Nghị quyết 13/NQ-CP: Thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2023
Ngày 07/02/2023, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 13/NQ-CP thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân. Bảo vệ dữ liệu cá nhân là quyền riêng tư và được pháp luật bảo vệ; bảo vệ dữ liệu cá nhân được thể hiện qua nhiều khía cạnh, như: bảo đảm quyền tự chủ, quyền riêng tư và bảo toàn được danh dự, uy tín của mỗi cá nhân. Theo đó, Chính phủ đồng ý quy định dữ liệu cá nhân được xử lý không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu trong trường hợp sau: Thứ nhất, để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của chủ thể dữ liệu hoặc người khác trong tình huống khẩn cấp. Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân, Bên Xử lý dữ liệu cá nhân, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân, Bên thứ ba có trách nhiệm chứng minh trường hợp này. Thứ hai, việc công khai dữ liệu cá nhân theo quy định của luật. Thứ ba, việc xử lý dữ liệu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm; khi có nguy cơ đe dọa an ninh, quốc phòng nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp; phòng, chống bạo loạn, khủng bố, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định của luật. (So với trước đó, tại Nghị quyết 27/NQ-CP ngày 07/03/2022 thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân chỉ quy định việc xử lý là cần thiết vì yêu cầu quốc phòng, an ninh quốc gia, được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của luật khác.) Thứ tư, để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của chủ thể dữ liệu với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của luật. Thứ năm, phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước đã được quy định theo luật chuyên ngành. Trên đây là 05 trường hợp mà Chính phủ đồng ý quy định dữ liệu cá nhân được xử lý không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu Xem chi tiết tại Nghị quyết 13/NQ-CP có hiệu lực từ ngày 07/02/2023.
Bị xâm phạm đến quyền riêng tư?
Em có thắc mắc về vấn đề liên quan đến việc bị xâm phạm quyền quyền riêng tư ạ. Em xin chân thành cảm ơn mọi người nhiều ạ. Phim ngắn "Y" của Công ty X kể về bà A, là người yêu cũ của ông B (đã mất) – người có thật ở ngoài đời và được dựng thành một nhân vật trong phim Y. Trong phim, bà A được tạo hình khi bà 24 tuổi. Sau khi bộ phim được quảng bá rộng rãi tại Việt Nam, bà A lúc này đã ngoài 60 tuổi cho biết bà là bạn gái cũ của ông B được đề cập trong phim. Tuy nhiên, bà A chưa bao giờ được Công ty X hay gia đình ông B hỏi ý kiến để công khai mối quan hệ của cả hai trước công chúng. Ngoài ra, việc nhắc đến tên thật và làm phim liên quan đến bà khiến bà A cảm thấy khó chịu vì chuyện tình cảm trước đây giữa bà và ông B là điều bà A không muốn nhớ lại. Bà A thắc mắc gia đình ông B có được phép công khai mối quan hệ giữa bà A và ông B hay không? Việc ông B là người nổi tiếng có khiến gia đình ông được phép tiết lộ câu chuyện riêng của bà A sau khi ông đã mất hay không? Cho e xin hỏi là bộ phim này có xâm phạm đến quyền riêng tư của bà A hay không ạ?
