Bảo lưu quyền sở hữu - biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định pháp luật? (Phần 2)
Quy định pháp luật về quyền đòi lại tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Xác định quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Quyền đòi lại tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 332 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: “Điều 332. Quyền đòi lại tài sản Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Quy định này cho thấy, quyền đòi lại tài sản thuộc về bên bán khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán. Trong các giao dịch mua bán tài sản, không phải lúc nào các bên cũng có thể thanh toán toàn bộ ngay lập tức. Thay vào đó, họ có thể thỏa thuận về hình thức mua chậm trả dần. Trong trường hợp này, dù bên mua đã chiếm hữu và sử dụng tài sản mà chưa thanh toán hết tiền, bên bán vẫn giữ quyền sở hữu hợp pháp và có thể yêu cầu trả lại tài sản nếu bên mua không thanh toán đầy đủ. Với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, bên mua không cần phải giao tài sản bảo đảm cho bên bán ngay lập tức. Nếu bên mua không thanh toán theo thỏa thuận, bên bán có quyền đòi lại tài sản. Khi bên bán đòi lại tài sản, họ phải hoàn trả số tiền mà bên mua đã thanh toán trước đó, sau khi trừ đi giá trị hao mòn tài sản do việc sử dụng của bên mua. Hao mòn này phải là do sử dụng tài sản của bên mua, không phải hao mòn tự nhiên. Theo Điều 41, khoản 2 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP, bên mua không phải chịu trách nhiệm về hao mòn tự nhiên của tài sản bảo lưu quyền sở hữu. Nếu tài sản bị mất hoặc hư hỏng, bên bán có quyền yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại tương đương với giá trị thiệt hại. Trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu, bên mua hoặc bên thứ ba có thể đầu tư vào tài sản, và quy định này được nêu rõ tại khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 21/2021/NĐ-CP. Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Điều 332 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về Quyền đòi lại tài sản như sau: “Điều 333. Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản 1. Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực. 2. Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu, bên bán là bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ từ bên mua. Tuy nhiên, pháp luật cũng đảm bảo quyền lợi cho bên mua bằng cách trao cho họ những quyền cơ bản. Cụ thể, Điều 333 Bộ luật Dân sự năm 2015 nói trên có ghi nhận: (i) Bên mua có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu còn hiệu lực; (ii) Bên mua phải chịu rủi ro đối với tài sản trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu, trừ khi có thỏa thuận khác. Điều này có nghĩa là, trong trường hợp mua tài sản theo hình thức trả dần, bên mua vẫn được quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản dù chưa thanh toán hết tiền. Bên bán chỉ có quyền kiểm soát việc bên mua tặng cho, trao đổi, hoặc bán tài sản chưa thanh toán đầy đủ. Quy định này cho phép bên mua hưởng hoa lợi và lợi tức từ tài sản, phù hợp với bản chất của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Nếu bên mua không được sử dụng tài sản cho đến khi thanh toán hết tiền, thì giao dịch sẽ quay về hình thức mua đứt bán đoạn. Ví dụ, nếu A mua xe ô tô của B theo hình thức trả dần và có thỏa thuận bảo lưu quyền sở hữu, A có thể cho thuê xe để thu lợi, khoản lợi này có thể được dùng để thanh toán phần còn thiếu cho B. Việc đầu tư vào tài sản phải phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 20 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP. Bên mua có quyền sử dụng tài sản mà không phụ thuộc vào ý chí của bên bán. Do đó, bên mua phải chịu rủi ro đối với tài sản trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu. Nếu hết thời hạn bảo lưu mà bên mua không hoàn thành nghĩa vụ, họ phải bồi thường thiệt hại cho bên bán. Ngược lại, nếu bên mua hoàn thành nghĩa vụ, họ vẫn phải chịu rủi ro về tài sản trong quá trình sử dụng. Các bên có thể thỏa thuận khác về việc chịu rủi ro trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Quyền Đòi Lại Tài Sản Từ Người Chiếm Hữu Không Có Căn Cứ Pháp Luật
