Có được cầm cố quyền sử dụng đất không?
Cầm cố đất là giao dịch đã có từ thời ông cha ta đến nay. Vậy hiện nay cố đất có được pháp luật thừa nhận không? Có được cầm cố quyền sử dụng đất không? Quyền sử dụng đất có phải là tài sản không? Theo Điều 105 và Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: - Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. - Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. - Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Như vậy, quyền sử dụng đất được xem là quyền tài sản và là một loại tài sản. Có được cầm cố quyền sử dụng đất không? Theo Điều 309 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Theo Điều 310 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hiệu lực của cầm cố tài sản như sau: - Hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. - Cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố. Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Đồng thời, theo quy định tại Điều 45 Luật Đất đai 2024 thì người sử dụng đất có các quyền như sau: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất. Theo đó, mặc dù không quy định về quyền cầm cố quyền sử dụng đất nhưng pháp luật đất đai hiện hành cũng không cấm hoạt động này, đồng thời tại Bộ luật Dân sự 2015 cũng cho phép cầm cố quyền sử dụng đất (vì quyền sử dụng đất là một loại tài sản) và được thể hiện bằng hình thức cầm cố bất động sản. Như vậy, hiện nay vẫn được cầm cố quyền sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của các bên cầm cố, nhận cầm cố quyền sử dụng đất là gì? Theo các quy định từ Điều 311 đến Điều 314 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: (1) Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố - Quyền của bên cầm cố: + Yêu cầu bên nhận cầm cố chấm dứt việc sử dụng tài sản cầm cố trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 314 Bộ luật Dân sự 2015 nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị. + Yêu cầu bên nhận cầm cố trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt. + Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố. + Được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố nếu được bên nhận cầm cố đồng ý hoặc theo quy định của luật. - Nghĩa vụ của bên cầm cố” + Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thỏa thuận. + Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, nếu có; trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền hủy hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố. + Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (2) Quyền và nghĩa vụ của bên nhận cầm cố - Quyền của bên nhận cầm cố: + Yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó. + Xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. + Được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thỏa thuận. + Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố. - Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố: + Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất, thất lạc hoặc hư hỏng tài sản cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố. + Không được bán, trao đổi, tặng cho, sử dụng tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. + Không được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. + Trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. Như vậy, bên cầm cố và bên nhận cầm cố đều có các quyền và nghĩa vụ ràng buộc với nhau mà mỗi bên đều phải thực hiện. Khi nào chấm dứt cầm cố quyền sử dụng đất? Bên nhận cầm cố có trả lại quyền sử dụng đất không? Theo Điều 315, Điều 316 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cầm cố tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây: - Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt. - Việc cầm cố tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. - Tài sản cầm cố đã được xử lý. - Theo thỏa thuận của các bên. Đồng thời, khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 315 Bộ luật Dân sự 2015 hoặc theo thỏa thuận của các bên thì tài sản cầm cố, giấy tờ liên quan đến tài sản cầm cố được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, trừ khi tài sản cầm cố đã được xử lý thì các trường hợp còn lại khi chấm dứt cầm cố quyền sử dụng đất, bên nhận cầm cố sẽ trả lại quyền sử dụng đất hoặc theo thoả thuận.
Xác định nội dung áp dụng của Án lệ số 31/2020/AL trong giao dịch mua bán, trao đổi?
Trường hợp các bên chuyển giao các quyền tài sản thông qua các giao dịch dân sự khác như mua bán, trao đổi,… thì có áp dụng Án lệ số 31/2020/AL hay không? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước theo nghị định số 61/cp ngày 05-7-1994 của chính phủ là quyền tài sản (được ban hành kèm theo Quyết định 50/QĐ-CA năm 2020 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Khái quát nội dung án lệ: - Tình huống án lệ: Cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kếcủa người đó. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Các điều 172, 188, 634 Bộ luật Dân sự năm 1995 (tương ứng với các điều 163, 181, 631 Bộ luật Dân sự năm 2005; các điều 105, 115, 609 Bộ luật Dân sự năm 2015); - Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở. Nhận định Tòa án có liên quan đến án lệ: [1] Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I (nay là đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) là do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản, sử dụng từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Năm 1981, Quân khu 7 cấp “Giấy phép quyền sở hữu sử dụng” số 092/QĐ ngày 16-4-1981 cho cụ Nguyễn Thanh T. Theo nội dung giấy phép, việc cấp nhà cho cụ T là “đểtạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình cán bộ không có nhà ở”, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ T) sống chung với cụ T, có hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên. Đến năm 1982, hai chị em bà Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1 mới chuyển hộ khẩu về sống cùng cụ T. Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. [2] Năm 1998, khi bà L có đơn gửi Hội đồng nhà đất Quân khu 7 xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở thì bà H và ông T1 khiếu nại, không đồng ý cho bà L mua nhà trên theo chế độ của cụ T. Tại Biên bản giải quyết khiếu nại ngày 05-7-2001 của Thanh tra Bộ Quốc phòng, hai bên đã thỏa thuận thống nhất “…đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà 63 đường B. Việc phân chia sau khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị còn lại do chị em bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải quyết theo pháp luật” và tại Biên bản giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân Phường H ngày 17-8-2001, bà L cũng xác nhận “đồng ý làm cam kết theo Biên bản giải quyết của Quân khu ngày 05-7-2001…”. Đến ngày 02-10-2001, Cục A Quân khu 7 ký hợp đồng cho bà L thuê căn nhà trên. Sau đó, Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủtục bán căn nhà trên cho bà L theo Nghị định số 61/CP. Ngày 09-10-2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do có sự thống nhất, thỏa thuận giữa bà H, ông T1 với bà L ngày 05-7-2001 thì Quân khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó, có căn cứ xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L. [3] Giấy ủy quyền ngày 09-6-1993 của cụ T có nội dung: “Tôi ủy quyền cho con tôi Nguyễn Thị Kim L thay mặt tôi khi còn sống và ủy quyền cho nó được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà được Quân khu 7 và Sở nhà đất thành phố cấp cho (bao gồm tầng lầu 1 và diện tích sàn phía dưới đất đã được phân chia giữa hai gia đình từ trước) khi không may tôi qua đời”. Đây là giấy ủy quyền cho bà L thay mặt cụ T khi còn sống, cũng như khi cụ T qua đời để giải quyết những việc có liên quan đến căn nhà (về thủ tục) chứ không phải ủy quyền cho bà L sở hữu toàn bộ căn nhà như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. [4] Ngoài ra, theo bà L khai thì việc bà L nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B là do cụ T yêu cầu bà trả nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do bà và gia đình được cấp theo chế độ liệt sỹ. Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện để được nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B thì bà L phải trả nhà số 4/1 đường HV trên. Bà L trình bày bà mua căn nhà số 63 đường B theo chế độ liệt sỹ chứ không phải theo chế độ của cụ T. Theo Công văn số 8709/SXD-BKTBN ngày 08-12-2008 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thì Hội đồng bán nhà ở Quân khu 7 khi lập thủ tục bán căn nhà trên không miễn giảm chính sách ưu đãi diện người có công với cách mạng cho cụ T, mà bán nhà dựa trên các tài liệu như đơn xin mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, sổ hộkhẩu của bà L, Quyết định 092/QĐ ngày 16-4-1981 về cấp nhà cho cụ T, Giấy xác nhận số 672/XN-QLĐT ngày 05-12-1998 về việc bà L đã trả nhà 4/1 đường HV… Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ việc bà L được mua nhà theo chế độ ưu tiên nào? chế độ ưu tiên của cụ T hay chế độ con liệt sỹ của bà L là thiếu sót. [5] Mặt khác, theo Quyết định số 05/QĐ-UB-QLĐT ngày 04-01-1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì giá đất ở đường B là 4.000.000 đồng/m2 (328,21m2x 4.000.000 đồng/m2= 1.312.840.000 đồng), trong khi đó bà L mua nhà đất trên với giá đất là 392.296.000 đồng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ bà L mua nhà được giảm theo chế độ nào? Việc giảm trừ tiền mua nhà theo năm công tác và tỷ lệ % xét giảm cụ thể như thế nào [6] Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L là có căn cứ; tuy nhiên, khi xác định tỷ lệ phần giá trị để chia, lẽ ra phải trừ chi phí mua nhà và công sức của bà L, sau đó mới chia tài sản chung, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia cho bà L được hưởng ½ giá trị căn nhà, sau đó trừ đi chi phí mua nhà trong phần giá trị ½ còn lại rồi mới chia đều cho bà H, ông T1 và bà L là không đúng. [7] Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụ T đã lập “Giấy ủy quyền” ngày 09-6-1993 ủy quyền cho bà L toàn bộ căn nhà số 63 đường B và việc bà L phải trả lại căn nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cho Nhà nước là do sự đánh đổi quyền lợi đang được hưởng để xác định căn nhà số 63 đường B là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn ThịKim L và ông Nguyễn Phi H3 (chồng bà L đã chết năm 2006) là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các con của cụ T. [8] Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành thẩm định, định giá diện tích đất tranh chấp; tính toán sau khi trừ đi những chi phí bà L đã bỏ ra mua nhà và công sức của bà L, phần còn lại chia cho nguyên đơn và bị đơn, có tính đến giá thị trường để đảm bảo quyền lợi cho các bên theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình sử dụng nhà, bà L và ông Nguyễn Thanh H1 đã đầu tư sửa chữa nhà, ông Nguyễn Thanh H1 có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trả lại chi phí sửa chữa nhà cho ông khoảng 400.000.000 đồng, nên khi giải quyết lại Tòa án cấp sơ thẩm cần hướng dẫn cho ông Nguyễn Thanh H1 nộp tạm ứng án phí và giải quyết chung trong cùng vụán. Nội dung án lệ: “[1]… Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.” Áp dụng án lệ: Án lệ số 31/2020/AL đưa ra nội dung xác định trường hợp cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định 61-CP năm 1994 về việc mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, Tòa án phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của người đó. Với nội dung của Án lệ số 31/2020/AL, tình huống tương tự có thể được xem xét áp dụng là trong các tranh chấp liên quan đến nhà ở do cá nhân thuê của nhà nước, thuộc diện được hóa giá nhà theo Nghị định 61-CP năm 1994 về việc mua bán và kinh doanh nhà ở. Theo đó, quyền thuê nhà, quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước được xác định là quyền tài sản (quyền trị giá được bằng tiền); khi người thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước chết thì các quyền này được chuyển giao cho các thừa kế của người đó thông qua quan hệ pháp luật về thừa kế. Trên phương diện học thuật, có ý kiến cho rằng khi khẳng định quyền thuê nhà, quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước là quyền tài sản thì đồng thời phải thừa nhận các quyền này có thể được tự do chuyển giao trong giao lưu dân sự như mua bán, trao đổi,… mà không nên giới hạn phạm vi chuyển giao thông qua quan hệ pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 5 của Nghị định 61-CP năm 1994 về việc mua bán và kinh doanh nhà ở thì chính sách về bán nhà ở thuộc sở hữu của nhà nước hướng đến đối tượng được xác định cụ thể là người đang thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước, có mục đích để họ có điều kiện cải thiện chỗ ở. Tác giả đồng quan điểm với TS. Nguyễn Sơn – Nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và TS. Trần Thị Quang Hồng – Trưởng ban Nghiên cứu pháp luật dân sự - kinh tế, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp: Thấy rằng nếu thừa nhận các quyền tài sản này thể được tự do chuyển giao trong các giao lưu dân sự như các tài sản thông thường khác thì sẽ không bảo đảm đúng mục đích của chính sách mà nhà nước đề ra. Do vậy, việc xác định giới hạn phạm vi chuyển giao các quyền tài sản này trong quan hệ pháp luật về thừa kế là cần thiết. Trường hợp các bên chuyển giao các quyền tài sản này thông qua các giao dịch dân sự khác như mua bán, trao đổi,… thì không áp dụng Án lệ số 31/2020/AL này.
Quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước có được xem là quyền tài sản?
Cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước nhưng chưa làm thủ tục mua hóa giá. Vậy trường hợp này quyền thuê nhà, mua nhà có được xác định là quyền tài sản? Tìm hiểu nội dung án lệ số 31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước theo nghị định số 61/cp ngày 05-7-1994 của chính phủ là quyền tài sản (được ban hành kèm theo Quyết định 50/QĐ-CA năm 2020 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Tại Đơn khởi kiện ngày 05-7-2007, Đơn khởi kiện bổ sung các ngày 29-8-2008, 15-01-2010, 20-7-2010, 10-8-2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H trình bày: Cha mẹ bà là cụ Nguyễn Thanh T (chết năm 1995) và cụ Lâm Thị C (chết ngày 25-01-2011) có 03 người con chung là bà (H), ông Nguyễn Văn T1, ông Nguyễn Văn T2 (chết năm 1992, có vợ là bà Hồ Thị H 4 và có 04 người con chung là các anh chị Nguyễn Hồ Thanh C1, Nguyễn Hồ Hoàng Đ, Nguyễn Thị An T2, Nguyễn Thị Mỹ D). Cụ T tham gia cách mạng từ trước tháng 8-1945 ở Bạc Liêu. Ngày 20-7-1954, cụ T tập kết ra Bắc. Năm 1964, cụ C lấy chồng khác. Tháng 10-1975, cụ T về công tác tại Cục A Quân khu 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1976, cụ T chung sống với cụ Lê Thị T4 (không đăng ký kết hôn). Khoảng đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, nay là nhà số 63 đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Quyết định số 092/QĐ ngày 16-4-1981, Hội đồng nhà đất Quân khu 7 đã cấp chính thức căn nhà trên cho cụ T. Ngày 27-8-1995, cụ T chết không để lại di chúc. Bà Nguyễn Thị Kim L là con riêng của cụ T4 đã đứng tên làm hợp đồng thuê căn nhà trên và xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở (sau đây gọi tắt là Nghị định số 61/CP). Khi biết được việc làm này của bà L thì bà đã có đơn khiếu nại. Ngày 05-7-2001, Thanh tra quốc phòng của Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã họp giải quyết với nội dung: nếu gia đình bà không còn khiếu nại thì nhà số 63 đường B sẽ được giải quyết cho bà L mua hóa giá; sau khi mua hóa giá xong thì sẽ trừ các khoản chi phí trong việc mua nhà của Nhà nước, giá trị còn lại của ngôi nhà sẽ do nội bộ chị em trong gia đình thỏa thuận chia; nếu không thống nhất được thì sẽ giải quyết theo pháp luật. Tuy nhiên, sau khi mua hóa giá xong, bà L đã chiếm đoạt luôn căn nhà và cho Công ty trách nhiệm hữu hạn NV thuê, mà không trao đổi bàn bạc với bà và ông T1 để cùng thỏa thuận phân chia giá trị của ngôi nhà. Bà xác định nhà số 63 đường B được Nhà nước bán hóa giá với sự đãi ngộcủa Đảng và Nhà nước cho cụ T, nên các con cụ T phải được hưởng. Bà đề nghị Tòa án buộc bà L phải chia cho các thừa kế của cụ T ½ giá trị nhà số 63 đường B, sau khi đã trừ tiền mua hóa giá ngôi nhà và các chi phí liên quan trong việc mua hóa giá nhà. Tại Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 29-8-2008, bà yêu cầu Tòa án chia nhà số 63 đường B theo pháp luật cho các thừa kế của cụ T bao gồm cụ T4, bà, ông T1, ông T2, bà L (nếu chứng minh được là con nuôi hợp pháp) và yêu cầu bà L hoàn trả tiền cho thuê nhà từ năm 1998 đến nay là khoảng 2.000.000.000 đồng. Ngày 20-7-2010, bà có đơn yêu cầu Tòa án xác định việc Cục A Quân khu 7 ký hợp đồng bán nhà số 63 đường B cho bà L là không đúng pháp luật, đề nghị hủy hợp đồng mua bán nhà giữa Cục A Quân khu 7 với vợ chồng bà L; công nhận các thừa kế của cụ T được quyền hưởng tiêu chuẩn của cụ T để được mua nhà số 63 đường B. Ngày 10-8-2010, bà H có đơn rút lại yêu cầu ngày 20-7-2010. Ngày 17-11-2014, bà H có đơn yêu cầu chia tài sản chung là nhà số 63 đường B theo biên bản thỏa thuận của Thanh tra Bộ Quốc phòng, không yêu cầu chia số tiền mà bà L đã cho Công ty trách nhiệm hữu hạn NV thuê nhà số 63 đường B từ năm 2002 đến nay. Bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L trình bày: Cha mẹ bà là cụ Lê Thị T4 và cụ Nguyễn Văn C2 (Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục Miền Nam – hy sinh năm 1973). Năm 1975, bà và gia đình được Ban Tổ chức Trung ương cấp cho 01 phần căn nhà tại số 201/6 Y, nay là số 4/1 (có lúc ghi là số 204/1) đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi cụ C2 mất, cụ T4 xây dựng gia đình với cụ T. Năm 1981, cụ T4 ốm, nên bà về tạm trú tại nhà số 63 đường B để nuôi mẹ bệnh. Năm 1982, cụ T4 chết. Khi đó cụ T bị bệnh, thường xuyên phải vào viện, nhưng không có người nhà chăm sóc (các con cụ T đã chuyển hộ khẩu và đi nơi khác sinh sống), nên bà ở lại nhà số 63 đường B để chăm sóc cụ T. Năm 1986, theo yêu cầu của cụ T, chị em bà đã làm thủ tục trả lại căn nhà số4/1 đường HV để được nhập hộ khẩu vào căn nhà số 63 đường B. Năm 1993, cụ T lập giấy ủy quyền cho bà được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà số 63 đường B; cụ T viết rõ trong giấy ủy quyền là giấy ủy quyền có giá trị trong khi cụ còn sống và kể cả khi cụ chết. Năm 1995, cụ T chết. Năm 2001, khi bà đứng tên làm thủ tục mua hóa giá nhà thì bà H và ông T1 có đơn khiếu nại. Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã giải quyết bằng cách bác đơn khiếu nại của bà H, cho vợ chồng bà được mua hóa giá nhà, sau khi mua xong sẽ trừ số tiền mua hóa giá nhà, phần còn lại sẽ do chị em trong gia đình thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì giải quyết theo pháp luật. Xuất phát từ tình cảm cá nhân và cùng là chị em, nên bà cũng có ý định là nếu bà H có đơn bãi nại và bà được xét giảm tiền mua nhà theo tiêu chuẩn của cụ T thì bà sẽ hỗ trợ cho các con ruột của cụ T. Vì vậy, bà cũng đồng ý với việc giải quyết của Bộ tư lệnh Quân khu 7, nhưng sau đó, bà H và ông T1 vẫn tiếp tục khiếu nại, nên bà không được mua giảm giá theo chế độ của cụ T mà mua theo chế độ con liệt sỹ với giá 606.311.587 đồng. Do bà nộp tiền một lần nên được giảm 10% tiền nhà và 20% tiền đất, tổng số tiền phải trả là 506.450.828 đồng. Như vậy, bà mua hóa giá nhà trên theo tiêu chuẩn của bà (tiêu chuẩn con liệt sỹ), không phải tiêu chuẩn của cụ T, nên nhà số 63 đường B nêu trên là tài sản riêng của vợ chồng bà. Ngày 09-10-2002, bà và chồng của bà là ông Nguyễn Phi H3 (chết ngày 04-7-2006) được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Sau khi mua hóa giá nhà, ông Nguyễn Thanh H1 (anh trai bà) đã sửa chữa nhà hết 400.000.000 đồng (tương đương 80 lượng vàng). Nếu yêu cầu của bà H được chấp nhận thì phải trừ chi phí sửa nhà của ông H1 là 80 lượng vàng. Nhận định của Tòa án: [1] Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I (nay là đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) là do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản, sử dụng từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Năm 1981, Quân khu 7 cấp “Giấy phép quyền sở hữu sử dụng” số 092/QĐ ngày 16-4-1981 cho cụ Nguyễn Thanh T. Theo nội dung giấy phép, việc cấp nhà cho cụ T là “đểtạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình cán bộ không có nhà ở”, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ T) sống chung với cụ T, có hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên. Đến năm 1982, hai chị em bà Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1 mới chuyển hộ khẩu về sống cùng cụ T. Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. [2] Năm 1998, khi bà L có đơn gửi Hội đồng nhà đất Quân khu 7 xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở thì bà H và ông T1 khiếu nại, không đồng ý cho bà L mua nhà trên theo chế độ của cụ T. Tại Biên bản giải quyết khiếu nại ngày 05-7-2001 của Thanh tra Bộ Quốc phòng, hai bên đã thỏa thuận thống nhất “…đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà 63 đường B. Việc phân chia sau khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị còn lại do chị em bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải quyết theo pháp luật” và tại Biên bản giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân Phường H ngày 17-8-2001, bà L cũng xác nhận “đồng ý làm cam kết theo Biên bản giải quyết của Quân khu ngày 05-7-2001…”. Đến ngày 02-10-2001, Cục A Quân khu 7 ký hợp đồng cho bà L thuê căn nhà trên. Sau đó, Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủtục bán căn nhà trên cho bà L theo Nghị định số 61/CP. Ngày 09-10-2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do có sự thống nhất, thỏa thuận giữa bà H, ông T1 với bà L ngày 05-7-2001 thì Quân khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó, có căn cứ xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L. [3] Giấy ủy quyền ngày 09-6-1993 của cụ T có nội dung: “Tôi ủy quyền cho con tôi Nguyễn Thị Kim L thay mặt tôi khi còn sống và ủy quyền cho nó được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà được Quân khu 7 và Sở nhà đất thành phố cấp cho (bao gồm tầng lầu 1 và diện tích sàn phía dưới đất đã được phân chia giữa hai gia đình từ trước) khi không may tôi qua đời”. Đây là giấy ủy quyền cho bà L thay mặt cụ T khi còn sống, cũng như khi cụ T qua đời để giải quyết những việc có liên quan đến căn nhà (về thủ tục) chứ không phải ủy quyền cho bà L sở hữu toàn bộ căn nhà như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. [4] Ngoài ra, theo bà L khai thì việc bà L nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B là do cụ T yêu cầu bà trả nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do bà và gia đình được cấp theo chế độ liệt sỹ. Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện để được nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B thì bà L phải trả nhà số 4/1 đường HV trên. Bà L trình bày bà mua căn nhà số 63 đường B theo chế độ liệt sỹ chứ không phải theo chế độ của cụ T. Theo Công văn số 8709/SXD-BKTBN ngày 08-12-2008 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thì Hội đồng bán nhà ở Quân khu 7 khi lập thủ tục bán căn nhà trên không miễn giảm chính sách ưu đãi diện người có công với cách mạng cho cụ T, mà bán nhà dựa trên các tài liệu như đơn xin mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, sổ hộkhẩu của bà L, Quyết định 092/QĐ ngày 16-4-1981 về cấp nhà cho cụ T, Giấy xác nhận số 672/XN-QLĐT ngày 05-12-1998 về việc bà L đã trả nhà 4/1 đường HV… Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ việc bà L được mua nhà theo chế độ ưu tiên nào? chế độ ưu tiên của cụ T hay chế độ con liệt sỹ của bà L là thiếu sót. [5] Mặt khác, theo Quyết định số 05/QĐ-UB-QLĐT ngày 04-01-1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì giá đất ở đường B là 4.000.000 đồng/m2 (328,21m2x 4.000.000 đồng/m2= 1.312.840.000 đồng), trong khi đó bà L mua nhà đất trên với giá đất là 392.296.000 đồng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ bà L mua nhà được giảm theo chế độ nào? Việc giảm trừ tiền mua nhà theo năm công tác và tỷ lệ % xét giảm cụ thể như thế nào? [6] Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L là có căn cứ; tuy nhiên, khi xác định tỷ lệ phần giá trị để chia, lẽ ra phải trừ chi phí mua nhà và công sức của bà L, sau đó mới chia tài sản chung, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia cho bà L được hưởng ½ giá trị căn nhà, sau đó trừ đi chi phí mua nhà trong phần giá trị ½ còn lại rồi mới chia đều cho bà H, ông T1 và bà L là không đúng. [7] Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụ T đã lập “Giấy ủy quyền” ngày 09-6-1993 ủy quyền cho bà L toàn bộ căn nhà số 63 đường B và việc bà L phải trả lại căn nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cho Nhà nước là do sự đánh đổi quyền lợi đang được hưởng để xác định căn nhà số 63 đường B là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn ThịKim L và ông Nguyễn Phi H3 (chồng bà L đã chết năm 2006) là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các con của cụ T. Nội dung án lệ: “[1]… Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.” Như vậy, trường hợp cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật. Theo nội dung án lệ trên, trường hợp này, phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của người đó.
