Hướng dẫn thanh toán chi phí cho người mắc bệnh và người tham gia chống dịch COVID-19
Ngày 29/10/2023, Bộ Y tế ban hành Công văn 6922/BYT-KHTC về việc hướng dẫn thanh toán chi phí điều trị cho người bệnh mắc COVID-19 và chế độ chính sách cho người tham gia chống dịch COVID-19. Trước đó, tại Quyết định 3896/QĐ-BYT nêu rõ, từ 20/10/2023 bệnh COVID-19 không còn là bệnh truyền nhiễm nhóm A mà chuyển sang nhóm B của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Theo đó, nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong việc thực hiện các chính sách, biện pháp phòng, chống dịch khi chuyển từ nhóm A sang nhóm B, Bộ Y tế đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Y tế các Bộ, ngành, cơ sở y tế thực hiện một số nội dung sau: (1) Thanh toán chi phí khám,chữa bệnh và tiền ăn, sinh hoạt phí đối với người bệnh COVID-19 kể từ ngày 20/10/2023: i) Đối với người có thẻ BHYT thanh toán theo quy định của pháp luật về BHYT; người không có thẻ BHYT tự thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định; ii) Đối với chi phí tiền ăn, sinh hoạt phí thực hiện theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm nhóm B. (2) Đối với người bệnh vào viện trước ngày 20/10/2023 và ra viện sau ngày 20/10/2023: i) Chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh COVID-19: - Trước ngày 20/10/2023 thực hiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định 29/2022/NĐ-CP ngày 29/4/2022 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19. - Kể từ ngày 20/10/2023 thực hiện theo hướng dẫn tại i) mục (1) nêu trên. ii) Chi phí tiền ăn, sinh hoạt phí đối với người bệnh COVID-19: - Trước ngày 20/10/2023 thực hiện theo hướng dẫn của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm nhóm A (thực hiện theo quy định tại Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 của Chính phủ về chi phí cách ly y tế, khám chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19). - Kể từ ngày 20/10/2023 thực hiện theo hướng dẫn tại ii) mục (1) nêu trên. (3) Chế độ chính sách đối với người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 Các chế độ chính sách cho người tham gia phòng, chống dịch COVID- 19 thuộc nhóm B được thực hiện theo Quyết định 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 về việc quy định một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch kể từ ngày 20/10/2023. Trong đó, chế độ phụ cấp chống dịch được quy định như sau: i) Người đi giám sát, điều tra, xác minh dịch; tham gia chống dịch; trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán, điều trị người mắc bệnh dịch tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm gọi chung là tham gia chống dịch) được hưởng phụ cấp chống dịch đối với bệnh truyền nhiễm nhóm B là 100.000 đồng/ngày/người. Nếu tham gia chống dịch vào ngày nghỉ hằng tuần thì mức phụ cấp thường trực được tính bằng 1,3 lần mức quy định trên. Nếu tham gia chống dịch vào ngày lễ, ngày Tết thì mức phụ cấp thường trực được tính bằng 1,8 lần mức quy định trên. ii) Trường hợp dịch chưa được công bố nhưng phải đi giám sát, điều tra, xác minh dịch cũng được hưởng mức phụ cấp quy định tại i). iii) Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể danh mục các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B mà người trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán, điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm được hưởng chế độ phụ cấp chống dịch. Ngoài ra, còn quy định chi tiết về chế độ phụ cấp thường trực chống dịch 24/24 giờ. Xem thêm tại Quyết định 73/2011/QĐ-TTg. Xem chi tiết tại Công văn 6922/BYT-KHTC ngày 29/10/2023.
