng vai trò là trọng tài chỉ xem xét những hành vi mà VKS đã truy tố. Trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ, quá trình xét hỏi và tranh luận thì mới định tội danh cho hành vi đó. Như vậy mới đảm bảo được sự độc lập của Tòa án trong xét xử. Chính vì những lý do đó, tác giả kiến nghị sửa khoản 1 Điều 298 BLTTHS 2015 như sau: “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” 2.Đối với trường hợp vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm Tại khoản 2 Điều 298 BLTTHS 2015 quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Việc Tòa án cấp sơ thẩm được phép xét xử bị cáo nặng hơn về tội danh mà VKS đã truy tố có thể dẫn đến vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Đó là trường hợp TAND cấp huyện hoặc TAQS cấp quân khu đang là Tòa án xét xử sơ thẩm đối với bị cáo bị cáo bị VKS truy tố về tội ít nghiêm trọng; nghiêm trọng; rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc vào khoản nặng hơn hoặc tội nặng hơn mà VKS đã truy tố và tội nặng đó lại thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực theo quy định tại Điều 268 BLTTHS 2015. Hơn nữa việc xét xử loại tội đặc biệt nghiêm trọng cũng dẫn đến sự thay đổi rất nhiều về thủ tục tố tụng như sự thay đổi về thành phần Hội đồng xét xử (Điều 254 BLTTHS 2015) và việc chỉ định người bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển vụ án theo quy định tại Điều 274 BLTTHS 2015. Tuy nhiên Điều 298 quy định về giới hạn xét xử lại chưa quy định cách giải quyết cụ thể đối với vấn đề này. Theo tác giả, nên bổ sung khoản 3 Điều 298 theo hướng như sau: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó; trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy tội danh cần xét xử vượt quá thẩm quyền xét xử thì chuyển vụ án” Tòa án nhân dân tp Kon Tum xét xử sơ thẩm vụ án hình sự – Ảnh: Đức Nhuận/ Báo KT Theo Tạp chí tòa án
Thông báo rút kinh nghiệm về vụ án hình sự bị huỷ để xét xử sơ thẩm lại
Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án Lê Thị T cùng đồng phạm, phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” bị huỷ án để xét xử sơ thẩm lại, VKSND cấp cao Đà Nẵng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm để các Viện kiểm sát trong khu vực rút kinh nghiệm chung. Nội dung thông báo như sau: 1. Nội dung vụ án Khoảng 12 giờ ngày 07/01/2018, Lê Thị T thuê Đào Duy V điều khiển xe ô tô biển kiểm soát “H” vận chuyển hành khách từ thành phố Đ lên huyện B và ngược lại. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, xe lên đến bến xe huyện B, V dừng xe ở đó rồi đi ăn uống và đi chơi. Tại đây, T mua một số hàng hoá đưa về thành phố Đ bán lại kiếm lời. Sau khi cất giấu toàn bộ số hàng hoá trên vào trong thùng xe, T gặp một người phụ nữ lạ mặt (không rõ nhân thân, địa chỉ) thuê chở 5.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet từ Km50 Quốc lộ A về thành phố Đ với giá cước 150.000 đồng, T đồng ý và cho nguời phụ nữ số điện thoại để liên lạc. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Đào Duy V lái xe về thành phố Đ, trên đường đi, T nói với V đến Km50 Quốc lộ A thì V dừng xe để bốc 5.000 bao thuốc lá hiệu Jet, được đựng trong 10 bao gai màu xanh lên sau cốp xe. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, V điều khiển xe ô tô đến Km 25+300 Quốc lộ A thuộc địa phận xã T, huyện L, tỉnh Q thì bị lực lượng Công an huyện L phát hiện bắt quả tang, thu giữ 5.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet cùng toàn bộ số hàng hoá trên xe. Tại Kết luận giám định số 128/C54C (DD4) ngày 02/3/2018, Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: 100 bao thuốc lá mang nhãn hiệu Jet được đựng trong 10 hộp giấy màu trắng, bên ngoài mỗi hộp có chữ SPECIAL BLEND, JET, FILTEKINGSCIGARTTES ký hiệu từ số 01 – 10 gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu Jet, được sản xuất tại nước ngoài. 2. Quá trình tố tụng Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 17/8/2018 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Q đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Thị T, Đào Duy V phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Lê Thị T: 308.000.000 đồng, Đào Duy V: 304.000.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 612.000.000 đồng các bị cáo nộp vào tài khoản tạm giữ số 3949xxxxx1 của Chi cục Thi hành án huyện L ngày 16/8/2018 để đảm bảo thi hành án. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 4.900 bao thuốc là điếu hiệu Jet còn lại sau giám định và 10 bao gai màu xanh; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 150.000 đồng, số tiền này có tại tài khoản tạm giữ số 3949xxxxx2 tại Kho bạc Nhà nước huyện L nộp ngày 05/3/2018 (các vật chứng trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo biên bản giao vật chứng ngày 04/6/2018); trả lại cho bị cáo Đào Duy V 01 giấy phép lái xe hạng D (có tại hồ sơ vụ án). Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. - Kháng nghị số 1323/QĐ-VKS-P7 ngày 14/9/2018 của VKSND tỉnh Q kháng nghị toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm đề nghị TAND tỉnh Q xét xử vụ án theo hướng huỷ Bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại. - Bản án hình sự phúc thẩm số 14/2018/HSPT ngày 21/11/2018 của TAND tỉnh Q tuyên không chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngày 03/9/2019, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 85/QĐ-VC2 đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng huỷ Bản án hình sự phúc thẩm số 14/2018/HS-PT ngày 21/11/2018 của TAND tỉnh Q và Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 17/8/2018 của TAND huyện L, tỉnh Q về phần hình phạt đối với các bị cáo Lê Thị T, Đào Duy V để xét xử sơ thẩm theo hướng không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Q để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Các bị cáo Lê Thi T, Đào Duy V bị xét xử về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ. Theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo dưới khung hình phạt, tuyên hình phạt tiền là chưa đúng quy định của pháp luật. Xét về nhân thân của bị cáo Lê Thị T, ngày 26/6/2012 bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính số tiền 50.000.000 