Khi thế chấp quyền đòi nợ cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ trả nợ không ?
Khi người có nghĩa vụ sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm thì có cần sự đồng ý của người bị đòi nợ không? Thực ra, quyền lợi của người bị đòi nợ không bị thay đổi; chỉ có một điểm khác biệt là người này phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho người có quyền (người nhận thế chấp quyền đòi nợ). Do đó việc thế chấp quyền đòi nợ không cần có sự đồng ý của người bị đòi nợ. Theo quy định tại Điều 33 Nghị định 21/2021/NĐ-CP có nêu rõ: “Việc thế chấp bằng quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ”. Như vậy theo quy định này thì khi thế chấp quyền đòi nợ sẽ không cần phải có sự đồng ý của người có nghĩa vụ trả nợ. Vậy có phải thực hiện thông báo cho người có nghĩa vụ trả nợ hay không? Nếu người có nghĩa vụ trả nợ không biết đến việc thế chấp quyền đòi nợ thì khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ sẽ trả nợ cho người thế chấp quyền đòi nợ thì sao? Theo quy định tại Điều 33 Nghị định 21/2021/NĐ-CP có đề cập việc thực hiện thế chấp quyền đòi nợ thì người nhận thế chấp phải thông báo cho bên có nghĩa vụ trả nợ để thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Như vậy khi đó người có nghĩa vụ trả nợ sẽ thực hiện thanh toán cho người nhận thế chấp.
cho em hỏi ứng dụng của quyền tài sản trong thực hiện các hoạt động kinh doanh thực hiện giao dịch kinh doanh, trong bảo vệ quyền hợp pháp đối với tài sản trong giải quyết tranh chấp.
Sao chép tác phẩm không nhằm mục đích thương mại có vi phạm?
Chắc hẳn đa số mọi người đều đã từng ít nhất một lần sao chép, chụp hình hay ghi hình lại một dữ liệu, thông tin, tranh, ảnh nào đó trong cuộc sống. Nhất là tại các triển lãm, hội thảo nơi trưng bày những ý tưởng mới được đưa đến công chúng. Tuy nhiên, hành vi sao chép lại tác phẩm được xem là hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể hơn đó chính là xâm phạm quyền tác giả. Vậy, đối với người sao chép lại tác phẩm nhưng không nhằm mục đích thương mại có được xem là xâm phạm quyền tác giả? Quyền tác giả là gì? Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc có quyền sở hữu, được giải thích tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009). Bên Trong đó, quyền tác giả đối với tác phẩm được hình thành từ quyền nhân thân và quyền tài sản. (1) Quyền nhân thân đối với tác phẩm Đối với một tác phẩm việc thể hiện quyền sở hữu của tác giả dễ nhận biết nhất đó chính là thông qua quyền nhân thân, theo Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) quyền nhân thân của tác giả bao gồm: Tác giả có quyền đặt tên cho tác phẩm và có thể chuyển quyền này cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản. Quyền đặt tên tác phẩm là một trong những quyền quan trọng nhằm thể hiện ý nghĩa của tác phẩm. Bất cứ tác phẩm nào dù được xuất bản ra sao thì tác giả vẫn có quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. Tác giả được quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm cho công chúng được biết đến. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. (2) Quyền tài sản đối với tác phẩm Dựa trên các yếu tố về chủ quyền thân thân thì tác giả có thể thiết lập quyền tài sản đối với tác phẩm của mình và sử dụng chúng một cách tự do. Nội dung này được quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) quy định tác giả có quyền như sau: Làm tác phẩm phái sinh: Là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được. Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình. Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Quyền tác giả được bảo hộ trong thời gian bao lâu? Hiện nay, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định cụ thể tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) bao gồm các thời hạn sau đây: - Tác phẩm được bảo hộ vô thời hạn đối với: Các quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. - Tác phẩm được bảo hộ theo thời hạn đối với: Đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn 25 năm. 100 năm kể từ khi tác phẩm được định hình. Các tác phẩm không thuộc loại hình trên có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác giả cuối cùng chết Đối với tác phẩm khuyết danh, khi thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm sau năm tác giả chết. Trường hợp nào sử dụng tác phẩm không phải xin phép? Khi đã phát hành tác phẩm ra đại chúng, việc ngăn cấm công chúng sử dụng tác phẩm là điều rất khó. Vì thế pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng quy định các trường hợp sau đây thì sử dụng tác phẩm đã công bố không cần phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao khi căn cứ Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) bao gồm: - Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân. - Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình. - Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu. - Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại. - Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. - Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào. - Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy. - Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó. - Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị. - Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng. Lưu ý: Không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Như vậy, không phải mọi hành vi tự sao chép tác phẩm không xin phép, không trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và không vì mục đích thương mại đều không vi phạm bản quyền. Hành vi trên chỉ áp dụng với những loại hình tác phẩm không phải là tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Quyền lợi khi trả tiền xây nhà giúp bố mẹ vợ
Mình muốn tư vấn về vấn đề là hiện tại nhà vợ mình đang làm nhà trên đất đứng tên bố mẹ vợ bằng tiền đi vay nợ. Sau này chắc chắn mình phải trả nợ cùng vợ khoản đó. Tức là mình vẫn mất tiền xây nhà nhưng không có quyền sở hữu căn nhà đó. Vậy mình phải làm thế nào để hợp lý số tiền mình đã bỏ ra để trả nợ tiền vay xây nhà? sau này nếu xảy ra chuyện gì mình có quyền lợi như thế nào?
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi sẽ làm rõ các Quyền tài sản của tác giả
Các quyền tài sản của tác giả - Ảnh minh họa Dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi có những nội dung đáng chú ý quy định chi tiết về Quyền sở hữu tài sản năm trong khái niệm “Quyền tác giả” và bổ sung các trường hợp Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, không phải trả tiền bản quyền. Cụ thể, Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy Quyền tài sản (trong nội dung của quyền tác giả) bao gồm: - Làm tác phẩm phái sinh - Biểu diễn tác phẩm trước công chúng - Sao chép tác phẩm - Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm - Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; - Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Tại Khoản 4 Điều 1 Dự thảo Luật quy định chi tiết những nội dung này như sau: Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: - Làm tác phẩm phái sinh; - Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng bao gồm việc biểu diễn tác phẩm tại bất cứ nơi nào mà công chúng có thể tiếp cận được ngoại trừ tại gia đình; - Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật hay hình thức nào. Trường hợp sao chép tạm thời là một phần thiết yếu không thể tách rời của một quy trình công nghệ, diễn ra trong quá trình hoạt động bình thường của các thiết bị được sử dụng và bản sao bị tự động xoá bỏ, không có khả năng phục hồi lại thì không áp dụng quyền này; - Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua việc bán hoặc hình thức chuyển giao khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình. Quyền này không áp dụng trong lần phân phối tiếp theo đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối, nhập khẩu để phân phối; - Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn; - Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Quyền cho thuê chương trình máy tính không áp dụng trong trường hợp bản thân chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê. Ngoài ra, Khoản 6 Điều 1 của Dự thảo bổ sung vào Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (Điều này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sở hữu trí tuệ 2009) quy định một số trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, không phải trả tiền bản quyền như sau: - Thêm Điểm a1: Sao chép tác phẩm để có thông tin hoặc làm tài liệu dùng trong hoạt động nội bộ của các cơ quan nhà nước và không nhằm mục đích thương mại; - Làm rõ Điểm đ: Sao chép tác phẩm trong hoạt động thư viện, bao gồm: (i) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện để bảo quản, không nhằm mục đích thương mại. Bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của Chính phủ; (ii) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập không nhằm mục đích thương mại. Trong trường hợp này, thư viện thực hiện việc sao chép tác phẩm phải kèm theo thông báo về quyền tác giả; (iii) Sao chép hoặc truyền tải tác phẩm được lưu giữ để sử dụng trong các thư viện liên quan thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người sử dụng tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép. Quy định này không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp dưới dạng kỹ thuật số. Trường hợp thư viện sao chép hoặc truyền đạt tác phẩm dưới dạng kỹ thuật số theo quy định tại điểm này phải áp dụng các biện pháp để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền tác giả; Hiện tại Luật vẫn đang được dự thảo, xem chi tiết tại file đính kèm dưới đây.
Xin hỏi chúng cháu có quyền gì đối với đất của bố khi bố mất không ạ
Thưa thư viện pháp luật Nha cháu có 2 chị em, chị cháu 22 tuổi, cháu 17 tuổi. bố cháu mất rồi và 2 bố mẹ cháu bỏ nhau, bố cháu có 1 mảnh đất, thì cháu hỏi là bây giờ bố cháu mất không có di chúc là cho bọn cháu mảnh đất thì cháu có quyền được cầm bìa đỏ mảnh đất đấy ko ạ, bởi vì họ hàng bên nhà nội thì bảo chúng nhau ko có quền cầm cũng như không có quyền đòi hỏi sở hữu bìa đỏ mảnh đất ạ. Mọi người có bảo là chúng cháu ko có quyền gì chỉ có em của bố có quyền bán và sử dụng đất của bố.
Nội dung và giới hạn của quyền tác giả
1. Nội dung quyền tác giả Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo quy định tại Điều 18 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. STT Nội dung quyền Lưu ý 1 Quyền nhân thân Quyền đặt tên cho tác phẩm Không áp dụng đối với tác phẩm phái sinh là tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng - Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm Là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm. Công bố tác phẩm KHÔNG bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. Quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả Trừ trường hợp có thoả thuận của tác giả. 2 Quyền tài sản Quyền làm tác phẩm phái sinh - Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng Biểu diễn tác phẩm một cách trực tiếp hoặc thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng bao gồm việc biểu diễn tác phẩm tại bất cứ nơi nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Quyền sao chép tác phẩm Việc tạo ra bản sao tác phẩm được thực hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, kể cả hình thức điện tử. Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm Thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác Thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn. Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính Thực hiện việc cho thuê để khai thác, sử dụng có thời hạn. Quyền cho thuê đối với chương trình máy tính KHÔNG áp dụng trong trường hợp bản thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông hoặc các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác. - Các quyền về tài sản do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. - Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Bảng. Nội dung quyền tác giả 2. Giới hạn quyền tác giả Nhằm hài hòa lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng, pháp luật quy định các trường hợp hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả. Cụ thể: a. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: - Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại. - Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình (Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình và không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn); - Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu; - Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại; - Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu không quá một bản (Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số); - Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào; - Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; - Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; - Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; - Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng. Lưu ý: - Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. - Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính. b. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao - Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận. - Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Lưu ý: - Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. - Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.