Quyền riêng tư và văn hóa Việt
Từ cá nhân chủ nghĩa đến quyền riêng tư trong tư tưởng phương Tây Không rõ thuật ngữ “riêng tư” (privacy) xuất hiện khi nào, nhưng nhiều khả năng nó có nguồn gốc từ phương Tây. Người phương Tây thường hình dung riêng tư dưới dạng thực hành khách quan, gắn với hình tượng cá thể một mình, khép kín, giữa bốn bề phong tỏa. Trong một tiểu luận nổi tiếng, Braindeis và Warrens cho rằng riêng tư là nguyên tắc nhằm bảo vệ những gì cá nhân viết ra, hoặc những gì là sản phẩm của trí tuệ và xúc cảm, khỏi sự công bố với bên ngoài. Theo họ, riêng tư là quyền của một người được “để yên” (to be let alone). Sự riêng tư có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa cá nhân, vốn là một đặc trưng của nền văn hóa phương Tây. Bảo vệ sự toàn vẹn của nhân cách và bản thể cũng quan trọng như bảo vệ cơ thể vật lý bên ngoài. Trong trào lưu giải phóng con người, người phương Tây ngày càng mất niềm tin vào các định chế công. Họ đặc biệt sợ hãi về một xã hội nơi chính quyền biết hết mọi thứ về cá nhân qua các hồ sơ lưu trữ, qua hệ thống giám sát chặt chẽ và các cơ quan thực thi pháp luật mang tính kiểm soát tư tưởng như được mô tả trong các tác phẩm nghệ thuật giả tưởng từ Kafka, Zamyatin và Orwell. Trước nhu cầu đó, đối với người phương Tây, quyền riêng tư là quyền tự mình bảo vệ, nhờ pháp luật bảo vệ, hoặc cấm kẻ khác không được xâm phạm đến những không gian, những vật thể, những thông tin mà mình muốn giữ kín. Đối tượng được bảo vệ của quyền riêng tư hoàn toàn được quyết định bởi ý chí cá nhân, thể hiện quyền tự chủ của cá nhân trong những vấn đề thuộc đời sống của mình. Như một hệ quả, quy phạm hóa quyền riêng tư thành luật là sản phẩm tất yếu của chủ nghĩa cá nhân phương Tây. Văn hóa Việt có quyền riêng tư? Không thể tìm thấy thuật ngữ “riêng tư” trong kinh điển phương Đông xưa. Trong bầu khí quyển Á Đông xưa, chữ “tư” có ý nghĩa gắn liền với chữ “tôi”. Trong tiếng Việt, “tôi” vốn là một đại từ mang tính nhún nhường, khiêm cung, gắn liền với vị thế thấp hơn trong xã hội. Các tư tưởng chính trị, xã hội truyền thống ở khu vực Đông Á đều nhấn mạnh sự rút lui của cái tôi cá nhân khỏi cộng đồng, nhường bước trước những lợi ích lớn lao hơn của tập thể. Phật giáo, hướng tới một xã hội đại đồng, yêu sách mỗi cá nhân phải ẩn đi cái tự ngã, tu thân dưỡng tính, hướng về cõi không5. Các nhà nho học lỗi lạc nhất trong lịch sử Á Đông đều đề cao tinh thần “vô tư”, tu thân, giữ nghĩa, dùng đạo lý tự răn mình để làm tròn vai vế trong một xã hội tôn ti. Như vậy, bị đặt trong thế đối lập với chủ nghĩa tập thể, cá nhân không có vị trí gì đáng kể trong xã hội truyền thống phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Đi xa hơn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên thậm chí nhấn mạnh rằng, trong xã hội Việt Nam, “l’individu n’est rien” (tạm dịch: cá nhân không là gì cả). Đơn vị cơ bản trong xã hội Việt Nam truyền thống không phải là cá nhân, mà là gia đình. Nhà văn hóa Đào Duy Anh từng khẳng định: “…địa vị gia đình ở trong xã hội là tối trọng, mà cá nhân chỉ là những phần tử vô danh ở trong gia đình thôi. Cái kết quả rõ ràng của chế độ ấy là khiến cá tính của người ta không thể nào phát triển ở trong phạm vi gia đình được”. Đối với người Việt Nam trong xã hội phong kiến, “quyền” không phải là “tự do làm những gì luật không cấm” mà là “làm những gì được cho phép làm”. Chữ “quyền” có khi gần gũi với “quyền uy” hơn trong tâm thức người phương Đông. Vua có quyền hơn tôi, cha có quyền hơn con, chồng