Bộ Giáo dục và Đào tạo dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm. Sinh viên sư phạm học tập yếu sẽ không được hỗ trợ sinh hoạt phí 3,63 triệu đồng/tháng. Theo đó, theo quy định hiện hành mức hỗ trợ đối với sinh viên sư phạm như sau: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2020/NĐ-CP quy định sinh viên sư phạm được nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí bằng mức thu học phí của cơ sở đào tạo giáo viên nơi theo học; Ngoài ra, sinh viên sư phạm còn được nhà nước hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng để chi trả chi phí sinh hoạt trong thời gian học tập tại trường. Tuy nhiên, theo đề xuất mới đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì sinh viên sư phạm vẫn được nhà nước hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng để chi trả chi phí sinh hoạt trong thời gian học tập tại trường. Thế nhưng, từ năm thứ hai và các năm học tiếp theo, nếu sinh viên sư phạm có điểm trung bình chung học tập đạt loại yếu hoặc điểm rèn luyện đạt loại yếu thì sẽ không được xét hỗ trợ để chi trả chi phí sinh hoạt phí. Cơ sở đào tạo giáo viên sẽ thực hiện việc xét hỗ trợ sinh hoạt phí cho sinh viên sư phạm theo năm học. Xem và tải Dự thảo https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/08/17/nghi-dinh-sua-doi-bo-sung-nghi-dinh-116-doc.doc Sửa đổi quy định thu hồi chi phí bồi hoàn đối với sinh viên sư phạm Tại Nghị định 116/2020/NĐ-CP giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan hướng dẫn, theo dõi và đôn đốc sinh viên sư phạm bồi hoàn kinh phí hỗ trợ nhưng không phải là đơn vị cấp kinh phí cho sinh viên sư phạm thuộc đối tượng đào tạo theo nhu cầu xã hội gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện. Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên và thực hiện những yêu cầu mới đặt ra, việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 116 là cần thiết và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể, tại Bộ Giáo dục và Đào tạo kiến nghị: - Đối với sinh viên sư phạm thuộc đối tượng phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 6 Nghị định 116/2020/NĐ-CP, cơ sở đào tạo giáo viên theo dõi, hướng dẫn, ra thông báo thu hồi kinh phí đã hỗ trợ cho sinh viên sư phạm và gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 116/2020/NĐ-CP. - Đối với sinh viên sư phạm thuộc đối tượng phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định 116/2020/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi sinh viên cư trú theo dõi, hướng dẫn, ra thông báo thu hồi kinh phí hỗ trợ để sinh viên sư phạm hoặc gia đình thực hiện nộp trả đầy đủ khoản tiền phải bồi hoàn theo quy định tại Điều 8 Nghị định 116/2020/NĐ-CP. - Đối với sinh viên sư phạm thuộc đối tượng đặt hàng, giao nhiệm vụ thuộc đối tượng phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 116, cơ quan đặt hàng, giao nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn, ra thông báo thu hồi kinh phí hỗ trợ để sinh viên sư phạm hoặc gia đình thực hiện nộp trả đầy đủ khoản tiền phải bồi hoàn theo quy định tại Điều 8 Nghị định 116/2020/NĐ-CP. - Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền theo dõi, hướng dẫn ra thông báo thu hồi kinh phí, sinh viên hoặc gia đình phải có trách nhiệm nộp số tiền bồi hoàn vào kho bạc nhà nước và gửi chứng từ nộp ngân sách nhà nước (bản sao) tới cơ quan theo dõi thu hồi kinh phí bồi hoàn để làm thủ tục xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ bồi hoàn. - Thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn kinh phí hỗ trợ tối đa là 4 năm, kể từ khi sinh viên sư phạm nhận được thông báo bồi hoàn kinh phí. - Trường hợp sinh viên hoặc gia đình chậm thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn quá thời hạn quy định thì phải chịu lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định đối với khoản tiền chậm bồi hoàn. Trường hợp Ngân hàng Nhà nước không quy định lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn thì phải chịu lãi suất áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam tại thời điểm thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn”. - Sinh viên sư phạm phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 116, nếu thuộc đối tượng chính sách, khó khăn thì căn cứ vào