Ca sỹ biểu diễn có cần trả tiền cho tác giả bài hát không?
Tại Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định về Quyền tài sản như sau: 1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: a) Làm tác phẩm phái sinh; b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; c) Sao chép tác phẩm; ... 2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này. 3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.” Như vậy, ca sỹ biểu diễn chính là đang biểu diễn tác phẩm truớc công chúng (thuộc điểm b khoản 1 Điều 20 nêu trên) do đó, khi sử dụng quyền này, ca sỹ phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Quyền thuê, quyền mua tài sản có là quyền tài sản không?
Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không?
Tư vấn về việc đăng ký chuyển tiếp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ
Kính gửi anh/chị Hiện nay khi thực hiện việc đăng ký chuyển tiếp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ theo Thông tư 09/2016/TTLT.BTP.BTNMT thì Văn phòng đăng ký đất đai quận huyện từ chối nhận hồ sơ mà yêu cầu phải có ít nhất hợp đồng thế chấp. Tuy nhiên khi thực hiện công chứng hợp đồng thế chấp thì phải xóa quyền tài sản đã đăng ký trước đó. Trong khi yêu cầu trong hồ sơ đăng ký chuyển tiếp để Văn phòng ĐK đất đai nhận là không được xóa quyền tài sản => các điều dường như đang chồng chéo lẫn nhau. Kinh mong anh/chị luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp này thì phải làm như thế nào? Cám ơn các anh/chị. Trân trọng.
Bàn về thuật ngữ pháp lý "Quyền tài sản"
Thuật ngữ pháp lý quyền tài sản đã được khái niệm lại trong Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, đây là một trong những điểm mới của Bộ luật này, sự thay đổi của một đạo luật là sự thay đổi trong cách nhìn cũng có thể là cần những quy định mới để điều chỉnh các vấn đề phát sinh mà luật cũ không còn phù hợp,...vẫn còn đó rất nhiều nguyên nhân. Dựa vào BLDS thì quyền tài sản đã được khái niệm khác nhau trong các giai đoạn lập pháp khác nhau, “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ"(Bộ luật dân sự 2005, Điều 181). Khái niệm này hướng chúng ta đến cách xác định quyền tài sản. Theo đó, quyền nào thỏa hai yếu tố là trị giá bằng tiền và chuyển giao được thì được xem là quyền tài sản, như vậy vô hình trung khái niệm này đã bỏ sót đi các quyền như: quyền yêu cầu cấp dưỡng; quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền hưởng trợ cấp hưu trí; quyền hưởng trợ cấp gắn liền với danh hiệu liệt sĩ;…theo tác giả đây cũng xem là các quyền tài sản mặc dù nó không chuyển giao được, khái niệm này dường như thu hẹp lại đối tượng của quyền tài sản. Hiện nay, quyền tài sản đã được thay thế bằng thuật ngữ pháp lý khác, “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác" (Bộ luật dân sự 2015, Điều 115). Khái niệm này đã mở rộng được đối tượng quyền tài sản và đồng thời chia quyền tài sản thành ba loại để dễ dàng áp dụng trong các văn bản luật chuyên ngành. Tóm lại, quyền tài sản thực chất là quyền của chủ thể đối với một tài sản, mang giá trị quy đổi được thành tiền, xét về mặt tài sản thì quyền tài sản chính là một loại tài sản vô hình. Khái niệm mới đã khắc phục được một số điểm bất cập của quyền tài sản trước đây.
Mối quan hệ giữa quyền sử dụng đất và quyền tài sản
Một bài viết trong Dân luật có bạn hỏi “Quyền sử dụng đất tại sao không phải là quyền tài sản?”, có lẽ bài viết này cũng được đăng khá lâu rồi nhưng vì mình mới tham gia Dân luật thôi nên tình cờ mình xem được. Nhân tiện rảnh rỗi sinh nông nổi, mình mạn phép chia sẻ với các bạn một số thông tin về câu hỏi nêu trên nhé. Câu hỏi đưa ra là “Quyền sử dụng đất tại sao không phải là quyền tài sản?” Trước tiên ở nội dung câu hỏi có chút sai sót như sau: Điều 105 BLDS 2015 định nghĩa: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo Điều 115 BLDS 2015 thì “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Như vậy, từ hai khái niệm nêu trên ta suy luận ra “Quyền sử dụng đất được coi là quyền tài sản”. Tuy nhiên, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì không được xem là quyền tài sản”, mà chỉ là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất (Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013). Bên cạnh đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất còn vai trò quan trọng, đó là căn cứ để xây dựng các quyết định cụ thể như: các quyết định về đăng ký, theo dõi biến động kiểm soát các giao dịch dân sự về đất đai; đồng thời nó còn là cơ sở để xử lý các tranh chấp, các vi phạm về đất đai, không những buộc những người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ về tài chính mà còn giúp cho họ được đền bù về đất khi bị thu hồi. Mình có tham khảo thêm ở một số website của các công ty Luật, nếu có sai sót các bạn góp ý thêm nhé
Chào tất cả mọi người, Mọi người có thể cho mình một số ví dụ về những quyền tài sản sau được không? + Quyền tài sản không chuyển giao được + Quyền tài sản chuyển giao được một cách hạn chế + Quyền tài sản tự do chuyển giao Mình xin cảm ơn.
Bạn nhầm lẫn giữa "Ủy quyền" và "Chuyển quyền"?
Ủy quyền” và “Chuyển quyền” là hai thuật ngữ pháp lý khác nhau; tuy vậy, đôi khi chúng ta vẫn không tránh khỏi những nhầm lẫn nhất định trong quá trình học tập, nghiên cứu và áp dụng quy định pháp luật. Vậy hiểu thế nào cho đúng hai khái niệm đặc biệt này. STT Tiêu chí Ủy quyền Chuyển quyền 1 Định nghĩa “Ủy quyền” là việc người ủy quyền giao cho người được ủy quyền thay mặt mình thực hiện công việc có thể thực hiện và được phép thực hiện dựa trên những quyền và nghĩa vụ mà người ủy quyền có được một cách hợp pháp. “Chuyển quyền” là việc cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu đối với một tài sản nhất định chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cho cá nhân, tổ chức khác. Khái niệm “chuyển quyền” thường không đứng “một mình” mà sẽ gắn liền với một số loại tài sản nhất định. Ví dụ: Chuyển quyền sử dụng đất, Chuyển quyền khai thác khoáng sản,… 2 Đối tượng áp dụng Cá nhân, tổ chức Cá nhân, tổ chức 3 Phạm vi Người ủy quyền chỉ có khả năng thực hiện giao dịch ủy quyền nếu họ là người có quyền thực hiện các công việc, hành vi đó, bao gồm: 1. Các Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; 2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; 3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. (Điều 15, Bộ luật dân sự 2005) Người chuyển quyền chỉ có thể chuyển những quyền liên quan đến một số loại tài sản, không thể áp dụng đối với quyền nhân thân, quyền nhân thân gắn với tài sản. Theo đó, người chuyển quyền sẽ được thực hiện hành vi đối với: 1. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; 2. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. (Điều 15, Bộ luật dân sự 2005) 4 Phân loại Không Việc chuyển quyền bao gồm các hình thức sau: - Chuyển đổi; - Chuyển nhượng; - Thừa kế; - Tặng cho; - Góp vốn; - Cho thuê, cho thuê lại; - … 5 Cách thức thể hiện Việc ủy quyền được thực hiện bằng văn bản ủy quyền, gồm: 1, Hợp đồng ủy quyền: đặc điểm nổi bật nhất là khi giao kết hợp đồng ủy quyền bắt buộc phải có mặt hai bên cùng kí kết; 2. Giấy ủy quyền. Việc chuyển quyền có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói. 6 Công chứng, chứng thực Tùy từng trường hợp cụ thể mà pháp luật có quy định riêng về việc công chứng, chứng thực giấy ủy quyền hay hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo giá trị pháp lí và có cở sở giải quyết khi tranh chấp xảy ra, cá nhân, tổ chức được khuyên nên đi công chứng giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền. Tham khảo: Công chứng hợp đồng ủy quyền (Điều 55 Luật công chứng 2013) Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà pháp luật có những quy định riêng về việc công chứng, chứng thực. Ví dụ: 1. Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực (Điểm b, khoản 3, Điều 167, Luật Đất đai 2013); 2. Công chức di chúc theo yêu cầu (Điều 56 Luật công chứng 2013) 7 Thù lao Có thể có hoặc không. Tùy theo thỏa thuận của các bên hoặc quy định khác của pháp luật. (khoản 3, Điều 586 Bộ luật dân sự 2005) Không. Bản chất của chuyển quyền không phải là một thỏa thuận dịch vụ, do đó không có thù lao khi thực hiện hoạt động này. 8 Trách nhiệm pháp lý Bên ủy quyền sẽ là người phải chịu trách nhiệm pháp lý trước tiên đối với các vi phạm xảy ra trong phạm vi ủy quyền cũng như với bên thứ ba (nếu có). Bên chịu trách nhiệm có thể là bên chuyển quyền hoặc bên nhận chuyển quyền hoặc liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật tùy theo từng trường hợp. Trên đây là những tổng hợp được rút ra trong quá trình bản thân nghiên cứu, bạn nào có ý kiến khác xin đưa ra để mọi người cùng thảo luận.
Quyền tài sản không phải là tài sản
Điều 163 Bộ luật Dân sự quy định Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên, việc khẳng định quyền tài sản là tài sản đây là quy định mang tính gượng ép, không đúng với bản chất của nó và trái với thực tiễn. Bởi lẽ, chỉ khi quyền tài sản đó được thực hiện và chuyển giao từ phía bên kia cho người có quyền thì nó mới trở thành tài sản, còn nếu bên kia không chuyển giao thì nó chưa phải là tài sản. Quyền tài sản chỉ là tài sản trong trường hợp quyền đó được thực hiện hoàn tất. Ví dụ: A nợ B 1 triệu đồng, thì B có quyền tài sản đối với 1 triệu đồng đó nhưng không phải là tài sản. Lúc đầu B cho A mượn 1 triệu đồng, đó chính là tài sản nhưng một khi tài sản đó ra đi thì trong tay B không còn tài sản mà đổi lại là quyền tài sản. B được đòi lại số tiền đó, A buộc phải trả. Tuy nhiên, cho đến chừng nào A chưa trả 1 triệu đồng thì B vẫn chưa có 1 triệu đồng tài sản. Và thậm chí nhiều khi A không thể trả lại cho B thì tài sản đó một ra đi không trở về; khi đó B đã mất tài sản nhưng vẫn còn quyền tài sản. Vì vậy, tài sản và quyền tài sản là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hay bao gồm, sự hiện diện của cái này sẽ làm biến mất cái kia và ngược lại. Nên hiểu tài sản là cái mà chủ thể có được đang hiện hữu quyền chiếm hữu còn quyền tài sản là cái mà chủ thể có được không có quyền chiếm hữu.
Có được cầm cố quyền sử dụng đất không?