đồng về hành vi “Vận chuyển hàng cấm”; ngày 05/11/2014, bị Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính số tiền 52.500.000 đồng về hành vi “Vận chuyển lâm sản trái phép” và “Buôn bán hàng cấm”; bị cáo có 01 tiền sự ngày 21/8/2017, bị đội Kiểm soát Hải quan tỉnh Q ra Quyết định số 237/QĐ-KSHQ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan với số tiền 1.750.000 đồng về hành vi “Mua bán hàng hoá nhập khẩu không có chứng từ hợp pháp trong địa bàn hoạt động Hải quan”. Ngày 07/01/2018, bị cáo cùng bị cáo Đào Duy V thực hiện hành vi vận chuyển 5.000 bao thuốc lá hiệu Jet do nước ngoài sản xuất thì bị cáo còn thực hiện hành vi mua và vận chuyển các loại hàng hoá nhập lậu khác, vi phạm điểm i, khoản 1, Điều 17 Nghị định 185/2013/NĐ-CP về “Hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lậu”. Uỷ ban nhân dân tỉnh Q đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 277/QĐ-XPVPHC ngày 06/12/2018 đối với Lê Thị T. Đối với bị cáo Đào Duy V, ngày 31/01/2013, bị Phòng PC46 – Công an tỉnh Q xử phạt số tiền 5.500.000 đồng về hành vi “Vận chuyển hàng nhập lậu”. Bị cáo có một tiền sự ngày 02/4/2017, bị đội Kiểm soát Phòng chống ma tuý cục Hải quản tỉnh Q ra Quyết định số 44/QĐ-KSMT xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan với số tiền 1.750.000 đồng về hành vi “Mua bán hàng hoá nhập khẩu không có chứng từ hợp pháp trong địa bàn hoạt động Hải quan”. Các bị cáo Lê Thị T và Đào Duy V có tiền sự, nhiều lần bị xử lý hành chính về hành vi vi phạm trật tự quản lý kinh doanh và gian lận thương mại Nhà nước, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, là hành vi nguy hiểm hơn so với các hành vi đã bị xử phạt hành chính trước đó, nên không thể xem là ăn năn, hối cải. Các bị cáo chỉ đủ điều kiện được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng cấp sơ thẩm và phúc thẩm lại áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xét xử các bị cáo dưới khung hình phạt và áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo là không đúng quy định, không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Ngoài ra, trong vụ án Lê Thị T và anh Lê Văn H kết hôn từ năm 2003, nhưng đến tháng 11/2016, anh Hùng mới mua xe ô tô biển kiểm soát “H” nên chiếc xe ô tô này là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm nhận định “Chiếc xe ô tô là tài sản riêng của anh H, đăng ký quyền sở hữu mang tiên Lê Văn H, bị cáo T sử dụng vào việc phạm tội, anh H không biết; do đó, việc trả lại tài sản này cho chủ sở hữu của Cơ quan điều tra là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại” là không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, đề nghị TAND huyện L, tỉnh Q khi xét xử sơ thẩm lại thì xử lý vật chứng xe ô tô biển kiểm soát “H” theo đúng quy định pháp luật./ TL (tổng hợp) Theo Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Giải đáp: Vì sao cựu lãnh đạo Đà Nẵng cùng Vũ nhôm lại bị xét xử ở Hà Nội?
Đây là thắc mắc của nhiều người khi theo dõi vụ án liên quan đến các bất động sản ở Đà Nẵng. Được biết tất cả các bị can đều có hộ khẩu thường trú ở Đà Nẵng, các bất động sản liên quan đến vụ án đều ở Đà Nẵng, hành vi phạm tội cũng xảy ra ở Đà Nẵng nhưng lại được xét xử sơ thẩm ở TAND TP. Hà Nội. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì “đáng lẽ ra” vụ án này phải được xét xử sơ thẩm tại TAND TP Đà Nẵng. Tuy nhiên nhiều người sẽ không để ý rằng, BLTTHS có quy định về thẩm quyền truy tố của VKSND. Theo đó, vụ án này thì việc thực hành quyền công tố và kiểm sát thuộc VKSND Tối cao. Khoản 1 Điều 239 BLTTHS có quy định: Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo đúng quy định của Bộ luật này. Như vậy, việc phân công VKSND cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW để thực hiện quyền công tố, kiểm sát theo đúng trình tự tố tụng là đúng quy định theo quy định tại Quyết định 314/QĐ-VKSTC. Và không có quy định nào bắt buộc là VKSND tối cao phải phân công VKSND Đà Nẵng thực hiện quyền công tố và kiểm sát vụ án này cả. Cụ thể ở đây VKSDN TP Hà Nội là đơn vị được phân công, và kết quả là vụ án được truy tố sau đó được xét xử theo thủ tục sơ thẩm tại TAND TP Hà Nội là đúng với quy định.
Chế độ làm việc của công chức khi kháng cáo bản án sơ thẩm
Đồng nghiệp của tôi là công chức bị Tòa án sơ thẩm tuyên án 3 năm tù. Đồng nghiệp của tôi đã có kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm. Vậy trong thời gian chờ Tòa án phúc thẩm đưa ra xét xử lại Bản án sơ thẩm thì đồng nghiệp của tôi hiện đang trong tình trạng không bị tạm giam thì có được đi làm và hưởng lương như thế nào? Xin mọi người giúp đỡ.
huynhtuan0812 viết: Chào bạn, Theo những gì tôi biết thì mức án phí sơ thẩm = 5% giá trị tài sản tranh chấp. Mức tạm ứng án phí = 50% giá trị mức án phí sơ thẩm. Trong trường hợp hòa giải thành trước khi xét xử thì mức án phí hòa giải thành = 50% mức án phí sơ thẩm. Trong yêu cầu khởi kiện, nếu bạn nêu thêm lãi suất thì tài sản tranh chấp = nợ gốc và lãi. Thực sự là trước giờ tôi chưa trực tiếp đóng án phí lần nào nên phần này là do người khác chỉ, nên thực tế có khác thì các bạn chia sẻ cho mọi người mở mang kiến thức. Chào bạn! Không phải lúc nào số tiền án phí sơ thẩm cũng là 5% giá trị tài sản tranh chấp, mà tùy vào giá trị tài sản mà mức án phí là khác nhau: Theo pháp lệnh án phí 10/2009/UBTVQH12 thì: 2. Mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về tranh chấp dân sự có giá ngạch: Giá trị tài sản có tranh chấp Mức án phí a) từ 4.000.000 đồng trở xuống 200.000 đồng b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d) Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng e) Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng. Tiền tạm ứng án phí, nếu đương sự yêu cầu lãi suất tính theo quy định của pháp luật, thì tiền tạm ứng án phí Tòa án căn cứ dựa trên số tiền nợ gốc. Tiền án phí nếu có yêu cầu lãi suất thì: Tiền án phí được tính bao gồm tiền gốc + lãi để tính án phí. Nếu các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án => Tòa án ra QĐ công nhận thỏa thuận của các đương sự => Tiền án phí được giảm 50% (tức là = 1/2 mức án phí nếu vụ án được đưa ra xét xử).
Vợ ngoại tình thì phải chịu án phí sơ thẩm?