điều kiện cụ thể, đặc thù của sinh viên sư phạm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chính sách miễn, giảm hoặc xóa kinh phí bồi hoàn. - Số tiền thu hồi từ chi phí bồi hoàn của sinh viên sư phạm được nộp vào ngân sách nhà nước theo phân cấp quản lý ngân sách hiện hành và theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước về quản lý khoản thu hồi nộp ngân sách. - Sinh viên sư phạm hoặc gia đình không thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn thì cơ quan có thẩm quyền theo dõi, ra thông báo thu hồi kinh phí có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định pháp luật. Xem chi tiết tại Dự thảo Nghị định sửa đổi được lấy ý kiến từ ngày 14/8 - 14/10/2023. Xem và tải Dự thảo https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/08/17/nghi-dinh-sua-doi-bo-sung-nghi-dinh-116-doc.doc
Chế độ sinh hoạt phí đối với cơ quan Việt Nam ở nước ngoài
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 08/2019/NĐ-CP quy định chế độ đối với thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Theo đó Nghị định đã quy định mức sinh hoạt phí cơ sở áp dụng chung cho tất cả các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là 650 đô-la Mỹ/người/tháng và sẽ được xem xét điều chỉnh khi chỉ số giá tiêu dùng tại các địa bàn tăng từ 10% trở lên hoặc tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam ( quy định tại khoản 1 điều 5). Hệ số địa bàn gồm có 5 mức: 1,0; 1,1; 1,2; 1,3 và 1,4. Mức sinh hoạt cụ thể được tính dựa vào tiêu chuẩn chức danh, chức vụ của từng thành viên và được tính dựa vào chỉ số sinh hoạt phí với mức thấp nhất là 100% và cao nhất là 250%. Ngoài ra các thành viên còn hưởng các ưu đãi khác khi đi công tác ở nước ngoài như: Chế độ bảo hiểm khám, chữa bệnh; được Nhà nước thanh toán tiền nhà ở, tiền điện, tiền nước, tiền chất đốt, tiền thuê bao cáp truyền hình, tiền thuê bao điện thoại, tiền thuê bao internet; Tiền vé máy bay; mua trang phục đối ngoại, đồ dùng cá nhân thiết yếu trong nhiệm kỳ công tác và những chế độ đối với con chưa thành niên;..( được quy định cụ thể tại Nghị định 08/2019/NĐ-CP). Qua đó có thể thấy chế độ uư đãi đối với những thành viên cơ quan Việt Nam làm việc ở nước ngoài là rất lớn, nhằm giúp họ hoàn thành tốt nhất những công việc, nhiệm vụ được giao, nhất là những nhiệm vụ đối ngoại quan trọng đối với nước nhà. Nghị định 08/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 11/03/2019.
Hướng dẫn thanh toán chi phí cho người mắc bệnh và người tham gia chống dịch COVID-19
Ngày 29/10/2023, Bộ Y tế ban hành Công văn 6922/BYT-KHTC về việc hướng dẫn thanh toán chi phí điều trị cho người bệnh mắc COVID-19 và chế độ chính sách cho người tham gia chống dịch COVID-19. Trước đó, tại Quyết định 3896/QĐ-BYT nêu rõ, từ 20/10/2023 bệnh COVID-19 không còn là bệnh truyền nhiễm nhóm A mà chuyển sang nhóm B của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Theo đó, nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong việc thực hiện các chính sách, biện pháp phòng, chống dịch khi chuyển từ nhóm A sang nhóm B, Bộ Y tế đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Y tế các Bộ, ngành, cơ sở y tế thực hiện một số nội dung sau: (1) Thanh toán chi phí khám,chữa bệnh và tiền ăn, sinh hoạt phí đối với người bệnh COVID-19 kể từ ngày 20/10/2023: i) Đối với người có thẻ BHYT thanh toán theo quy định của pháp luật về BHYT; người không có thẻ BHYT tự thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định; ii) Đối với chi phí tiền ăn, sinh hoạt phí thực hiện theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm nhóm B. (2) Đối với người bệnh vào viện trước ngày 20/10/2023 và ra viện sau ngày 20/10/2023: i) Chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh COVID-19: - Trước ngày 20/10/2023 thực hiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định 29/2022/NĐ-CP ngày 29/4/2022 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19. - Kể từ ngày 20/10/2023 thực hiện theo hướng dẫn tại i) mục (1) nêu trên. ii) Chi phí tiền ăn, sinh hoạt phí đối với người bệnh COVID-19: - Trước ngày 20/10/2023 thực hiện theo hướng dẫn của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm nhóm A (thực hiện theo quy định tại Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 