Cầm cố đất là giao dịch đã có từ thời ông cha ta đến nay. Vậy hiện nay cố đất có được pháp luật thừa nhận không? Có được cầm cố quyền sử dụng đất không? Quyền sử dụng đất có phải là tài sản không? Theo Điều 105 và Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: - Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. - Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. - Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Như vậy, quyền sử dụng đất được xem là quyền tài sản và là một loại tài sản. Có được cầm cố quyền sử dụng đất không? Theo Điều 309 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Theo Điều 310 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hiệu lực của cầm cố tài sản như sau: - Hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. - Cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố. Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Đồng thời, theo quy định tại Điều 45 Luật Đất đai 2024 thì người sử dụng đất có các quyền như sau: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất. Theo đó, mặc dù không quy định về quyền cầm cố quyền sử dụng đất nhưng pháp luật đất đai hiện hành cũng không cấm hoạt động này, đồng thời tại Bộ luật Dân sự 2015 cũng cho phép cầm cố quyền sử dụng đất (vì quyền sử dụng đất là một loại tài sản) và được thể hiện bằng hình thức cầm cố bất động sản. Như vậy, hiện nay vẫn được cầm cố quyền sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của các bên cầm cố, nhận cầm cố quyền sử dụng đất là gì? Theo các quy định từ Điều 311 đến Điều 314 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: (1) Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố - Quyền của bên cầm cố: + Yêu cầu bên nhận cầm cố chấm dứt việc sử dụng tài sản cầm cố trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 314 Bộ luật Dân sự 2015 nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị. + Yêu cầu bên nhận cầm cố trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt. + Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố. + Được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố nếu được bên nhận cầm cố đồng ý hoặc theo quy định của luật. - Nghĩa vụ của bên cầm cố” + Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thỏa thuận. + Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, nếu có; trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền hủy hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố. + Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (2) Quyền và nghĩa vụ của bên nhận cầm cố - Quyền của bên nhận cầm cố: + Yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó. + Xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. + Được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thỏa thuận. + Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố. - Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố: + Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất, thất lạc hoặc hư hỏng tài sản cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố. + Không được bán, trao đổi, tặng cho, sử dụng tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. + Không được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. + Trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. Như vậy, bên cầm cố và bên nhận cầm cố đều có các quyền và nghĩa vụ ràng buộc với nhau mà mỗi bên đều phải thực hiện. Khi nào chấm dứt cầm cố quyền sử dụng đất? Bên nhận cầm cố có trả lại quyền sử dụng đất không? Theo Điều 315, Điều 316 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cầm cố tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây: - Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt. - Việc cầm cố tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. - Tài sản cầm cố đã được xử lý. - Theo thỏa thuận của các bên. Đồng thời, khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 315 Bộ luật Dân sự 2015 hoặc theo thỏa thuận của các bên thì tài sản cầm cố, giấy tờ liên quan đến tài sản cầm cố được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, trừ khi tài sản cầm cố đã được xử lý thì các trường hợp còn lại khi chấm dứt cầm cố quyền sử dụng đất, bên nhận cầm cố sẽ trả lại quyền sử dụng đất hoặc theo thoả thuận.
Xác định nội dung áp dụng của Án lệ số 31/2020/AL trong giao dịch mua bán, trao đổi?
Trường hợp các bên chuyển giao các quyền tài sản thông qua các giao dịch dân sự khác như mua bán, trao đổi,… thì có áp dụng Án lệ số 31/2020/AL hay không? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước theo nghị định số 61/cp ngày 05-7-1994 của chính phủ là quyền tài sản (được ban hành kèm theo Quyết định 50/QĐ-CA năm 2020 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Khái quát nội dung án lệ: - Tình huống án lệ: Cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kếcủa người đó. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Các điều 172, 188, 634 Bộ luật Dân sự năm 1995 (tương ứng với các điều 163, 181, 631 Bộ luật Dân sự năm 2005; các điều 105, 115, 609 Bộ luật Dân sự năm 2015); - Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở. Nhận định Tòa án có liên quan đến án lệ: [1] Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I (nay là đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) là do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản, sử dụng từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Năm 1981, Quân khu 7 cấp “Giấy phép quyền sở hữu sử dụng” số 092/QĐ ngày 16-4-1981 cho cụ Nguyễn Thanh T. Theo nội dung giấy phép, việc cấp nhà cho cụ T là “đểtạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình cán bộ không có nhà ở”, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ T) sống chung với cụ T, có hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên. Đến năm 1982, hai chị em bà Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1 mới chuyển hộ khẩu về sống cùng cụ T. Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. [2] Năm 1998, khi bà L có đơn gửi Hội đồng nhà đất Quân khu 7 xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở thì bà H và ông T1 khiếu nại, không đồng ý cho bà L mua nhà trên theo chế độ của cụ T. Tại Biên bản giải quyết khiếu nại ngày 05-7-2001 của Thanh tra Bộ Quốc phòng, hai bên đã thỏa thuận thống nhất “…đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà 63 đường B. Việc phân chia sau khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị còn lại do chị em bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải quyết theo pháp luật” và tại Biên bản giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân Phường H ngày 17-8-2001, bà L cũng xác nhận “đồng ý làm cam kết theo Biên bản giải quyết của Quân khu ngày 05-7-2001…”. Đến ngày 02-10-2001, Cục A Quân khu 7 ký hợp đồng cho bà L thuê căn nhà trên. Sau đó, Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủtục bán căn nhà trên cho bà L theo Nghị định số 61/CP. Ngày 09-10-2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do có sự thống nhất, thỏa thuận giữa bà H, ông T1 với bà L ngày 05-7-2001 thì Quân khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó, có căn cứ xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L. [3] Giấy ủy quyền ngày 09-6-1993 của cụ T có nội dung: “Tôi ủy quyền cho con tôi Nguyễn Thị Kim L thay mặt tôi khi còn sống và ủy quyền cho nó được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà được Quân khu 7 và Sở nhà đất thành phố cấp cho (bao gồm tầng lầu 1 và diện tích sàn phía dưới đất đã được phân chia giữa hai gia đình từ trước) khi không may tôi qua đời”. Đây là giấy ủy quyền cho bà L thay mặt cụ T khi còn sống, cũng như khi cụ T qua đời để giải quyết những việc có liên quan đến căn nhà (về thủ tục) chứ không phải ủy quyền cho bà L sở hữu toàn bộ căn nhà như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. [4] Ngoài ra, theo bà L khai thì việc bà L nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B là do cụ T yêu cầu bà trả nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do bà và gia đình được cấp theo chế độ liệt sỹ. Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện để được nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B thì bà L phải trả nhà số 4/1 đường HV trên. Bà L trình bày bà mua căn nhà số 63 đường B theo chế độ liệt sỹ chứ không phải theo chế độ của cụ T. Theo Công văn số 8709/SXD-BKTBN ngày 08-12-2008 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thì Hội đồng bán nhà ở Quân khu 7 khi lập thủ tục bán căn nhà trên không miễn giảm chính sách ưu đãi diện người có công với cách mạng cho cụ T, mà bán nhà dựa trên các tài liệu như đơn xin mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, sổ hộkhẩu của bà L, Quyết định 092/QĐ ngày 16-4-1981 về cấp nhà cho cụ T, Giấy xác nhận số 672/XN-QLĐT ngày 05-12-1998 về việc bà L đã trả nhà 4/1 đường HV… Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ việc bà L được mua nhà theo chế độ ưu tiên nào? chế độ ưu tiên của cụ T hay chế độ con liệt sỹ của bà L là thiếu sót. [5] Mặt khác, theo Quyết định số 05/QĐ-UB-QLĐT ngày 04-01-1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì giá đất ở đường B là 4.000.000 đồng/m2 (328,21m2x 4.000.000 đồng/m2= 1.312.840.000 đồng), trong khi đó bà L mua nhà đất trên với giá đất là 392.296.000 đồng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ bà L mua nhà được giảm theo chế độ nào? Việc giảm trừ tiền mua nhà theo năm công tác và tỷ lệ % xét giảm cụ thể như thế nào [6] Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L là có căn cứ; tuy nhiên, khi xác định tỷ lệ phần giá trị để chia, lẽ ra phải trừ chi phí mua nhà và công sức của bà L, sau đó mới chia tài sản chung, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia cho bà L được hưởng ½ giá trị căn nhà, sau đó trừ đi chi phí mua nhà trong phần giá trị ½ còn lại rồi mới chia đều cho bà H, ông T1 và bà L là không đúng. [7] Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụ T đã lập “Giấy ủy quyền” ngày 09-6-1993 ủy quyền cho bà L toàn bộ căn nhà số 63 đường B và việc bà L phải trả lại căn nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cho Nhà nước là do sự đánh đổi quyền lợi đang được hưởng để xác định căn nhà số 63 đường B là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn ThịKim L và ông Nguyễn Phi H3 (chồng bà L đã chết năm 2006) là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các con của cụ T. [8] Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành thẩm định, định giá diện tích đất tranh chấp; tính toán sau khi trừ đi những chi phí bà L đã bỏ ra mua nhà và công sức của bà L, phần còn lại chia cho nguyên đơn và bị đơn, có tính đến giá thị trường để đảm bảo quyền lợi cho các bên theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình sử dụng nhà, bà L và ông Nguyễn Thanh H1 đã đầu tư sửa chữa nhà, ông Nguyễn Thanh H1 có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trả lại chi phí sửa chữa nhà cho ông khoảng 400.000.000 đồng, nên khi giải quyết lại Tòa án cấp sơ thẩm cần hướng dẫn cho ông Nguyễn Thanh H1 nộp tạm ứng án phí và giải quyết chung trong cùng vụán. Nội dung án lệ: “[1]… Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.” Áp dụng án lệ: Án lệ số 31/2020/AL đưa ra nội dung xác định trường hợp cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định 61-CP năm 1994 về việc mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, Tòa án phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của người đó. Với nội dung của Án lệ số 31/2020/AL, tình huống tương tự có thể được xem xét áp dụng là trong các tranh chấp liên quan đến nhà ở do cá nhân thuê của nhà nước, thuộc diện được hóa giá nhà theo Nghị định 61-CP năm 1994 về việc mua bán và kinh doanh nhà ở. Theo đó, quyền thuê nhà, quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước được xác định là quyền tài sản (quyền trị giá được bằng tiền); khi người thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước chết thì các quyền này được chuyển giao cho các thừa kế của người đó thông qua quan hệ pháp luật về thừa kế. Trên phương diện học thuật, có ý kiến cho rằng khi khẳng định quyền thuê nhà, quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước là quyền tài sản thì đồng thời phải thừa nhận các quyền này có thể được tự do chuyển giao trong giao lưu dân sự như mua bán, trao đổi,… mà không nên giới hạn phạm vi chuyển giao thông qua quan hệ pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 5 của Nghị định 61-CP năm 1994 về việc mua bán và kinh doanh nhà ở thì chính sách về bán nhà ở thuộc sở hữu của nhà nước hướng đến đối tượng được xác định cụ thể là người đang thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước, có mục đích để họ có điều kiện cải thiện chỗ ở. Tác giả đồng quan điểm với TS. Nguyễn Sơn – Nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và TS. Trần Thị Quang Hồng – Trưởng ban Nghiên cứu pháp luật dân sự - kinh tế, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp: Thấy rằng nếu thừa nhận các quyền tài sản này thể được tự do chuyển giao trong các giao lưu dân sự như các tài sản thông thường khác thì sẽ không bảo đảm đúng mục đích của chính sách mà nhà nước đề ra. Do vậy, việc xác định giới hạn phạm vi chuyển giao các quyền tài sản này trong quan hệ pháp luật về thừa kế là cần thiết. Trường hợp các bên chuyển giao các quyền tài sản này thông qua các giao dịch dân sự khác như mua bán, trao đổi,… thì không áp dụng Án lệ số 31/2020/AL này.
Quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước có được xem là quyền tài sản?
Cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước nhưng chưa làm thủ tục mua hóa giá. Vậy trường hợp này quyền thuê nhà, mua nhà có được xác định là quyền tài sản? Tìm hiểu nội dung án lệ số 31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước theo nghị định số 61/cp ngày 05-7-1994 của chính phủ là quyền tài sản (được ban hành kèm theo Quyết định 50/QĐ-CA năm 2020 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Tại Đơn khởi kiện ngày 05-7-2007, Đơn khởi kiện bổ sung các ngày 29-8-2008, 15-01-2010, 20-7-2010, 10-8-2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H trình bày: Cha mẹ bà là cụ Nguyễn Thanh T (chết năm 1995) và cụ Lâm Thị C (chết ngày 25-01-2011) có 03 người con chung là bà (H), ông Nguyễn Văn T1, ông Nguyễn Văn T2 (chết năm 1992, có vợ là bà Hồ Thị H 4 và có 04 người con chung là các anh chị Nguyễn Hồ Thanh C1, Nguyễn Hồ Hoàng Đ, Nguyễn Thị An T2, Nguyễn Thị Mỹ D). Cụ T tham gia cách mạng từ trước tháng 8-1945 ở Bạc Liêu. Ngày 20-7-1954, cụ T tập kết ra Bắc. Năm 1964, cụ C lấy chồng khác. Tháng 10-1975, cụ T về công tác tại Cục A Quân khu 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1976, cụ T chung sống với cụ Lê Thị T4 (không đăng ký kết hôn). Khoảng đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, nay là nhà số 63 đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Quyết định số 092/QĐ ngày 16-4-1981, Hội đồng nhà đất Quân khu 7 đã cấp chính thức căn nhà trên cho cụ T. Ngày 27-8-1995, cụ T chết không để lại di chúc. Bà Nguyễn Thị Kim L là con riêng của cụ T4 đã đứng tên làm hợp đồng thuê căn nhà trên và xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở (sau đây gọi tắt là Nghị định số 61/CP). Khi biết được việc làm này của bà L thì bà đã có đơn khiếu nại. Ngày 05-7-2001, Thanh tra quốc phòng của Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã họp giải quyết với nội dung: nếu gia đình bà không còn khiếu nại thì nhà số 63 đường B sẽ được giải quyết cho bà L mua hóa giá; sau khi mua hóa giá xong thì sẽ trừ các khoản chi phí trong việc mua nhà của Nhà nước, giá trị còn lại của ngôi nhà sẽ do nội bộ chị em trong gia đình thỏa thuận chia; nếu không thống nhất được thì sẽ giải quyết theo pháp luật. Tuy nhiên, sau khi mua hóa giá xong, bà L đã chiếm đoạt luôn căn nhà và cho Công ty trách nhiệm hữu hạn NV thuê, mà không trao đổi bàn bạc với bà và ông T1 để cùng thỏa thuận phân chia giá trị của ngôi nhà. Bà xác định nhà số 63 đường B được Nhà nước bán hóa giá với sự đãi ngộcủa Đảng và Nhà nước cho cụ T, nên các con cụ T phải được hưởng. Bà đề nghị Tòa án buộc bà L phải chia cho các thừa kế của cụ T ½ giá trị nhà số 63 đường B, sau khi đã trừ tiền mua hóa giá ngôi nhà và các chi phí liên quan trong việc mua hóa giá nhà. Tại Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 29-8-2008, bà yêu cầu Tòa án chia nhà số 63 đường B theo pháp luật cho các thừa kế của cụ T bao gồm cụ T4, bà, ông T1, ông T2, bà L (nếu chứng minh được là con nuôi hợp pháp) và yêu cầu bà L hoàn trả tiền cho thuê nhà từ năm 1998 đến nay là khoảng 2.000.000.000 đồng. Ngày 20-7-2010, bà có đơn yêu cầu Tòa án xác định việc Cục A Quân khu 7 ký hợp đồng bán nhà số 63 đường B cho bà L là không đúng pháp luật, đề nghị hủy hợp đồng mua bán nhà giữa Cục A Quân khu 7 với vợ chồng bà L; công nhận các thừa kế của cụ T được quyền hưởng tiêu chuẩn của cụ T để được mua nhà số 63 đường B. Ngày 10-8-2010, bà H có đơn rút lại yêu cầu ngày 20-7-2010. Ngày 17-11-2014, bà H có đơn yêu cầu chia tài sản chung là nhà số 63 đường B theo biên bản thỏa thuận của Thanh tra Bộ Quốc phòng, không yêu cầu chia số tiền mà bà L đã cho Công ty trách nhiệm hữu hạn NV thuê nhà số 63 đường B từ năm 2002 đến nay. Bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L trình bày: Cha mẹ bà là cụ Lê Thị T4 và cụ Nguyễn Văn C2 (Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục Miền Nam – hy sinh năm 1973). Năm 1975, bà và gia đình được Ban Tổ chức Trung ương cấp cho 01 phần căn nhà tại số 201/6 Y, nay là số 4/1 (có lúc ghi là số 204/1) đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi cụ C2 mất, cụ T4 xây dựng gia đình với cụ T. Năm 1981, cụ T4 ốm, nên bà về tạm trú tại nhà số 63 đường B để nuôi mẹ bệnh. Năm 1982, cụ T4 chết. Khi đó cụ T bị bệnh, thường xuyên phải vào viện, nhưng không có người nhà chăm sóc (các con cụ T đã chuyển hộ khẩu và đi nơi khác sinh sống), nên bà ở lại nhà số 63 đường B để chăm sóc cụ T. Năm 1986, theo yêu cầu của cụ T, chị em bà đã làm thủ tục trả lại căn nhà số4/1 đường HV để được nhập hộ khẩu vào căn nhà số 63 đường B. Năm 1993, cụ T lập giấy ủy quyền cho bà được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà số 63 đường B; cụ T viết rõ trong giấy ủy quyền là giấy ủy quyền có giá trị trong khi cụ còn sống và kể cả khi cụ chết. Năm 1995, cụ T chết. Năm 2001, khi bà đứng tên làm thủ tục mua hóa giá nhà thì bà H và ông T1 có đơn khiếu nại. Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã giải quyết bằng cách bác đơn khiếu nại của bà H, cho vợ chồng bà được mua hóa giá nhà, sau khi mua xong sẽ trừ số tiền mua hóa giá nhà, phần còn lại sẽ do chị em trong gia đình thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì giải quyết theo pháp luật. Xuất phát từ tình cảm cá nhân và cùng là chị em, nên bà cũng có ý định là nếu bà H có đơn bãi nại và bà được xét giảm tiền mua nhà theo tiêu chuẩn của cụ T thì bà sẽ hỗ trợ cho các con ruột của cụ T. Vì vậy, bà cũng đồng ý với việc giải quyết của Bộ tư lệnh Quân khu 7, nhưng sau đó, bà H và ông T1 vẫn tiếp tục khiếu nại, nên bà không được mua giảm giá theo chế độ của cụ T mà mua theo chế độ con liệt sỹ với giá 606.311.587 đồng. Do bà nộp tiền một lần nên được giảm 10% tiền nhà và 20% tiền đất, tổng số tiền phải trả là 506.450.828 đồng. Như vậy, bà mua hóa giá nhà trên theo tiêu chuẩn của bà (tiêu chuẩn con liệt sỹ), không phải tiêu chuẩn của cụ T, nên nhà số 63 đường B nêu trên là tài sản riêng của vợ chồng bà. Ngày 09-10-2002, bà và chồng của bà là ông Nguyễn Phi H3 (chết ngày 04-7-2006) được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Sau khi mua hóa giá nhà, ông Nguyễn Thanh H1 (anh trai bà) đã sửa chữa nhà hết 400.000.000 đồng (tương đương 80 lượng vàng). Nếu yêu cầu của bà H được chấp nhận thì phải trừ chi phí sửa nhà của ông H1 là 80 lượng vàng. Nhận định của Tòa án: [1] Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I (nay là đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) là do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản, sử dụng từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Năm 1981, Quân khu 7 cấp “Giấy phép quyền sở hữu sử dụng” số 092/QĐ ngày 16-4-1981 cho cụ Nguyễn Thanh T. Theo nội dung giấy phép, việc cấp nhà cho cụ T là “đểtạo mọi điều kiện chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình cán bộ không có nhà ở”, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ T) sống chung với cụ T, có hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên. Đến năm 1982, hai chị em bà Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1 mới chuyển hộ khẩu về sống cùng cụ T. Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. [2] Năm 1998, khi bà L có đơn gửi Hội đồng nhà đất Quân khu 7 xin mua hóa giá căn nhà trên theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở thì bà H và ông T1 khiếu nại, không đồng ý cho bà L mua nhà trên theo chế độ của cụ T. Tại Biên bản giải quyết khiếu nại ngày 05-7-2001 của Thanh tra Bộ Quốc phòng, hai bên đã thỏa thuận thống nhất “…đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà 63 đường B. Việc phân chia sau khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị còn lại do chị em bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải quyết theo pháp luật” và tại Biên bản giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân Phường H ngày 17-8-2001, bà L cũng xác nhận “đồng ý làm cam kết theo Biên bản giải quyết của Quân khu ngày 05-7-2001…”. Đến ngày 02-10-2001, Cục A Quân khu 7 ký hợp đồng cho bà L thuê căn nhà trên. Sau đó, Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủtục bán căn nhà trên cho bà L theo Nghị định số 61/CP. Ngày 09-10-2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do có sự thống nhất, thỏa thuận giữa bà H, ông T1 với bà L ngày 05-7-2001 thì Quân khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó, có căn cứ xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L. [3] Giấy ủy quyền ngày 09-6-1993 của cụ T có nội dung: “Tôi ủy quyền cho con tôi Nguyễn Thị Kim L thay mặt tôi khi còn sống và ủy quyền cho nó được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà được Quân khu 7 và Sở nhà đất thành phố cấp cho (bao gồm tầng lầu 1 và diện tích sàn phía dưới đất đã được phân chia giữa hai gia đình từ trước) khi không may tôi qua đời”. Đây là giấy ủy quyền cho bà L thay mặt cụ T khi còn sống, cũng như khi cụ T qua đời để giải quyết những việc có liên quan đến căn nhà (về thủ tục) chứ không phải ủy quyền cho bà L sở hữu toàn bộ căn nhà như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. [4] Ngoài ra, theo bà L khai thì việc bà L nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B là do cụ T yêu cầu bà trả nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do bà và gia đình được cấp theo chế độ liệt sỹ. Trong hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện để được nhập hộ khẩu vào nhà số 63 đường B thì bà L phải trả nhà số 4/1 đường HV trên. Bà L trình bày bà mua căn nhà số 63 đường B theo chế độ liệt sỹ chứ không phải theo chế độ của cụ T. Theo Công văn số 8709/SXD-BKTBN ngày 08-12-2008 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thì Hội đồng bán nhà ở Quân khu 7 khi lập thủ tục bán căn nhà trên không miễn giảm chính sách ưu đãi diện người có công với cách mạng cho cụ T, mà bán nhà dựa trên các tài liệu như đơn xin mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, sổ hộkhẩu của bà L, Quyết định 092/QĐ ngày 16-4-1981 về cấp nhà cho cụ T, Giấy xác nhận số 672/XN-QLĐT ngày 05-12-1998 về việc bà L đã trả nhà 4/1 đường HV… Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ việc bà L được mua nhà theo chế độ ưu tiên nào? chế độ ưu tiên của cụ T hay chế độ con liệt sỹ của bà L là thiếu sót. [5] Mặt khác, theo Quyết định số 05/QĐ-UB-QLĐT ngày 04-01-1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì giá đất ở đường B là 4.000.000 đồng/m2 (328,21m2x 4.000.000 đồng/m2= 1.312.840.000 đồng), trong khi đó bà L mua nhà đất trên với giá đất là 392.296.000 đồng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ bà L mua nhà được giảm theo chế độ nào? Việc giảm trừ tiền mua nhà theo năm công tác và tỷ lệ % xét giảm cụ thể như thế nào? [6] Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L là có căn cứ; tuy nhiên, khi xác định tỷ lệ phần giá trị để chia, lẽ ra phải trừ chi phí mua nhà và công sức của bà L, sau đó mới chia tài sản chung, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia cho bà L được hưởng ½ giá trị căn nhà, sau đó trừ đi chi phí mua nhà trong phần giá trị ½ còn lại rồi mới chia đều cho bà H, ông T1 và bà L là không đúng. [7] Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụ T đã lập “Giấy ủy quyền” ngày 09-6-1993 ủy quyền cho bà L toàn bộ căn nhà số 63 đường B và việc bà L phải trả lại căn nhà số 4/1 đường HV, phường Đ, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cho Nhà nước là do sự đánh đổi quyền lợi đang được hưởng để xác định căn nhà số 63 đường B là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn ThịKim L và ông Nguyễn Phi H3 (chồng bà L đã chết năm 2006) là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các con của cụ T. Nội dung án lệ: “[1]… Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.” Như vậy, trường hợp cá nhân thuộc diện được mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà theo quy định của pháp luật. Theo nội dung án lệ trên, trường hợp này, phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của người đó.
Khi thế chấp quyền đòi nợ cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ trả nợ không ?
Khi người có nghĩa vụ sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm thì có cần sự đồng ý của người bị đòi nợ không? Thực ra, quyền lợi của người bị đòi nợ không bị thay đổi; chỉ có một điểm khác biệt là người này phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho người có quyền (người nhận thế chấp quyền đòi nợ). Do đó việc thế chấp quyền đòi nợ không cần có sự đồng ý của người bị đòi nợ. Theo quy định tại Điều 33 Nghị định 21/2021/NĐ-CP có nêu rõ: “Việc thế chấp bằng quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ”. Như vậy theo quy định này thì khi thế chấp quyền đòi nợ sẽ không cần phải có sự đồng ý của người có nghĩa vụ trả nợ. Vậy có phải thực hiện thông báo cho người có nghĩa vụ trả nợ hay không? Nếu người có nghĩa vụ trả nợ không biết đến việc thế chấp quyền đòi nợ thì khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ sẽ trả nợ cho người thế chấp quyền đòi nợ thì sao? Theo quy định tại Điều 33 Nghị định 21/2021/NĐ-CP có đề cập việc thực hiện thế chấp quyền đòi nợ thì người nhận thế chấp phải thông báo cho bên có nghĩa vụ trả nợ để thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Như vậy khi đó người có nghĩa vụ trả nợ sẽ thực hiện thanh toán cho người nhận thế chấp.
cho em hỏi ứng dụng của quyền tài sản trong thực hiện các hoạt động kinh doanh thực hiện giao dịch kinh doanh, trong bảo vệ quyền hợp pháp đối với tài sản trong giải quyết tranh chấp.
Sao chép tác phẩm không nhằm mục đích thương mại có vi phạm?
Chắc hẳn đa số mọi người đều đã từng ít nhất một lần sao chép, chụp hình hay ghi hình lại một dữ liệu, thông tin, tranh, ảnh nào đó trong cuộc sống. Nhất là tại các triển lãm, hội thảo nơi trưng bày những ý tưởng mới được đưa đến công chúng. Tuy nhiên, hành vi sao chép lại tác phẩm được xem là hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể hơn đó chính là xâm phạm quyền tác giả. Vậy, đối với người sao chép lại tác phẩm nhưng không nhằm mục đích thương mại có được xem là xâm phạm quyền tác giả? Quyền tác giả là gì? Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc có quyền sở hữu, được giải thích tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009). Bên Trong đó, quyền tác giả đối với tác phẩm được hình thành từ quyền nhân thân và quyền tài sản. (1) Quyền nhân thân đối với tác phẩm Đối với một tác phẩm việc thể hiện quyền sở hữu của tác giả dễ nhận biết nhất đó chính là thông qua quyền nhân thân, theo Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) quyền nhân thân của tác giả bao gồm: Tác giả có quyền đặt tên cho tác phẩm và có thể chuyển quyền này cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản. Quyền đặt tên tác phẩm là một trong những quyền quan trọng nhằm thể hiện ý nghĩa của tác phẩm. Bất cứ tác phẩm nào dù được xuất bản ra sao thì tác giả vẫn có quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. Tác giả được quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm cho công chúng được biết đến. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. (2) Quyền tài sản đối với tác phẩm Dựa trên các yếu tố về chủ quyền thân thân thì tác giả có thể thiết lập quyền tài sản đối với tác phẩm của mình và sử dụng chúng một cách tự do. Nội dung này được quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) quy định tác giả có quyền như sau: Làm tác phẩm phái sinh: Là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được. Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình. Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Quyền tác giả được bảo hộ trong thời gian bao lâu? Hiện nay, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định cụ thể tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) bao gồm các thời hạn sau đây: - Tác phẩm được bảo hộ vô thời hạn đối với: Các quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. - Tác phẩm được bảo hộ theo thời hạn đối với: Đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn 25 năm. 100 năm kể từ khi tác phẩm được định hình. Các tác phẩm không thuộc loại hình trên có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác giả cuối cùng chết Đối với tác phẩm khuyết danh, khi thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm sau năm tác giả chết. Trường hợp nào sử dụng tác phẩm không phải xin phép? Khi đã phát hành tác phẩm ra đại chúng, việc ngăn cấm công chúng sử dụng tác phẩm là điều rất khó. Vì thế pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng quy định các trường hợp sau đây thì sử dụng tác phẩm đã công bố không cần phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao khi căn cứ Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ 2009) bao gồm: - Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân. - Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình. - Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu. - Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại. - Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. - Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào. - Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy. - Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó. - Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị. - Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng. Lưu ý: Không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Như vậy, không phải mọi hành vi tự sao chép tác phẩm không xin phép, không trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và không vì mục đích thương mại đều không vi phạm bản quyền. Hành vi trên chỉ áp dụng với những loại hình tác phẩm không phải là tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Quyền lợi khi trả tiền xây nhà giúp bố mẹ vợ
Mình muốn tư vấn về vấn đề là hiện tại nhà vợ mình đang làm nhà trên đất đứng tên bố mẹ vợ bằng tiền đi vay nợ. Sau này chắc chắn mình phải trả nợ cùng vợ khoản đó. Tức là mình vẫn mất tiền xây nhà nhưng không có quyền sở hữu căn nhà đó. Vậy mình phải làm thế nào để hợp lý số tiền mình đã bỏ ra để trả nợ tiền vay xây nhà? sau này nếu xảy ra chuyện gì mình có quyền lợi như thế nào?
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi sẽ làm rõ các Quyền tài sản của tác giả
Các quyền tài sản của tác giả - Ảnh minh họa Dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi có những nội dung đáng chú ý quy định chi tiết về Quyền sở hữu tài sản năm trong khái niệm “Quyền tác giả” và bổ sung các trường hợp Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, không phải trả tiền bản quyền. Cụ thể, Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy Quyền tài sản (trong nội dung của quyền tác giả) bao gồm: - Làm tác phẩm phái sinh - Biểu diễn tác phẩm trước công chúng - Sao chép tác phẩm - Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm - Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; - Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Tại Khoản 4 Điều 1 Dự thảo Luật quy định chi tiết những nội dung này như sau: Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: - Làm tác phẩm phái sinh; - Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng bao gồm việc biểu diễn tác phẩm tại bất cứ nơi nào mà công chúng có thể tiếp cận được ngoại trừ tại gia đình; - Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật hay hình thức nào. Trường hợp sao chép tạm thời là một phần thiết yếu không thể tách rời của một quy trình công nghệ, diễn ra trong quá trình hoạt động bình thường của các thiết bị được sử dụng và bản sao bị tự động xoá bỏ, không có khả năng phục hồi lại thì không áp dụng quyền này; - Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua việc bán hoặc hình thức chuyển giao khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình. Quyền này không áp dụng trong lần phân phối tiếp theo đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối, nhập khẩu để phân phối; - Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn; - Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Quyền cho thuê chương trình máy tính không áp dụng trong trường hợp bản thân chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê. Ngoài ra, Khoản 6 Điều 1 của Dự thảo bổ sung vào Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (Điều này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sở hữu trí tuệ 2009) quy định một số trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, không phải trả tiền bản quyền như sau: - Thêm Điểm a1: Sao chép tác phẩm để có thông tin hoặc làm tài liệu dùng trong hoạt động nội bộ của các cơ quan nhà nước và không nhằm mục đích thương mại; - Làm rõ Điểm đ: Sao chép tác phẩm trong hoạt động thư viện, bao gồm: (i) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện để bảo quản, không nhằm mục đích thương mại. Bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của Chính phủ; (ii) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập không nhằm mục đích thương mại. Trong trường hợp này, thư viện thực hiện việc sao chép tác phẩm phải kèm theo thông báo về quyền tác giả; (iii) Sao chép hoặc truyền tải tác phẩm được lưu giữ để sử dụng trong các thư viện liên quan thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người sử dụng tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép. Quy định này không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp dưới dạng kỹ thuật số. Trường hợp thư viện sao chép hoặc truyền đạt tác phẩm dưới dạng kỹ thuật số theo quy định tại điểm này phải áp dụng các biện pháp để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền tác giả; Hiện tại Luật vẫn đang được dự thảo, xem chi tiết tại file đính kèm dưới đây.
Xin hỏi chúng cháu có quyền gì đối với đất của bố khi bố mất không ạ
Thưa thư viện pháp luật Nha cháu có 2 chị em, chị cháu 22 tuổi, cháu 17 tuổi. bố cháu mất rồi và 2 bố mẹ cháu bỏ nhau, bố cháu có 1 mảnh đất, thì cháu hỏi là bây giờ bố cháu mất không có di chúc là cho bọn cháu mảnh đất thì cháu có quyền được cầm bìa đỏ mảnh đất đấy ko ạ, bởi vì họ hàng bên nhà nội thì bảo chúng nhau ko có quền cầm cũng như không có quyền đòi hỏi sở hữu bìa đỏ mảnh đất ạ. Mọi người có bảo là chúng cháu ko có quyền gì chỉ có em của bố có quyền bán và sử dụng đất của bố.
Nội dung và giới hạn của quyền tác giả
1. Nội dung quyền tác giả Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo quy định tại Điều 18 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. STT Nội dung quyền Lưu ý 1 Quyền nhân thân Quyền đặt tên cho tác phẩm Không áp dụng đối với tác phẩm phái sinh là tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng - Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm Là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm. Công bố tác phẩm KHÔNG bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. Quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả Trừ trường hợp có thoả thuận của tác giả. 2 Quyền tài sản Quyền làm tác phẩm phái sinh - Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng Biểu diễn tác phẩm một cách trực tiếp hoặc thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng bao gồm việc biểu diễn tác phẩm tại bất cứ nơi nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Quyền sao chép tác phẩm Việc tạo ra bản sao tác phẩm được thực hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, kể cả hình thức điện tử. Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm Thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác Thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn. Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính Thực hiện việc cho thuê để khai thác, sử dụng có thời hạn. Quyền cho thuê đối với chương trình máy tính KHÔNG áp dụng trong trường hợp bản thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông hoặc các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác. - Các quyền về tài sản do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. - Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Bảng. Nội dung quyền tác giả 2. Giới hạn quyền tác giả Nhằm hài hòa lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng, pháp luật quy định các trường hợp hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả. Cụ thể: a. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: - Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại. - Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình (Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình và không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn); - Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu; - Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại; - Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu không quá một bản (Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số); - Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào; - Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; - Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; - Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; - Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng. Lưu ý: - Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. - Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính. b. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao - Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận. - Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Lưu ý: - Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. - Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.