Theo quy định hiện nay thì đối với vụ án hôn nhân và gia đình thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như thế nào trong trường hợp chồng có đơn kiện ly hôn vợ, nếu nguyên nhân dẫn đến ly hôn do Vợ ngoại tình thì phải chịu án phí sơ thẩm có đúng không? Vợ ngoại tình thì phải chịu án phí sơ thẩm? Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau: 1. Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm. 2. Trường hợp các đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi đương sự phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng. 3. Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 4. Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. 5. Trong vụ án có đương sự được miễn án phí sơ thẩm thì đương sự khác vẫn phải nộp án phí sơ thẩm mà mình phải chịu theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này. 6. Trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết thì nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định tại Điều này. Do đó, Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Hay nói cách khác nếu vợ ngoại tình nhưng người yêu cầu ly hôn là chồng thì chồng phải chịu với tư cách nguyên đơn. Quy định về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án? Căn cứ Điều 17 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án như sau: 1. Thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự: - Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng; - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án cấp sơ thẩm về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 2. Thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí hành chính: - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm, người khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án hành chính phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng; - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án cấp sơ thẩm về việc nộp tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm, tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm trong vụ án hành chính, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 3. Thời hạn nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án: - Tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự: Người phải nộp tiền tạm ứng lệ phí có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng lệ phí sơ thẩm, phúc thẩm và nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng; - Tạm ứng lệ phí Tòa án khác: Người kháng cáo quyết định của Tòa án quy định tại khoản 5 Điều 38, khoản 4 Điều 39 của Nghị quyết này phải nộp tiền tạm ứng lệ phí kháng cáo trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 4. Trường hợp có lý do chính đáng theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này là những trường hợp có trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động hoặc những sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép làm cho người có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án không thể thực hiện được việc nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án trong thời hạn quy định. 5. Thời hạn nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án: - Người có nghĩa vụ nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án phải nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; - Người yêu cầu Tòa án giải quyết các việc quy định tại các điều từ Điều 38 đến Điều 45 của Nghị quyết này phải nộp tiền lệ phí cho cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 10 của Nghị quyết này trong thời hạn do pháp luật quy định. Trên đây là quy định về thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án hiện hành.
Án phí ly hôn hiện nay là bao nhiêu và ai sẽ là người trả?
Năm 2024 án phí ly hôn sơ thẩm là bao nhiêu? Ai sẽ là người phải chịu mức án phí này? Bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Án phí ly hôn hiện nay là bao nhiêu? Theo Điều 24 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì án phí dân sự có giá ngạch và án phí dân sự không có giá ngạch chỉ áp dụng đối với các vụ án dân sự sơ thẩm, trong đó: - Vụ án dân sự không có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự không phải là một số tiền hoặc không thể xác định được giá trị bằng một số tiền cụ thể. - Vụ án dân sự có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự là một số tiền hoặc là tài sản có thể xác định được bằng một số tiền cụ thể. Theo đó, Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định án phí ly hôn sơ thẩm như sau: 1 Án phí dân sự sơ thẩm 1.1 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch 300.000 đồng 1.3 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000. 000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng. Như vậy, năm 2024 mức án phí ly hôn không có giá ngạch là 300 nghìn đồng, trường hợp có thêm các yêu cầu về tiền, tài sản (có giá ngạch) sẽ được xác định theo giá trị của tài sản được yêu cầu giải quyết. Ai sẽ là người trả án phí ly hôn? Theo khoản 3, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định: - Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. - Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. Như vậy, nếu đơn phương ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm không phụ thuộc vào việc đơn yêu cầu có được chấp thuận hay không. Nếu ly hôn thuận tình, mỗi bên chịu một nửa án phí hoặc 02 bên tự thỏa thuận. Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và tranh chấp về quyền sử dụng đất 02 bên phải chịu án phí theo giá trị tài sản. Ngoài ra, nếu tại phiên hòa giải trước phiên Toà mà hai bên đương sự tự thỏa thuận giải quyết được với nhau thì sẽ chỉ chịu 50% án phí ly hôn. Trường hợp nào được miễn án phí ly hôn? Theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí: - Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; - Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; - Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; - Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; - Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ. Như vậy, cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ sẽ được miễn án phí ly hôn. https://cdn.thuvienphapluat.vn//uploads/danluatfile/2024/05/30/don-de-nghi-mien-an-phi.doc Mẫu đơn đề nghị miễn tạm ứng án phí, án phí phí mới nhất
Bị cáo không kháng cáo thì Tòa có áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được không?
Mới đây, TAND cấp cao TPHCM xét xử phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phương Hằng đã tuyên bố giảm án 3 tháng phạt tù cho bị cáo dù bị cáo không kháng cáo. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm án khi bị cáo không kháng cáo có đúng với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? (1) Khi nào thì được mở phiên tòa phúc thẩm? Theo Điều 27 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo như sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 - Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật - Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về tính chất của phiên xét xử phúc thẩm, khoản 1 Điều 330 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: - Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Căn cứ vào 2 quy định trên, để mở phiên tòa phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng nghị từ đương sự hoặc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị với bản án quyết định sơ thẩm trong thời hạn quy định thì bản án sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực thi hành. Trong vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng, mặc dù bà Hằng cho rằng mức án 3 năm tù đối tội của bà là quá cao, tuy nhiên bà cũng không kháng cáo. Do bà Hằng không kháng cáo trong thời hạn quy định, bản án của tòa cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực, nghĩa là bà Hằng phải thi hành án phạt tù 03 năm theo như bản án quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, các đồng phạm của bà trong vụ việc này đã làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên bản án, quyết định sơ thẩm đối với các bị cáo này là chưa có hiệu lực. Tòa án cấp cao sẽ mở phiên xét xử phúc thẩm để xét xử hoặc xem xét lại quyết định, bản án cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 Do đó, việc tổ chức phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng là hoàn toàn đúng thủ tục tố tụng. (2) Bị cáo không kháng cáo có được giảm nhẹ hình phạt? Theo Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về việc sửa bản án sơ thẩm như sau: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: - Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; - Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; - Giảm hình phạt cho bị cáo; - Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; - Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: - Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; - Tăng mức bồi thường thiệt hại; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; - Không cho bị cáo hưởng án treo. - Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. - Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định trên, HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy có điểm chưa đúng trong bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khi vụ án có thêm tình tiết mới. Trong đó, HĐXX có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo hoặc tăng nặng tùy theo các tình tiết mới mà các bên cung cấp. Tại khoản 3 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng có nhắc đến trường hợp bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo nhưng HĐXX có căn cứ về tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. Do đó, tuy bà Hằng không làm kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, nhưng HĐXX xét thấy bị cáo đã nộp đầy đủ án phí, khắc phục thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Có lẽ với tình tiết giảm nhẹ đó và sự thành khẩn, ăn năn của bà Hằng, HĐXX đã có đủ căn cứ để sửa lại bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Phương Hằng theo quy định tại Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. (3) Sau khi được giảm án, bà Phương Hằng còn phải chấp hành phạt tù đến khi nào? Bà Phương Hằng bị bắt tạm giam vào ngày 24/3/2022. Tính từ ngày bị bắt tạm giam đến nay (5/4), bà Hằng đã chấp hành án được 2 năm 11 ngày. Như vậy, bà Hằng còn phải chấp hành bản án trên đến ngày 24/12/2024, tức còn 8 tháng 19 ngày là hết thời gian phạt tù.
Lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm có được xem là chứng cứ không?
Liên quan đến trường hợp xác định chứng cứ trong vụ án dân sự, thông thường thì nguyên đơn sẽ nộp các chứng cứ kèm theo trong suốt quá trình từ trước khi thụ lý đến trước thời điểm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, vậy nếu trong quá trình đó nguyên đơn thiếu chứng cứ hoặc chưa bổ sung kịp thì lời khai tại phiên tòa có thể được xem là chứng cứ không? Lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm có được xem là chứng cứ không? Căn cứ Khoản 5 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định xác định chứng cứ như sau: 1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. 2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. 3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. 4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc. 5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. 6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định. Vấn đề về giao nộp tài liệu, chứng cứ theo quy định hiện hành? Căn cứ Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ như sau: 1. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự. 2. Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ. 3. Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. 4. Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự. 5. Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. Quy định về nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự? Căn cứ Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ chứng minh như sau: 1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây: - Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; - Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động; - Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh. 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. 3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Do đó, không chỉ những chứng cứ nộp trước phiên xét xử mới được chấp nhận mà thay vào đó lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa
Chồng phải chịu án phí sơ thẩm khi ly hôn?