Quyền chiếm hữu là một quyền quan trọng trong chế định sở hữu tài sản. Nếu phát hiện một người đang chiếm hữu tài sản của mình không có căn cứ pháp luật, bạn có được đòi lại không? Quyền chiếm hữu tài sản là một trong những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu tài sản. Việc một người chiếm hữu tài sản được phát sinh trên cơ sở hoặc là có căn cứ pháp luật hoặc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 Điều 165, việc chiếm hữu dựa trên một trong các căn cứ sau thì được xem là chiếm hữu có căn cứ pháp luật: a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; e) Trường hợp khác do pháp luật quy định. Như vậy, nếu chủ thể khác có hành vi chiếm hữu nhưng không phát sinh từ một trong các căn cứ trên thì bị xem là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Trong chế định về chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, được phân chia thành chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình. Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Ví dụ như A mua một chiếc laptop cũ từ bạn cùng lớp là B. A không biết rằng chiếc lap kia do B lấy trộm từ C. Do đó, A tin chắc rằng mình có quyền chiếm hữu đối với chiếc lap mới mua. Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Ví dụ A mua một chiếc xe gắn máy từ B với giá rẻ, không có giấy tờ. Mặc dù biết chiếc xe của B không có giấy tờ nhưng do ham rẻ, A vẫn cố tình mua. Vì xe máy là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, A biết rõ việc mua bán như vậy là sai nhưng thực hiện. A là người chiếm hữu không ngay tình. Căn cứ theo Điều 166 BLDS 2015, "Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật". Pháp luật quy định việc có đòi lại được tài sản hay không phụ thuộc vào nguồn gốc có được tài sản, tính chất ngay tình trong chiếm hữu, nguyên tắc đền bù. Cụ thể: Điều 167: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: "Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu" Điều 168. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình "Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này." Điều 168 quy định việc đòi lại tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình nhưng loại bỏ 2 trường hợp sau nhằm bảo vệ quyền của người thứ ba ngay tình: 1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. 2. Trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. Như vậy, không phải trong mọi trường hợp chủ sở hữu đều có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Minh Trang
Bảo lưu quyền sở hữu - biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định pháp luật? (Phần 2)
Quy định pháp luật về quyền đòi lại tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Xác định quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Quyền đòi lại tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 332 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: “Điều 332. Quyền đòi lại tài sản Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Quy định này cho thấy, quyền đòi lại tài sản thuộc về bên bán khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán. Trong các giao dịch mua bán tài sản, không phải lúc nào các bên cũng có thể thanh toán toàn bộ ngay lập tức. Thay vào đó, họ có thể thỏa thuận về hình thức mua chậm trả dần. Trong trường hợp này, dù bên mua đã chiếm hữu và sử dụng tài sản mà chưa thanh toán hết tiền, bên bán vẫn giữ quyền sở hữu hợp pháp và có thể yêu cầu trả lại tài sản nếu bên mua không thanh toán đầy đủ. Với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, bên mua không cần phải giao tài sản bảo đảm cho bên bán ngay lập tức. Nếu bên mua không thanh toán theo thỏa thuận, bên bán có quyền đòi lại tài sản. Khi bên bán đòi lại tài sản, họ phải hoàn trả số tiền mà bên mua đã thanh toán trước đó, sau khi trừ đi giá trị hao mòn tài sản do việc sử dụng của bên mua. Hao mòn này phải là do sử dụng tài sản của bên mua, không phải hao mòn tự nhiên. Theo Điều 41, khoản 2 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP, bên mua không phải chịu trách nhiệm về hao mòn tự nhiên của tài sản bảo lưu quyền sở hữu. Nếu tài sản bị mất hoặc hư hỏng, bên bán có quyền yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại tương đương với giá trị thiệt hại. Trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu, bên mua hoặc bên thứ ba có thể đầu tư vào tài sản, và quy định này được nêu rõ tại khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 21/2021/NĐ-CP. Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản trong bảo lưu quyển sở hữu? Điều 332 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về Quyền đòi lại tài sản như sau: “Điều 333. Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản 1. Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực. 2. Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu, bên bán là bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ từ bên mua. Tuy nhiên, pháp luật cũng đảm bảo quyền lợi cho bên mua bằng cách trao cho họ những quyền cơ bản. Cụ thể, Điều 333 Bộ luật Dân sự năm 2015 nói trên có ghi nhận: (i) Bên mua có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu còn hiệu lực; (ii) Bên mua phải chịu rủi ro đối với tài sản trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu, trừ khi có thỏa thuận khác. Điều này có nghĩa là, trong trường hợp mua tài sản theo hình thức trả dần, bên mua vẫn được quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản dù chưa thanh toán hết tiền. Bên bán chỉ có quyền kiểm soát việc bên mua tặng cho, trao đổi, hoặc bán tài sản chưa thanh toán đầy đủ. Quy định này cho phép bên mua hưởng hoa lợi và lợi tức từ tài sản, phù hợp với bản chất của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Nếu bên mua không được sử dụng tài sản cho đến khi thanh toán hết tiền, thì giao dịch sẽ quay về hình thức mua đứt bán đoạn. Ví dụ, nếu A mua xe ô tô của B theo hình thức trả dần và có thỏa thuận bảo lưu quyền sở hữu, A có thể cho thuê xe để thu lợi, khoản lợi này có thể được dùng để thanh toán phần còn thiếu cho B. Việc đầu tư vào tài sản phải phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 20 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP. Bên mua có quyền sử dụng tài sản mà không phụ thuộc vào ý chí của bên bán. Do đó, bên mua phải chịu rủi ro đối với tài sản trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu. Nếu hết thời hạn bảo lưu mà bên mua không hoàn thành nghĩa vụ, họ phải bồi thường thiệt hại cho bên bán. Ngược lại, nếu bên mua hoàn thành nghĩa vụ, họ vẫn phải chịu rủi ro về tài sản trong quá trình sử dụng. Các bên có thể thỏa thuận khác về việc chịu rủi ro trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Quyền Đòi Lại Tài Sản Từ Người Chiếm Hữu Không Có Căn Cứ Pháp Luật
Quyền chiếm hữu là một quyền quan trọng trong chế định sở hữu tài sản. Nếu phát hiện một người đang chiếm hữu tài sản của mình không có căn cứ pháp luật, bạn có được đòi lại không? Quyền chiếm hữu tài sản là một trong những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu tài sản. Việc một người chiếm hữu tài sản được phát sinh trên cơ sở hoặc là có căn cứ pháp luật hoặc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 Điều 165, việc chiếm hữu dựa trên một trong các căn cứ sau thì được xem là chiếm hữu có căn cứ pháp luật: a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; e) Trường hợp khác do pháp luật quy định. Như vậy, nếu chủ thể khác có hành vi chiếm hữu nhưng không phát sinh từ một trong các căn cứ trên thì bị xem là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Trong chế định về chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, được phân chia thành chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình. Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Ví dụ như A mua một chiếc laptop cũ từ bạn cùng lớp là B. A không biết rằng chiếc lap kia do B lấy trộm từ C. Do đó, A tin chắc rằng mình có quyền chiếm hữu đối với chiếc lap mới mua. Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Ví dụ A mua một chiếc xe gắn máy từ B với giá rẻ, không có giấy tờ. Mặc dù biết chiếc xe của B không có giấy tờ nhưng do ham rẻ, A vẫn cố tình mua. Vì xe máy là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, A biết rõ việc mua bán như vậy là sai nhưng thực hiện. A là người chiếm hữu không ngay tình. Căn cứ theo Điều 166 BLDS 2015, "Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật". Pháp luật quy định việc có đòi lại được tài sản hay không phụ thuộc vào nguồn gốc có được tài sản, tính chất ngay tình trong chiếm hữu, nguyên tắc đền bù. Cụ thể: Điều 167: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: "Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu" Điều 168. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình "Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này." Điều 168 quy định việc đòi lại tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình nhưng loại bỏ 2 trường hợp sau nhằm bảo vệ quyền của người thứ ba ngay tình: 1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. 2. Trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. Như vậy, không phải trong mọi trường hợp chủ sở hữu đều có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Minh Trang