Ca sỹ biểu diễn có cần trả tiền cho tác giả bài hát không?
Tại Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định về Quyền tài sản như sau: 1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: a) Làm tác phẩm phái sinh; b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; c) Sao chép tác phẩm; ... 2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này. 3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.” Như vậy, ca sỹ biểu diễn chính là đang biểu diễn tác phẩm truớc công chúng (thuộc điểm b khoản 1 Điều 20 nêu trên) do đó, khi sử dụng quyền này, ca sỹ phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Quyền thuê, quyền mua tài sản có là quyền tài sản không?
Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản không?
Tư vấn về việc đăng ký chuyển tiếp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ
Kính gửi anh/chị Hiện nay khi thực hiện việc đăng ký chuyển tiếp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ theo Thông tư 09/2016/TTLT.BTP.BTNMT thì Văn phòng đăng ký đất đai quận huyện từ chối nhận hồ sơ mà yêu cầu phải có ít nhất hợp đồng thế chấp. Tuy nhiên khi thực hiện công chứng hợp đồng thế chấp thì phải xóa quyền tài sản đã đăng ký trước đó. Trong khi yêu cầu trong hồ sơ đăng ký chuyển tiếp để Văn phòng ĐK đất đai nhận là không được xóa quyền tài sản => các điều dường như đang chồng chéo lẫn nhau. Kinh mong anh/chị luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp này thì phải làm như thế nào? Cám ơn các anh/chị. Trân trọng.
Bàn về thuật ngữ pháp lý "Quyền tài sản"
Thuật ngữ pháp lý quyền tài sản đã được khái niệm lại trong Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, đây là một trong những điểm mới của Bộ luật này, sự thay đổi của một đạo luật là sự thay đổi trong cách nhìn cũng có thể là cần những quy định mới để điều chỉnh các vấn đề phát sinh mà luật cũ không còn phù hợp,...vẫn còn đó rất nhiều nguyên nhân. Dựa vào BLDS thì quyền tài sản đã được khái niệm khác nhau trong các giai đoạn lập pháp khác nhau, “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ"(Bộ luật dân sự 2005, Điều 181). Khái niệm này hướng chúng ta đến cách xác định quyền tài sản. Theo đó, quyền nào thỏa hai yếu tố là trị giá bằng tiền và chuyển giao được thì được xem là quyền tài sản, như vậy vô hình trung khái niệm này đã bỏ sót đi các quyền như: quyền yêu cầu cấp dưỡng; quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền hưởng trợ cấp hưu trí; quyền hưởng trợ cấp gắn liền với danh hiệu liệt sĩ;…theo tác giả đây cũng xem là các quyền tài sản mặc dù nó không chuyển giao được, khái niệm này dường như thu hẹp lại đối tượng của quyền tài sản. Hiện nay, quyền tài sản đã được thay thế bằng thuật ngữ pháp lý khác, “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác" (Bộ luật dân sự 2015, Điều 115). Khái niệm này đã mở rộng được đối tượng quyền tài sản và đồng thời chia quyền tài sản thành ba loại để dễ dàng áp dụng trong các văn bản luật chuyên ngành. Tóm lại, quyền tài sản thực chất là quyền của chủ thể đối với một tài sản, mang giá trị quy đổi được thành tiền, xét về mặt tài sản thì quyền tài sản chính là một loại tài sản vô hình. Khái niệm mới đã khắc phục được một số điểm bất cập của quyền tài sản trước đây.
Mối quan hệ giữa quyền sử dụng đất và quyền tài sản
Một bài viết trong Dân luật có bạn hỏi “Quyền sử dụng đất tại sao không phải là quyền tài sản?”, có lẽ bài viết này cũng được đăng khá lâu rồi nhưng vì mình mới tham gia Dân luật thôi nên tình cờ mình xem được. Nhân tiện rảnh rỗi sinh nông nổi, mình mạn phép chia sẻ với các bạn một số thông tin về câu hỏi nêu trên nhé. Câu hỏi đưa ra là “Quyền sử dụng đất tại sao không phải là quyền tài sản?” Trước tiên ở nội dung câu hỏi có chút sai sót như sau: Điều 105 BLDS 2015 định nghĩa: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo Điều 115 BLDS 2015 thì “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Như vậy, từ hai khái niệm nêu trên ta suy luận ra “Quyền sử dụng đất được coi là quyền tài sản”. Tuy nhiên, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì không được xem là quyền tài sản”, mà chỉ là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất (Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013). Bên cạnh đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất còn vai trò quan trọng, đó là căn cứ để xây dựng các quyết định cụ thể như: các quyết định về đăng ký, theo dõi biến động kiểm soát các giao dịch dân sự về đất đai; đồng thời nó còn là cơ sở để xử lý các tranh chấp, các vi phạm về đất đai, không những buộc những người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ về tài chính mà còn giúp cho họ được đền bù về đất khi bị thu hồi. Mình có tham khảo thêm ở một số website của các công ty Luật, nếu có sai sót các bạn góp ý thêm nhé
Chào tất cả mọi người, Mọi người có thể cho mình một số ví dụ về những quyền tài sản sau được không? + Quyền tài sản không chuyển giao được + Quyền tài sản chuyển giao được một cách hạn chế + Quyền tài sản tự do chuyển giao Mình xin cảm ơn.
Bạn nhầm lẫn giữa "Ủy quyền" và "Chuyển quyền"?
Ủy quyền” và “Chuyển quyền” là hai thuật ngữ pháp lý khác nhau; tuy vậy, đôi khi chúng ta vẫn không tránh khỏi những nhầm lẫn nhất định trong quá trình học tập, nghiên cứu và áp dụng quy định pháp luật. Vậy hiểu thế nào cho đúng hai khái niệm đặc biệt này. STT Tiêu chí Ủy quyền Chuyển quyền 1 Định nghĩa “Ủy quyền” là việc người ủy quyền giao cho người được ủy quyền thay mặt mình thực hiện công việc có thể thực hiện và được phép thực hiện dựa trên những quyền và nghĩa vụ mà người ủy quyền có được một cách hợp pháp. “Chuyển quyền” là việc cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu đối với một tài sản nhất định chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cho cá nhân, tổ chức khác. Khái niệm “chuyển quyền” thường không đứng “một mình” mà sẽ gắn liền với một số loại tài sản nhất định. Ví dụ: Chuyển quyền sử dụng đất, Chuyển quyền khai thác khoáng sản,… 2 Đối tượng áp dụng Cá nhân, tổ chức Cá nhân, tổ chức 3 Phạm vi Người ủy quyền chỉ có khả năng thực hiện giao dịch ủy quyền nếu họ là người có quyền thực hiện các công việc, hành vi đó, bao gồm: 1. Các Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; 2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; 3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. (Điều 15, Bộ luật dân sự 2005) Người chuyển quyền chỉ có thể chuyển những quyền liên quan đến một số loại tài sản, không thể áp dụng đối với quyền nhân thân, quyền nhân thân gắn với tài sản. Theo đó, người chuyển quyền sẽ được thực hiện hành vi đối với: 1. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; 2. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. (Điều 15, Bộ luật dân sự 2005) 4 Phân loại Không Việc chuyển quyền bao gồm các hình thức sau: - Chuyển đổi; - Chuyển nhượng; - Thừa kế; - Tặng cho; - Góp vốn; - Cho thuê, cho thuê lại; - … 5 Cách thức thể hiện Việc ủy quyền được thực hiện bằng văn bản ủy quyền, gồm: 1, Hợp đồng ủy quyền: đặc điểm nổi bật nhất là khi giao kết hợp đồng ủy quyền bắt buộc phải có mặt hai bên cùng kí kết; 2. Giấy ủy quyền. Việc chuyển quyền có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói. 6 Công chứng, chứng thực Tùy từng trường hợp cụ thể mà pháp luật có quy định riêng về việc công chứng, chứng thực giấy ủy quyền hay hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo giá trị pháp lí và có cở sở giải quyết khi tranh chấp xảy ra, cá nhân, tổ chức được khuyên nên đi công chứng giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền. Tham khảo: Công chứng hợp đồng ủy quyền (Điều 55 Luật công chứng 2013) Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà pháp luật có những quy định riêng về việc công chứng, chứng thực. Ví dụ: 1. Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực (Điểm b, khoản 3, Điều 167, Luật Đất đai 2013); 2. Công chức di chúc theo yêu cầu (Điều 56 Luật công chứng 2013) 7 Thù lao Có thể có hoặc không. Tùy theo thỏa thuận của các bên hoặc quy định khác của pháp luật. (khoản 3, Điều 586 Bộ luật dân sự 2005) Không. Bản chất của chuyển quyền không phải là một thỏa thuận dịch vụ, do đó không có thù lao khi thực hiện hoạt động này. 8 Trách nhiệm pháp lý Bên ủy quyền sẽ là người phải chịu trách nhiệm pháp lý trước tiên đối với các vi phạm xảy ra trong phạm vi ủy quyền cũng như với bên thứ ba (nếu có). Bên chịu trách nhiệm có thể là bên chuyển quyền hoặc bên nhận chuyển quyền hoặc liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật tùy theo từng trường hợp. Trên đây là những tổng hợp được rút ra trong quá trình bản thân nghiên cứu, bạn nào có ý kiến khác xin đưa ra để mọi người cùng thảo luận.
Quyền tài sản không phải là tài sản
Điều 163 Bộ luật Dân sự quy định Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên, việc khẳng định quyền tài sản là tài sản đây là quy định mang tính gượng ép, không đúng với bản chất của nó và trái với thực tiễn. Bởi lẽ, chỉ khi quyền tài sản đó được thực hiện và chuyển giao từ phía bên kia cho người có quyền thì nó mới trở thành tài sản, còn nếu bên kia không chuyển giao thì nó chưa phải là tài sản. Quyền tài sản chỉ là tài sản trong trường hợp quyền đó được thực hiện hoàn tất. Ví dụ: A nợ B 1 triệu đồng, thì B có quyền tài sản đối với 1 triệu đồng đó nhưng không phải là tài sản. Lúc đầu B cho A mượn 1 triệu đồng, đó chính là tài sản nhưng một khi tài sản đó ra đi thì trong tay B không còn tài sản mà đổi lại là quyền tài sản. B được đòi lại số tiền đó, A buộc phải trả. Tuy nhiên, cho đến chừng nào A chưa trả 1 triệu đồng thì B vẫn chưa có 1 triệu đồng tài sản. Và thậm chí nhiều khi A không thể trả lại cho B thì tài sản đó một ra đi không trở về; khi đó B đã mất tài sản nhưng vẫn còn quyền tài sản. Vì vậy, tài sản và quyền tài sản là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hay bao gồm, sự hiện diện của cái này sẽ làm biến mất cái kia và ngược lại. Nên hiểu tài sản là cái mà chủ thể có được đang hiện hữu quyền chiếm hữu còn quyền tài sản là cái mà chủ thể có được không có quyền chiếm hữu.