Chồng phải chịu án phí sơ thẩm khi ly hôn? Tình huống phát sinh: Em và chồng em mới thống nhất việc ly hôn theo thỏa thuận, mặc dù trước đó em không chịu. Tuy nhiên, hiện tại đã đi đến thống nhất sẽ ly hôn và nếu sau này nộp lên Tòa, và Tòa cũng giải quyết ly hôn thì tiền án phí chồng chịu đúng không ? Nếu như không thống nhất được thuận tình ly hôn thì một trong hai người có thể ly hôn đơn phương? Hơn nữa vấn đề về chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn quy định thế nào? Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về Nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau: - Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm. - Trường hợp các đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi đương sự phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng. - Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. - Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. Không thỏa thuận được thuận tình ly hôn thì một trong hai người có thể ly hôn đơn phương? Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: - Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. - Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. - Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn quy định thế nào? Căn cứ Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn như sau: - Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. - Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau: + Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 . Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; + Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; + Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 + Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai. - Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 Do đó, vì đây là vụ việc ly hôn nên trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. Không đặt ra quy định chỉ mình chồng chịu trong trường hợp trên. Mặt khác không thỏa thuận được ly hôn thì vẫn có thể ly hôn đơn phương nếu như đáp ứng các điều kiện đã viện dẫn trên.
Hướng dẫn 13/HD-VKSTC về kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2021
Kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy Để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đạt và vượt chỉ tiêu trong Nghị quyết 96/2019/QH14. Tăng cường trách nhiệm công tố và kiểm soát chặt các hoạt động tư pháp... cùng phương châm "Đoàn kết, đổi mới - Trách nhiệm, kỷ cương - Thực chất, hiệu quả", ngày 15/1/2021 VKSNDTC ban hành hướng dẫn 13/HD-VKSTC công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2021 hướng dẫn VKS các cấp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2021 với một số nhiệm vụ cụ thể về: - Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp: + Về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về ma túy + Trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can + Trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam + Trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án hình sự về ma túy + Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy + Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc giải quyết đơn khiểu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp + Công tác phối hợp - Về công tác tương trợ tư pháp - Công tác kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với VKS cấp dưới - Chấp hành chế độ báo cáo Mời bạn xem chi tiết hướng dẫn cụ thể tại file đính kèm:
Một số kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính ở giai đoạn sơ thẩm
Nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính ở giai đoạn sơ thẩm Luật Tố tụng hành chính 2015 được xây dựng dựa trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp luật Tố tụng hành chính 2011, kế thừa kinh nghiệm giải quyết các vụ án hành chính từ thực tiễn xét xử của tòa án và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm từ nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội và của quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Với sự thay đổi của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật Tố tụng hành chính 2015 ra đời, có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2016 cũng có nhiều điểm mới, đặc biệt là thẩm quyền của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính được mở rộng, trong đó có quyền phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại phiên tòa xét xử. Bên cạnh đó, việc mở rộng thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh mà cụ thể là đối với khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch và UBND cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh sẽ do TAND cấp tỉnh giải quyết, dẫn đến số lượng án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của VKSND thành phố Hà Nội tăng đột biến, nhưng tỷ lệ giải quyết lại chưa cao (năm 2017, VKSND thành phố Hà Nội thụ lý hơn 300 vụ giải quyết 73 vụ; năm 2018, thụ lý 883, giải quyết 203 vụ; năm 2019, thụ lý 994, giải quyết 355 vụ). Chỉ tính riêng 10 tháng năm 2020, tổng số lượng án hành chính VKSND thành phố Hà Nội thụ lý là 928 vụ, trong đó, tòa án đã giải quyết 280 vụ, hiện còn tồn 648 vụ. Các khiếu kiện hành chính chủ yếu liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai. Có thể nói, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển đô thị hóa, tình hình khiếu kiện trong lĩnh vực hành chính nói chung và lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng gia tăng về số lượng, đa dạng và phức tạp về tính chất, chiếm khoảng 90% số lượng các vụ án hành chính mà TAND thành phố Hà Nội phải giải quyết hàng năm; trong đó, khiếu kiện hành chính về đất đai tại đô thị chiếm 30%. Do đó, để giải quyết một cách hiệu quả loại án này thì trước hết chúng ta phải nâng cao chất lượng nghiên cứu và có phương pháp nghiên cứu hồ sơ chuyên sâu, áp dụng căn cứ pháp luật chính xác. Cụ thể: 1. Về phần tố tụng, Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề cơ bản sau Thứ nhất, xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính Khi nhận được thông báo thụ lý, Kiểm sát viên phải xác định đối tượng khởi kiện là Quyết định hành chính hay hành vi hành chính? do chủ thể nào ban hành? đối tượng khởi kiện (Quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị kiện) có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện hay không? từ đó, mới xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không? Nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp nào theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 Luật TTHC. Thứ hai, nắm vững các trường hợp trả lại đơn khởi kiện Khi đương sự có đơn khởi kiện gửi Tòa án thì bước đầu tiên của Thẩm phán được phân công thụ lý đơn là xem xét đơn khởi kiện có thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 123 Luật TTHC hay không. Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các trường hợp trả lại đơn khởi kiện để nếu như đương sự có khiếu nại việc trả lại đơn hoặc Viện kiểm sát kiến nghị việc trả lại đơn thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên họp và đề xuất quan điểm việc giữ nguyên việc trả lại đơn hay nhận lại đơn khởi kiện. Thứ ba, xác định rõ nội dung khởi kiện khi nghiên cứu hồ sơ Sau khi Tòa án thu thập chứng cứ đầy đủ, mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại xong, nếu vụ án không thuộc trường hợp đình chỉ hoặc tạm đình chỉ theo Điều 141 và Điều 143 Luật TTHC thì tòa án sẽ ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn 15 ngày theo Điều 147 Luật TTHC. Khi nhận được hồ sơ thì Kiểm sát viên lưu ý phải đọc kỹ đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung của đương sự, xem họ khởi kiện về vấn đề gì, có phù hợp với nội dung trong thông báo thụ lý vụ án không? Thứ tư, xem xét về vấn đề thời hiệu khởi kiện Kiểm sát viên khi xem xét đến Quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khiếu kiện cần chú ý các văn bản này còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 116 Luật TTHC không? Nếu hết thời hiệu khởi kiện thì phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, xem có lý do khách quan hoặc trường hợp bất khả kháng khiến cho người khởi kiện không khởi kiện đúng thời hạn hay không? Thứ năm, xác định tư cách người tham gia tố tụng Về xác định tư cách người tham gia tố tụng phải lưu ý Quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu kiện có liên quan đến một hay nhiều người, tránh bỏ sót người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ví dụ: Khiếu kiện quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất đối với hộ gia đình thì ngoài người khởi kiện còn phải đưa các thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm có quyết định thu hồi đất vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nếu những người đó có văn bản ủy quyền thì phải kiểm tra xem đủ các thành viên chưa. Thứ sáu, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính, Kiểm sát viên cần phải lưu ý việc ủy quyền phải đúng quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật TTHC. Thứ bảy, việc thực hiện quyền yêu cầu và quyền kiến nghị Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu và kiến nghị theo quy định tại Điều 25 Luật TTHC. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ phát hiện cần phải xác minh thu thập tài liệu chứng cứ thì lúc này Kiểm sát viên sẽ thực hiện quyền yêu cầu. Đây là một nội dung quan trọng trong quá trình nghiên cứu và giải quyết vụ án bởi chỉ khi có đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì việc giải quyết vụ án hành chính mới khách quan, đúng quy định của pháp luật. Đối với quyền kiến nghị thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong giải quyết vụ án hành chính và kiến nghị Tòa án áp dụng hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ví dụ: trường hợp Tòa án có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử, chuyển các văn bản tố tụng cho VKS chậm hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 66 Luật TTHC trong trường hợp cần áp dụng thì Viện kiểm sát có quyền ban hành kiến nghị đối với từng vi phạm cụ thể. Trong thực tiễn giải quyết án hành chính, việc áp dụng quyền yêu cầu hay kiến nghị cũng là một nội dung tương đối khó bởi luật quy định cũng chưa rõ ràng. Điều 25 chỉ quy định quyền của Viện kiểm sát từ khi thụ lý vụ án đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án, trong đó có nói đến việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị nhưng không nêu rõ khi nào thì thực hiện quyền yêu cầu và khi nào thực hiện quyền kiến nghị. Do đó, để thực hiện tốt các quyền này, KSV cần phải nghiên cứu kỹ Điều 43 Luật TTHC quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên. Thứ tám, về tài liệu, chứng cứ Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Kiểm sát viên cũng cần lưu ý đến vấn đề tài liệu, chứng cứ, trong đó, có biên bản phiên họp công khai chứng cứ và đối thoại. Về cơ bản, các căn cứ khởi kiện cũng như tài liệu do người bị kiện xuất trình phải được thể hiện trong biên bản này bởi có trường hợp tại phiên tòa người khởi kiện hoặc luật sư của người khởi kiện yêu cầu Tòa án ngừng phiên tòa để thu thập thêm tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, nếu có căn cứ thì Viện kiểm sát có ý kiến cho ngừng phiên tòa, nếu thấy yêu cầu thu thập tài liệu này không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục và có quan điểm tại phiên họp công khai chứng cứ và đối thoại các bên đã cam đoan không còn tài liệu nào khác. Về vấn đề thu thập tài liệu chứng cứ, Kiểm sát viên cần lưu ý: Viện kiểm sát chỉ có thể tự xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ để thực hiện quyền kháng nghị theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật TTHC. 2. Về việc giải quyết nội dung vụ án Để đảm bảo giải quyết vụ án khách quan, đúng quy định pháp luật thì nhiệm vụ của Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ bên cạnh việc kiểm tra các thủ tục tố tụng thì việc giải quyết nội dung, hướng giải quyết vụ án cũng cần có quan điểm rõ ràng, đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể: Kiểm sát viên phải nắm vững căn cứ pháp luật và các văn bản có liên quan để xác định tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khởi kiện xem trình tự, thủ tục, thẩm quyền và căn cứ ban hành Quyết định hành chính trong từng vụ việc cụ thể có đúng không? Nếu là khiếu kiện về hành vi hành chính thì phải xác định cơ quan, người có thẩm quyền nếu không thực hiện hành vi hoặc nếu thực hiện hành vi thì có ai bị ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp bởi hành vi đó hay không? Bởi sự khách quan đúng pháp luật của vụ án chỉ có thể được xác định trên cơ sở tổng hợp các thông tin về vụ án và các thông tin này được phản ảnh qua các tài liệu, chứng cứ của vụ án do Tòa án thu thập. Ví dụ: Khi nghiên cứu một vụ án hành chính vể khiếu kiện đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất: Khi có yêu cầu khởi kiện của đương sự và Tòa án thụ lý, sau đó Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát. Lúc này, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là ngoài kiểm tra về thủ tục tố tụng phải nghiên cứu xem trong hồ sơ Tòa án đã thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án chưa. Kiểm sát viên cần xác định quyết định thu hồi đất của UBND là loại đất gì, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư có thể hiện đúng nguồn gốc đất và loại đất không? Việc áp dụng mức bồi thường có đúng loại đất, đúng căn cứ không... Ngoài ra, cũng cần phải căn cứ vào quá trình sử dụng đất, việc kê khai, đăng ký đất và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, từ đó đối chiếu với quy định của pháp luật tại thời điểm phê duyệt phương án xem phương án bồi thường, hỗ trợ đã đúng chưa, nếu chưa thì sẽ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện và hủy phương án bồi thường, hỗ trợ. Như vậy để nghiên cứu một hồ sơ vụ án hành chính theo trình tự sơ thẩm đạt hiệu quả, Kiểm sát viên buộc phải nghiên cứu kỹ về thủ tục tố tụng cũng như quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. Phải xác định rõ xem cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định hoặc thực hiện hành vi hành chính đúng hay sai, nếu thấy cần thiết phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ mới giải quyết vụ án một cách khách quan thì chúng ta thực hiện quyền yêu cầu hoặc quyền kiến nghị. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên mới có thể đề xuất, báo cáo vụ án với Lãnh đạo một cách rõ ràng và đưa ra quan điểm giải quyết đúng đắn. Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án là cơ sở, tiền đề quan trọng nhất để Kiểm sát viên tham gia phiên tòa tự tin, thể hiện vai trò, vị thế của Viện kiểm sát; đồng thời, tạo niềm tin cho các đương sự tham gia tố tụng, từ đó khắc phục tình trạng khiếu kiện kéo dài, hạn chế việc khiếu nại trở thành điểm nóng, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn và quan trọng nhất là phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương./. Phòng 10 - VKSND thành phố Hà Nội vkshanoi.gov.vn Theo Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm
ThS LÊ ĐÌNH NGHĨA (Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5) - BLTTHS năm 2015, quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm tại điểm b khoản 2 Điều 45; khoản 2 Điều 174; Điều 246; điểm b khoản 1 Điều 277 và Điều 280 BLTTHS. Qua thực tiễn xét xử, còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 1.Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định trong BLTTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Qua thực tiễn xét xử, còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể như sau: Thứ nhất, khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần”. Theo quy định trên quá trình giải quyết vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa HĐXX chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Đồng thời buộc Thẩm phán phải nêu cao tinh thần trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, phát hiện các vấn đề cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tránh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần. Thực tế có những trường hợp sau khi Thẩm phán, HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trường hợp này phải giải quyết như thế nào khi Tòa án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan chức năng hướng dẫn cụ thể. Thứ hai, khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT hướng dẫn “Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung” hướng dẫn này hiện nay có những quan điểm, cách hiểu khác nhau. Quan điểm thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ sung tất cả các yêu cầu của Tòa án nhưng còn sót vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án hoặc có điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án, trong thời hạn 15 ngày Thẩm phán được quyền tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung (lần 2 trong thời hạn chuẩn bị xét xử) và nêu rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung như hướng dẫn. Quan điểm thứ hai: Trường hợp này, Thẩm phán không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung và nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT. Quan điểm của tác giả: BLTTHS quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần và HĐXX được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Tuy nhiên, trường hợp Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án nhưng kết quả điều tra bổ sung còn sót những vấn đề Tòa án yêu cầu hoặc có điều tra bổ sung nhưng không đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước và nêu rõ lý do như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT. Bởi lẽ, trong trường hợp này Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề Viện kiểm sát đã chấp nhận nhưng điều tra bổ sung còn thiếu sót, chưa đạt yêu cầu, hoặc do điều tra bổ sung làm phát sinh các vấn đề mới cần Viện kiểm sát điều tra lại đầy đủ theo yêu cầu. Trường hợp nếu Viện kiểm sát điều tra đầy đủ, đúng yêu cầu và kết quả điều tra không làm phát sinh vấn đề gì mới, sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán phát hiện còn có vấn đề cần điều tra bổ sung nhưng quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa yêu cầu thì Thẩm phán không được trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, trường hợp này HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Thứ ba, khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định: ‘‘Kết thúc việc nghị án, HĐXX phải quyết định một trong các vấn đề: Ra bản án và tuyên án; Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ; Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án’’. BLTTHS không quy định các trường hợp HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên, theo hướng dẫn Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng là các trường hợp HĐXX trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa khi nào? Trường hợp thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng không phát hiện ra các vấn đề cần điều tra bổ sung hoặc tại phiên tòa xuất hiện các vấn đề mới mà tài liệu trong hồ sơ vụ án không phản ánh nên Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không phát hiện. Nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trường hợp thứ hai: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phát hiện những vấn đề trong vụ án chưa được làm rõ nhưng không trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung vì tự tin tại phiên tòa sẽ làm rõ hoặc bổ sung chứng cứ được, nhưng tại phiên tòa không bổ sung, làm rõ chứng cứ được thì HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa, HĐXX thấy có những vấn đề thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS mà trước đó Thẩm phán chưa trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì HĐXX trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Còn những vấn đề trước đó Thẩm phán đã trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát có văn bản trả lời là không có căn cứ thì HĐXX không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Thứ tư, khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Quy định trên được hiểu Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung và Viện kiểm sát thấy yêu cầu của Tòa án là có căn cứ và tiến hành điều tra bổ sung nhưng không bổ sung được và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án; nếu những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là những căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội, Viện kiểm sát không điều tra bổ sung (cho rằng không có căn cứ) và giữ nguyên quyết định truy tố, trường hợp này giải quyết như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ thì HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280 và điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 298 BLTTHS để giải quyết vụ án. Nếu tiếp tục trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ thì có trả tiếp chỉ kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Nếu không đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Sau đó, kiến nghị lên Tòa án cấp trên. Nếu trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung theo điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 298 BLTTHS xét xử vụ án và nhận định trong bản án. Thứ năm, trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định, kết luận định giá tài sản, cần giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản thì Tòa án trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hay Tòa án tiến hành yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản. Hiện nay, vấn đề này giữa Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm khác nhau. Quan điểm Viện kiểm sát cho rằng: Việc giám định, định giá tài sản đã tiến hành đúng theo trình tự thủ tục; kết quả giám định, định giá tài sản là đúng và khách quan, đầy đủ. Hơn nữa, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 252 BLTTHS nên Viện kiểm sát không tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả: Theo quy định tại khoản 1 Điều 210; khoản 1 Điều 211; khoản 1 Điều 218 BLTTHS: Các chứng cứ trên là cơ sở để Viện kiểm sát chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội ở khoản nào của điều luật, nhưng những chứng cứ quan trọng đó không thể bổ sung tại phiên tòa được. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là đúng theo quy định. 2.Một số kiến nghị Qua nghiên cứu chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm, tác giả có một số kiến nghị như sau: – Cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể khi nào Hội đồng xét xử trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; quy định rõ: “Viện kiểm sát phải trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản” hoặc quy định: “Tòa án trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản nếu có nghi ngờ kết quả giám định, định giá tài sản”. – Quy định cụ thể và xem xét xử lý trách nhiệm đối với những người tiến hành tố tụng khi để xảy ra việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung không có căn cứ. – Trường hợp sau khi Thẩm phán, Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tòa án phải giải quyết như thế nào khi Tòa án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Theo Tạp chí tòa án
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự: Áp dụng khi nào?