có quyền hơn vợ. Mỗi cá nhân đều phục tùng trước sự sắp đặt của tôn ti, trật tư, nhún nhường trước quyền uy của người gia trưởng. Đến lượt mình, bản thân mỗi gia đình cũng chủ động chôn vùi những tâm tư ý nhị của các thành viên, chỉ tiết lộ với người ngoài về những công trạng làm rạng danh gia tộc – “tốt khoe, xấu che”. Vị tôn phu tôn phu là cái “nóc” che đậy và đại diện cho bộ mặt của cả ngôi nhà và cũng là người đứng mũi chịu sào cho mọi hành vi của mọi người trong gia đình. Cửa nhà, một cách éo le, trở thành nơi chôn kín bí mật cá nhân. Chẳng cần vay mượn lý thuyết chế tài từ phương Tây, điều tiếng, tin đồn – thứ nghìn năm sau vẫn còn lưu giữ qua “bia miệng”, chính là sợi dây trói buộc hành vi người Việt hữu hiệu nhất. Trong văn hóa làng xã xưa, tiếng xấu đồn xa là điều cám cảnh tâm thức và ràng buộc hành vi người Việt. Trong không gian gò bó của mái đình cây đa, bên ngoài gia môn, người ta biết đi về đâu để thoát khỏi miệng lưỡi thiên hạ? Người Việt Nam không thể hiểu được quy phạm về quyền riêng tư, thứ vốn gắn liền với chủ nghĩa cá nhân kiểu phương Tây. “Ẩn Tư”, thuật ngữ chỉ quyền riêng tư trong Hoa ngữ hiện đại, có gốc gác gần nghĩa với y phục, ám chỉ việc che đậy những bộ phận nhạy cảm để khỏi làm ô uế văn hóa xã hội9. Trong bầu khí quyển bao trùm của bổn phận, những khao khát manh mún tầm thường của cái tôi càng không hòa được vào tiếng nói chung về bổn phận với gia đình, với làng, với nước. Nam nữ tư tình, buồn vui ý nhị, “sầu riêng”, thì cũng đến lúc phải “hóa vui chung trăm nhà”10. Đó là sự lùi bước của riêng tư cá nhân trước những đại tự sự của tập thể. Tiếp biến và chuyển hóa quy phạm xã hội về riêng tư Với những thế hệ đi trước, quyền riêng tư vẫn là thứ gì đó xa xỉ và không đáng kể. Tuy nhiên, đến thế hệ trẻ, đặc biệt từ thế hệ sinh sau năm 1995, quan niệm về cá nhân và quyền riêng tư bắt đầu thay đổi. Tường ngăn, vách chắn, then cài… là những thứ dường như trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống thường ngày. Ngày nay, người Việt Nam (trẻ) đã có những cách hiểu rất khác về sự riêng tư. Họ chủ động phô bày hình ảnh đẹp của chính mình trên mạng xã hội vì họ hiểu được ranh giới giữa riêng tư và hình tượng bản thân trong mắt người khác.Thế hệ trẻ cũng ngày càng ít chia sẻ tâm tư, bí mật với bố mẹ hơn, dù họ chẳng ngần ngại tiết lộ một vài bí mật trên các diễn đàn công khai. Không cần tuyên truyền phổ biến, một hai thế hệ nay mai, con trẻ Việt sẽ biết chủ động giấu kín bí mật đời tư của mình vào cỗ máy thông minh trên tay và không cho bố mẹ động vào. Từ chỗ giấu nhẹm như một nỗi hổ thẹn và là nỗi ám ảnh khi bí mật đời tư cá nhân bị soi mói, ngày nay người Việt dần biết chủ động chống lại sự nhòm ngó của người khác, thậm chí, người ta còn biết cách đánh bóng hình ảnh của mình trước công chúng qua việc tiết lộ những thông tin về đời tư với chủ đích xây dựng thương hiệu bản thân. Từ cảm thức bổn phận, giờ đây người Việt hiểu riêng tư như là tự do, tự chủ làm (hoặc không làm) việc dựng rào, xây vách, cách trở mình ra khỏi mọi người xung quanh; đồng thời yêu sách bổn phận tôn trọng từ những người đứng ngoài bức vách ấy. Cách hiểu của người phương Tây về sự riêng tư gắn với quyền, khẳng định tính tự chủ và tính bản thể của chủ thể, đã loay hoay đâm chồi trong tâm thức người Việt Nam hiện đại. Quyền riêng tư trong bối cảnh văn hóa pháp lý Việt Nam đương đại Trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam, chưa thể tìm thấy một định nghĩa trực tiếp về quyền riêng tư. Cơ sở pháp