của Chính phủ về chi phí cách ly y tế, khám chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19). - Kể từ ngày 20/10/2023 thực hiện theo hướng dẫn tại ii) mục (1) nêu trên. (3) Chế độ chính sách đối với người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 Các chế độ chính sách cho người tham gia phòng, chống dịch COVID- 19 thuộc nhóm B được thực hiện theo Quyết định 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 về việc quy định một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch kể từ ngày 20/10/2023. Trong đó, chế độ phụ cấp chống dịch được quy định như sau: i) Người đi giám sát, điều tra, xác minh dịch; tham gia chống dịch; trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán, điều trị người mắc bệnh dịch tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm gọi chung là tham gia chống dịch) được hưởng phụ cấp chống dịch đối với bệnh truyền nhiễm nhóm B là 100.000 đồng/ngày/người. Nếu tham gia chống dịch vào ngày nghỉ hằng tuần thì mức phụ cấp thường trực được tính bằng 1,3 lần mức quy định trên. Nếu tham gia chống dịch vào ngày lễ, ngày Tết thì mức phụ cấp thường trực được tính bằng 1,8 lần mức quy định trên. ii) Trường hợp dịch chưa được công bố nhưng phải đi giám sát, điều tra, xác minh dịch cũng được hưởng mức phụ cấp quy định tại i). iii) Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể danh mục các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B mà người trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán, điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm được hưởng chế độ phụ cấp chống dịch. Ngoài ra, còn quy định chi tiết về chế độ phụ cấp thường trực chống dịch 24/24 giờ. Xem thêm tại Quyết định 73/2011/QĐ-TTg. Xem chi tiết tại Công văn 6922/BYT-KHTC ngày 29/10/2023.
Bộ Giáo dục và Đào tạo dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm. Sinh viên sư phạm học tập yếu sẽ không được hỗ trợ sinh hoạt phí 3,63 triệu đồng/tháng. Theo đó, theo quy định hiện hành mức hỗ trợ đối với sinh viên sư phạm như sau: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2020/NĐ-CP quy định sinh viên sư phạm được nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí bằng mức thu học phí của cơ sở đào tạo giáo viên nơi theo học; Ngoài ra, sinh viên sư phạm còn được nhà nước hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng để chi trả chi phí sinh hoạt trong thời gian học tập tại trường. Tuy nhiên, theo đề xuất mới đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì sinh viên sư phạm vẫn được nhà nước hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng để chi trả chi phí sinh hoạt trong thời gian học tập tại trường. Thế nhưng, từ năm thứ hai và các năm học tiếp theo, nếu sinh viên sư phạm có điểm trung bình chung học tập đạt loại yếu hoặc điểm rèn luyện đạt loại yếu thì sẽ không được xét hỗ trợ để chi trả chi phí sinh hoạt phí. Cơ sở đào tạo giáo viên sẽ thực hiện việc xét hỗ trợ sinh hoạt phí cho sinh viên sư phạm theo năm học. Xem và tải Dự thảo https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/08/17/nghi-dinh-sua-doi-bo-sung-nghi-dinh-116-doc.doc Sửa đổi quy định thu hồi chi phí bồi hoàn đối với sinh viên sư phạm Tại Nghị định 116/2020/NĐ-CP giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan hướng dẫn, theo dõi và đôn đốc sinh viên sư phạm bồi hoàn kinh phí hỗ trợ nhưng không phải là đơn vị cấp kinh phí cho sinh viên sư phạm thuộc đối tượng đào tạo theo nhu cầu xã hội gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện. Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên và thực hiện những yêu cầu mới đặt ra, việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 116 là cần thiết và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể, tại Bộ Giáo dục và Đào tạo kiến nghị: - Đối với sinh viên sư phạm thuộc đối tượng phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 6 Nghị định 116/2020/NĐ-CP, cơ sở đào tạo giáo viên theo dõi, hướng dẫn, ra thông báo thu hồi kinh phí đã hỗ trợ cho sinh viên sư phạm và gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 116/2020/NĐ-CP. - Đối với sinh viên sư phạm thuộc đối tượng phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định 116/2020/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi sinh viên cư trú theo dõi, hướng dẫn, ra thông báo thu hồi kinh phí hỗ trợ để sinh viên sư phạm hoặc gia đình thực hiện nộp trả đầy đủ khoản tiền phải bồi hoàn theo quy định tại Điều 8 Nghị định 116/2020/NĐ-CP. - Đối với sinh viên sư phạm thuộc đối tượng đặt hàng, giao nhiệm vụ thuộc đối tượng phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 116, cơ quan đặt hàng, giao nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn, ra thông báo thu hồi kinh phí hỗ trợ để sinh viên sư phạm hoặc gia đình thực hiện nộp trả đầy đủ khoản tiền phải bồi hoàn theo quy định tại Điều 8 Nghị định 116/2020/NĐ-CP. - Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền theo dõi, hướng dẫn ra thông báo thu hồi kinh phí, sinh viên hoặc gia đình phải có trách nhiệm nộp số tiền bồi hoàn vào kho bạc nhà nước và gửi chứng từ nộp ngân sách nhà nước (bản sao) tới cơ quan theo dõi thu hồi kinh phí bồi hoàn để làm thủ tục xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ bồi hoàn. - Thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn kinh phí hỗ trợ tối đa là 4 năm, kể từ khi sinh viên sư phạm nhận được thông báo bồi hoàn kinh phí. - Trường hợp sinh viên hoặc gia đình chậm thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn quá thời hạn quy định thì phải chịu lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định đối với khoản tiền chậm bồi hoàn. Trường hợp Ngân hàng Nhà nước không quy định lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn thì phải chịu lãi suất áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam tại thời điểm thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn”. - Sinh viên sư phạm phải bồi hoàn kinh phí theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 116, nếu thuộc đối tượng chính sách, khó khăn thì căn cứ vào điều kiện cụ thể, đặc thù của sinh viên sư phạm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chính sách miễn, giảm hoặc xóa kinh phí bồi hoàn. - Số tiền thu hồi từ chi phí bồi hoàn của sinh viên sư phạm được nộp vào ngân sách nhà nước theo phân cấp quản lý ngân sách hiện hành và theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước về quản lý khoản thu hồi nộp ngân sách. - Sinh viên sư phạm hoặc gia đình không thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn thì cơ quan có thẩm quyền theo dõi, ra thông báo thu hồi kinh phí có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định pháp luật. Xem chi tiết tại Dự thảo Nghị định sửa đổi được lấy ý kiến từ ngày 14/8 - 14/10/2023. Xem và tải Dự thảo https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/08/17/nghi-dinh-sua-doi-bo-sung-nghi-dinh-116-doc.doc
Chế độ sinh hoạt phí đối với cơ quan Việt Nam ở nước ngoài
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 08/2019/NĐ-CP quy định chế độ đối với thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Theo đó Nghị định đã quy định mức sinh hoạt phí cơ sở áp dụng chung cho tất cả các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là 650 đô-la Mỹ/người/tháng và sẽ được xem xét điều chỉnh khi chỉ số giá tiêu dùng tại các địa bàn tăng từ 10% trở lên hoặc tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam ( quy định tại khoản 1 điều 5). Hệ số địa bàn gồm có 5 mức: 1,0; 1,1; 1,2; 1,3 và 1,4. Mức sinh hoạt cụ thể được tính dựa vào tiêu chuẩn chức danh, chức vụ của từng thành viên và được tính dựa vào chỉ số sinh hoạt phí với mức thấp nhất là 100% và cao nhất là 250%. Ngoài ra các thành viên còn hưởng các ưu đãi khác khi đi công tác ở nước ngoài như: Chế độ bảo hiểm khám, chữa bệnh; được Nhà nước thanh toán tiền nhà ở, tiền điện, tiền nước, tiền chất đốt, tiền thuê bao cáp truyền hình, tiền thuê bao điện thoại, tiền thuê bao internet; Tiền vé máy bay; mua trang phục đối ngoại, đồ dùng cá nhân thiết yếu trong nhiệm kỳ công tác và những chế độ đối với con chưa thành niên;..( được quy định cụ thể tại Nghị định 08/2019/NĐ-CP). Qua đó có thể thấy chế độ uư đãi đối với những thành viên cơ quan Việt Nam làm việc ở nước ngoài là rất lớn, nhằm giúp họ hoàn thành tốt nhất những công việc, nhiệm vụ được giao, nhất là những nhiệm vụ đối ngoại quan trọng đối với nước nhà. Nghị định 08/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 11/03/2019.