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Tố tụng Hình sự - Ảnh minh họa Khác với quy định trước đây về Thủ tục rút gọn, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS) quy định thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục này dành cho cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Vậy trong những trường hợp nào thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng? Trước tiên cần nắm được phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 455 BLTTHS: Điều 455. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này. Như vậy có thể thấy thủ tục rút gọn có thể được áp dụng bắt đầu từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và đặc biệt là cả với xét xử phúc thẩm. Đối với các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm, thủ tục rút gọn được ra quyết định thi hành khi có các căn cứ tại Khoản 1 Điều 456 BLTTHS: 1. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện: a) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; b) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; c) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; d) Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Trong những căn cứ nêu trên, tình tiết “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” được hiểu là những sự việc mà vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp và dễ xác định, vụ án ít bị cáo, các chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ từ đầu. Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm, căn cứ áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Khoản 2 Điều 456 như sau: 2. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện: a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy nêu trên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định này bị hủy bỏ trong trường hợp căn cứ áp dụng Thủ tục rút gọn tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Một số bất cập về quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
HOÀNG ĐÌNH DŨNG (TAQS khu vực Quân khu 4) - Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) có hiệu lực đã đánh dấu một sự thay đổi rất lớn về tư duy lập pháp và khắc phục được rất nhiều các hạn chế của BLTTHS 2003 sau hơn 10 năm thi hành. Tuy nhiên, quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn còn một số điểm bất cập khi áp dụng trên thực tế. Một trong những sự thay đổi “đột phá” trong BLTTHS 2015 đó là về giới hạn xét xử sơ thẩm. Quy định mới đã cho phép Hội đồng xét xử “linh hoạt” hơn và bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn còn một số điểm bất cập khi áp dụng trên thực tế. 1.Về mặt kỹ thuật lập pháp Thứ nhất, về tên gọi của điều luật. Điều 298 với tên gọi là “giới hạn xét xử” theo tác giả là chưa phù hợp với nội dung điều chỉnh của điều luật vì: Hiện nay, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Đây là hai giai đoạn riêng biệt trong các giai đoạn của tố tụng hình sự và được quy định ở hai chương khác nhau của BLTTHS. Tuy nhiên, Điều 298 lại nằm ở chương XXI của BLTTHS quy định về xét xử sơ thẩm nên nếu nhà làm luật muốn dùng một điều luật để điều chỉnh giới hạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì đặt ở vị trí này là không hợp lý. Mặt khác, nội dung của Điều 298 BLTTHS 2015 đang điều chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm. Bởi vì, theo Điều 345 BLTTHS thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị và chỉ trong một số trường hợp mới xem xét phần khác của bản án. Hơn nữa, tại khoản 3 Điều 298 quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Quy định việc cho phép Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát (VKS) để truy tố lại chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm. Vì tại Điều 355 BLTTHS 2015 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm thì không quy định quyền này. Như vậy, có thể thấy, nội dung của Điều 298 chỉ điều chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm mà nhà làm luật lại đặt tên điều luật là giới hạn xét xử là chưa phù hợp với nội dung điều chỉnh và vị trí của điều luật. Theo tác giả, nên đổi tên của Điều 298 là “giới hạn xét xử sơ thẩm” Thứ hai, khoản 1 Điều 298 quy định: “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” Và khoản 2 Điều 298 quy định: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.” Qua hai quy định có thể thấy sự chưa thống nhất trong quy định giữa hai khoản trong cùng một điều luật. Khoản 1 của điều luật quy định Tòa án xét xử những bị cáo và hành những hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố. Còn khoản 2 lại cho phép Tòa án xét xử về tội danh nhẹ hơn VKS truy tố là chưa thống nhất. Theo tác, Tòa án đóng vai trò là trọng tài chỉ xem xét những hành vi mà VKS đã truy tố. Trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ, quá trình xét hỏi và tranh luận thì mới định tội danh cho hành vi đó. Như vậy mới đảm bảo được sự độc lập của Tòa án trong xét xử. Chính vì những lý do đó, tác giả kiến nghị sửa khoản 1 Điều 298 BLTTHS 2015 như sau: “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” 2.Đối với trường hợp vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm Tại khoản 2 Điều 298 BLTTHS 2015 quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Việc Tòa án cấp sơ thẩm được phép xét xử bị cáo nặng hơn về tội danh mà VKS đã truy tố có thể dẫn đến vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Đó là trường hợp TAND cấp huyện hoặc TAQS cấp quân khu đang là Tòa án xét xử sơ thẩm đối với bị cáo bị cáo bị VKS truy tố về tội ít nghiêm trọng; nghiêm trọng; rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc vào khoản nặng hơn hoặc tội nặng hơn mà VKS đã truy tố và tội nặng đó lại thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực theo quy định tại Điều 268 BLTTHS 2015. Hơn nữa việc xét xử loại tội đặc biệt nghiêm trọng cũng dẫn đến sự thay đổi rất nhiều về thủ tục tố tụng như sự thay đổi về thành phần Hội đồng xét xử (Điều 254 BLTTHS 2015) và việc chỉ định người bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển vụ án theo quy định tại Điều 274 BLTTHS 2015. Tuy nhiên Điều 298 quy định về giới hạn xét xử lại chưa quy định cách giải quyết cụ thể đối với vấn đề này. Theo tác giả, nên bổ sung khoản 3 Điều 298 theo hướng như sau: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó; trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy tội danh cần xét xử vượt quá thẩm quyền xét xử thì chuyển vụ án” Tòa án nhân dân tp Kon Tum xét xử sơ thẩm vụ án hình sự – Ảnh: Đức Nhuận/ Báo KT Theo Tạp chí tòa án
Thông báo rút kinh nghiệm về vụ án hình sự bị huỷ để xét xử sơ thẩm lại
Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án Lê Thị T cùng đồng phạm, phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” bị huỷ án để xét xử sơ thẩm lại, VKSND cấp cao Đà Nẵng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm để các Viện kiểm sát trong khu vực rút kinh nghiệm chung. Nội dung thông báo như sau: 1. Nội dung vụ án Khoảng 12 giờ ngày 07/01/2018, Lê Thị T thuê Đào Duy V điều khiển xe ô tô biển kiểm soát “H” vận chuyển hành khách từ thành phố Đ lên huyện B và ngược lại. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, xe lên đến bến xe huyện B, V dừng xe ở đó rồi đi ăn uống và đi chơi. Tại đây, T mua một số hàng hoá đưa về thành phố Đ bán lại kiếm lời. Sau khi cất giấu toàn bộ số hàng hoá trên vào trong thùng xe, T gặp một người phụ nữ lạ mặt (không rõ nhân thân, địa chỉ) thuê chở 5.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet từ Km50 Quốc lộ A về thành phố Đ với giá cước 150.000 đồng, T đồng ý và cho nguời phụ nữ số điện thoại để liên lạc. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Đào Duy V lái xe về thành phố Đ, trên đường đi, T nói với V đến Km50 Quốc lộ A thì V dừng xe để bốc 5.000 bao thuốc lá hiệu Jet, được đựng trong 10 bao gai màu xanh lên sau cốp xe. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, V điều khiển xe ô tô đến Km 25+300 Quốc lộ A thuộc địa phận xã T, huyện L, tỉnh Q thì bị lực lượng Công an huyện L phát hiện bắt quả tang, thu giữ 5.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet cùng toàn bộ số hàng hoá trên xe. Tại Kết luận giám định số 128/C54C (DD4) ngày 02/3/2018, Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: 100 bao thuốc lá mang nhãn hiệu Jet được đựng trong 10 hộp giấy màu trắng, bên ngoài mỗi hộp có chữ SPECIAL BLEND, JET, FILTEKINGSCIGARTTES ký hiệu từ số 01 – 10 gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu Jet, được sản xuất tại nước ngoài. 2. Quá trình tố tụng Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 17/8/2018 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Q đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Thị T, Đào Duy V phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Lê Thị T: 308.000.000 đồng, Đào Duy V: 304.000.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 612.000.000 đồng các bị cáo nộp vào tài khoản tạm giữ số 3949xxxxx1 của Chi cục Thi hành án huyện L ngày 16/8/2018 để đảm bảo thi hành án. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 4.900 bao thuốc là điếu hiệu Jet còn lại sau giám định và 10 bao gai màu xanh; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 150.000 đồng, số tiền này có tại tài khoản tạm giữ số 3949xxxxx2 tại Kho bạc Nhà nước huyện L nộp ngày 05/3/2018 (các vật chứng trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo biên bản giao vật chứng ngày 04/6/2018); trả lại cho bị cáo Đào Duy V 01 giấy phép lái xe hạng D (có tại hồ sơ vụ án). Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. - Kháng nghị số 1323/QĐ-VKS-P7 ngày 14/9/2018 của VKSND tỉnh Q kháng nghị toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm đề nghị TAND tỉnh Q xét xử vụ án theo hướng huỷ Bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại. - Bản án hình sự phúc thẩm số 14/2018/HSPT ngày 21/11/2018 của TAND tỉnh Q tuyên không chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngày 03/9/2019, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 85/QĐ-VC2 đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng huỷ Bản án hình sự phúc thẩm số 14/2018/HS-PT ngày 21/11/2018 của TAND tỉnh Q và Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 17/8/2018 của TAND huyện L, tỉnh Q về phần hình phạt đối với các bị cáo Lê Thị T, Đào Duy V để xét xử sơ thẩm theo hướng không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Q để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Các bị cáo Lê Thi T, Đào Duy V bị xét xử về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ. Theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo dưới khung hình phạt, tuyên hình phạt tiền là chưa đúng quy định của pháp luật. Xét về nhân thân của bị cáo Lê Thị T, ngày 26/6/2012 bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính số tiền 50.000.000 đồng về hành vi “Vận chuyển hàng cấm”; ngày 05/11/2014, bị Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính số tiền 52.500.000 đồng về hành vi “Vận chuyển lâm sản trái phép” và “Buôn bán hàng cấm”; bị cáo có 01 tiền sự ngày 21/8/2017, bị đội Kiểm soát Hải quan tỉnh Q ra Quyết định số 237/QĐ-KSHQ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan với số tiền 1.750.000 đồng về hành vi “Mua bán hàng hoá nhập khẩu không có chứng từ hợp pháp trong địa bàn hoạt động Hải quan”. Ngày 07/01/2018, bị cáo cùng bị cáo Đào Duy V thực hiện hành vi vận chuyển 5.000 bao thuốc lá hiệu Jet do nước ngoài sản xuất thì bị cáo còn thực hiện hành vi mua và vận chuyển các loại hàng hoá nhập lậu khác, vi phạm điểm i, khoản 1, Điều 17 Nghị định 185/2013/NĐ-CP về “Hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lậu”. Uỷ ban nhân dân tỉnh Q đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 277/QĐ-XPVPHC ngày 06/12/2018 đối với Lê Thị T. Đối với bị cáo Đào Duy V, ngày 31/01/2013, bị Phòng PC46 – Công an tỉnh Q xử phạt số tiền 5.500.000 đồng về hành vi “Vận chuyển hàng nhập lậu”. Bị cáo có một tiền sự ngày 02/4/2017, bị đội Kiểm soát Phòng chống ma tuý cục Hải quản tỉnh Q ra Quyết định số 44/QĐ-KSMT xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan với số tiền 1.750.000 đồng về hành vi “Mua bán hàng hoá nhập khẩu không có chứng từ hợp pháp trong địa bàn hoạt động Hải quan”. Các bị cáo Lê Thị T và Đào Duy V có tiền sự, nhiều lần bị xử lý hành chính về hành vi vi phạm trật tự quản lý kinh doanh và gian lận thương mại Nhà nước, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, là hành vi nguy hiểm hơn so với các hành vi đã bị xử phạt hành chính trước đó, nên không thể xem là ăn năn, hối cải. Các bị cáo chỉ đủ điều kiện được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng cấp sơ thẩm và phúc thẩm lại áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xét xử các bị cáo dưới khung hình phạt và áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo là không đúng quy định, không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Ngoài ra, trong vụ án Lê Thị T và anh Lê Văn H kết hôn từ năm 2003, nhưng đến tháng 11/2016, anh Hùng mới mua xe ô tô biển kiểm soát “H” nên chiếc xe ô tô này là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm nhận định “Chiếc xe ô tô là tài sản riêng của anh H, đăng ký quyền sở hữu mang tiên Lê Văn H, bị cáo T sử dụng vào việc phạm tội, anh H không biết; do đó, việc trả lại tài sản này cho chủ sở hữu của Cơ quan điều tra là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại” là không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, đề nghị TAND huyện L, tỉnh Q khi xét xử sơ thẩm lại thì xử lý vật chứng xe ô tô biển kiểm soát “H” theo đúng quy định pháp luật./ TL (tổng hợp) Theo Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Giải đáp: Vì sao cựu lãnh đạo Đà Nẵng cùng Vũ nhôm lại bị xét xử ở Hà Nội?
Đây là thắc mắc của nhiều người khi theo dõi vụ án liên quan đến các bất động sản ở Đà Nẵng. Được biết tất cả các bị can đều có hộ khẩu thường trú ở Đà Nẵng, các bất động sản liên quan đến vụ án đều ở Đà Nẵng, hành vi phạm tội cũng xảy ra ở Đà Nẵng nhưng lại được xét xử sơ thẩm ở TAND TP. Hà Nội. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì “đáng lẽ ra” vụ án này phải được xét xử sơ thẩm tại TAND TP Đà Nẵng. Tuy nhiên nhiều người sẽ không để ý rằng, BLTTHS có quy định về thẩm quyền truy tố của VKSND. Theo đó, vụ án này thì việc thực hành quyền công tố và kiểm sát thuộc VKSND Tối cao. Khoản 1 Điều 239 BLTTHS có quy định: Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo đúng quy định của Bộ luật này. Như vậy, việc phân công VKSND cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW để thực hiện quyền công tố, kiểm sát theo đúng trình tự tố tụng là đúng quy định theo quy định tại Quyết định 314/QĐ-VKSTC. Và không có quy định nào bắt buộc là VKSND tối cao phải phân công VKSND Đà Nẵng thực hiện quyền công tố và kiểm sát vụ án này cả. Cụ thể ở đây VKSDN TP Hà Nội là đơn vị được phân công, và kết quả là vụ án được truy tố sau đó được xét xử theo thủ tục sơ thẩm tại TAND TP Hà Nội là đúng với quy định.
Chế độ làm việc của công chức khi kháng cáo bản án sơ thẩm
Đồng nghiệp của tôi là công chức bị Tòa án sơ thẩm tuyên án 3 năm tù. Đồng nghiệp của tôi đã có kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm. Vậy trong thời gian chờ Tòa án phúc thẩm đưa ra xét xử lại Bản án sơ thẩm thì đồng nghiệp của tôi hiện đang trong tình trạng không bị tạm giam thì có được đi làm và hưởng lương như thế nào? Xin mọi người giúp đỡ.
huynhtuan0812 viết: Chào bạn, Theo những gì tôi biết thì mức án phí sơ thẩm = 5% giá trị tài sản tranh chấp. Mức tạm ứng án phí = 50% giá trị mức án phí sơ thẩm. Trong trường hợp hòa giải thành trước khi xét xử thì mức án phí hòa giải thành = 50% mức án phí sơ thẩm. Trong yêu cầu khởi kiện, nếu bạn nêu thêm lãi suất thì tài sản tranh chấp = nợ gốc và lãi. Thực sự là trước giờ tôi chưa trực tiếp đóng án phí lần nào nên phần này là do người khác chỉ, nên thực tế có khác thì các bạn chia sẻ cho mọi người mở mang kiến thức. Chào bạn! Không phải lúc nào số tiền án phí sơ thẩm cũng là 5% giá trị tài sản tranh chấp, mà tùy vào giá trị tài sản mà mức án phí là khác nhau: Theo pháp lệnh án phí 10/2009/UBTVQH12 thì: 2. Mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về tranh chấp dân sự có giá ngạch: Giá trị tài sản có tranh chấp Mức án phí a) từ 4.000.000 đồng trở xuống 200.000 đồng b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d) Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng e) Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng. Tiền tạm ứng án phí, nếu đương sự yêu cầu lãi suất tính theo quy định của pháp luật, thì tiền tạm ứng án phí Tòa án căn cứ dựa trên số tiền nợ gốc. Tiền án phí nếu có yêu cầu lãi suất thì: Tiền án phí được tính bao gồm tiền gốc + lãi để tính án phí. Nếu các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án => Tòa án ra QĐ công nhận thỏa thuận của các đương sự => Tiền án phí được giảm 50% (tức là = 1/2 mức án phí nếu vụ án được đưa ra xét xử).