lí gần nhất với quyền riêng tư là “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” ở điều 38, Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, “Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”, “Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Có thể suy ra rằng thiệt hại đối với quyền riêng tư xảy ra khi thông tin riêng tư bị thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai trái với ý muốn của chủ thể thông tin đó. Tuy nhiên, trong một số bối cảnh, nếu việc tiết lộ các thông tin về cá nhân không gây điều tiếng xấu, mà ngược lại, mang lại thanh danh cho cá nhân, gia đình, thì người Việt Nam chưa chắc đã thấy có cái gì của mình bị xâm phạm. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy rất khó để xác định thiệt hại gây ra đối với quyền riêng tư14. Nhìn từ góc độ quy phạm, dường như người Việt Nam vẫn chưa thể phân biệt rạch ròi giữa thông tin “tốt-xấu” liên quan đến danh dự, nhân phẩm, uy tín cá nhân với thông tin “đời tư” và “bí mật” của cá nhân. Phó Giáo sư Nguyễn Ngọc Điện cho rằng:“nếu việc xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình dẫn đến những tổn thương đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì có thể áp dụng các quy định liên quan để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nhưng nếu việc xâm phạm đời tư không làm tổn thương những giá trị đó, thì việc bảo vệ lại có vẻ mờ mịt”. Suy cho cùng, người Việt Nam ngày nay, với nhiều nghìn năm văn hiến, vẫn chưa thể tách hẳn tri nhận về quyền riêng tư ra khỏi tri nhận về danh dự, về nỗi sợ điều tiếng, nỗi sợ đánh mất uy tín trong các quan hệ xã hội, nỗi sợ làm ô nhục cái danh gia đình. Bước chân vào thế giới lạ lẫm của điện toán, quyền riêng tư một lần nữa đứng trước nhu cầu tái định nghĩa. Vài năm qua, dường như nhà làm luật Việt Nam có xu hướng cho rằng “bảo vệ dữ liệu trên môi trường mạng” chính là “bảo vệ đời sống riêng tư”. Quy định tại Điều 4, khoản 3 Luật an toàn thông tin mạng minh họa rõ rệt niềm tin này. Vì sao người làm luật ở Việt Nam bắt đầu bàn về việc bảo vệ dữ liệu cá nhân như là bảo vệ quyền riêng tư? Một phần, người làm luật chịu sức ép từ việc hội nhập kinh tế và các cam kết về tạo dựng hành lang pháp lý an toàn xuyên quốc gia về chia sẻ dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân trong nước; mặt khác, lực lượng lao động trẻ trong xã hội đang khởi sự nhận thức về quyền riêng tư theo kiểu của phương Tây. Đứng trước sức ép đó, một số nhà nghiên cứu vội vã kết luận bảo vệ dữ liệu cá nhân là bảo vệ quyền riêng tư để hình thành diễn ngôn hợp thức hóa cho tiến trình lập pháp về quyền riêng tư. Thiết nghĩ chưa nên vội vàng đến thế. Mặc dù Việt Nam đã và đang tiếp thu nhanh chóng những học thuyết về kinh tế – chính trị – xã hội của phương Tây và chuyển mình thích nghi với những hệ giá trị mới về quy phạm luân lý và luật pháp; song những tư tưởng mới từ trời Tây chưa bao giờ đủ mạnh để xóa sổ những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam17. Như Phó giáo sư Phạm Duy Nghĩa đã đúc kết: “… thuyết âm dương ngũ hành, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, triết lý nhân quả, tình thương yêu đồng loại của đạo Phật và triết lý sống của Nho giáo đã tạo nên nền móng cho văn minh pháp lý Việt Nam. Thứ nền móng đó đã ăn sâu trong tâm thức người Việt Nam. Luật pháp nếu xung đột với những giá trị nền tảng đó sẽ không được cộng đồng người Việt Nam chấp nhận; chúng sẽ tự tiêu vong”. Luật mới cũng như một loài cây: khi gieo một giống cây xa lạ vào thổ nhưỡng Việt, hấp thụ khí hậu và địa lý Việt, có khi nó không thể sống được. Luật hóa theo hướng cấy ghép luật pháp nước ngoài không chọn lọc, người Việt đôi khi vô tình được trao cho một số quyền mà họ không cần đến, hoặc chưa nhận thức đầy đủ để sử dụng làm sao cho đúng. Hãy xem xét trường hợp quyền được lãng quên19. Đối với người phương Tây, quyền riêng tư chính là quyền được “rút lui” khỏi môi trường điện toán, được khoác một tấm áo tàng hình, không cho bất kỳ thông tin nào về mình lộ ra bên ngoài. Vì vậy, cá nhân được phép quyết định thông tin nào về mình là thông tin cần được bảo vệ, thông tin nào có thể được tiết lộ, thậm chí đến mức không cần biết lý do cho quyết định đó. Trong khi người phương Tây có thể yêu sách sự xóa bỏ toàn bộ thông tin về mình trong quá khứ khỏi kho lưu trữ của thế giới điện toán, người Việt Nam – quen thuộc với bổn phận gia đình và cộng đồng, làm sao có thể đòi hỏi một quyền riêng tư tuyệt đối đến thế. Nếu không có lộ trình làm luật khoa học, gắn liền với bối cảnh văn hóa – xã hội đặc thù, việc “cắm” quy phạm về riêng tư điện toán theo kiểu phương Tây vào môi trường văn hóa Việt Nam sẽ dẫn đến những rắc rối, phức tạp về mặt diễn giải và thực thi pháp luật. Muốn xây dựng quy định về bảo vệ dữ liệu, trước hết phải hiểu quyền riêng tư như một quyền gắn liền với bối cảnh Việt Nam; quyền này cần được liên tục diễn giải, thi hành, phê phán, rồi tái diễn giải. Từ đó, cần nhận thức rằng quyền riêng tư trên môi trường điện toán ở Việt Nam sở hữu những tính chất rất đặc thù. Về mặt chính sách, cần thúc đẩy nghiên cứu liên ngành văn hóa – sử học – luật học về quyền riêng tư kiểu Việt Nam, tiến đến xác định một số tiêu chí, đặc điểm của quyền riêng tư trong môi trường điện toán nước ta; sau đó mới có thể luật hóa quyền riêng tư và tiến đến xây dựng một đạo luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân của Việt Nam. Có nên xây dựng quy phạm về quyền riêng tư trên mạng hoàn toàn theo cách hiểu của phương Tây cho Việt Nam hay không là điều cần bàn thêm; cũng không nên quá hấp tấp đánh đồng giữa bảo vệ quyền riêng tư với bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường điện toán. Ở thời điểm hiện tại, có thể khẳng định một điều chắc chắn: hiểu đúng về tri nhận riêng tư trong văn hóa Việt truyền thống sẽ là trụ cột quan trọng để nghiên cứu về quyền riêng tư trong những chiều kích mới. □ Tạp chí tia sáng
Xin tư vấn về việc vi phạm quyền riêng tư?
Chào mọi người, Cách đây không lâu mình có giao dịch mua xe ô tô, chat với nhân viên bán hàng (sales) qua zalo. Vì mới mua lần đầu nên mình bị bạn ấy "dắt mũi" phải trả thêm một khoảng tiền cao hơn so với bình thường. Đây có thể hiểu là tiền dịch vụ riêng, ngoài giá niêm yết của xe ví dụ như tiền hỗ trợ làm giấy tờ, tiền phụ kiện... Sau đó mình muốn chia sẽ với mọi người trên FB về cách thức của bạn này. Mục đích là để mọi người hiểu, sáng suốt hơn trước khi nghe theo sales "vẽ vời". Trong bình luận của mình có đăng hình đoạn chat zalo nguyên văn. Hình này có hình đại diện (avatar) của bạn sales và nội dung chat, ngoài ra mình không nói thêm bớt điều gì, tất cả để cộng đồng mạng tự nhận xét. Nhân viên bán hàng thấy vậy dọa kiện mình vì mình xâm hại quyền riêng tư. Lý do bạn ấy đưa ra là đoạn chat là giữa riêng mình và bạn ấy, không được tiết lộ ra ngoài, đặc biệt là có avatar bạn ấy trong đoạn chat. Theo góc nhìn cá nhân, đoạn chat đó không phải thông tin chỉ riêng bạn sales mà là thông tin từ cả 2 người (mình và bạn ấy) nên mình không nghĩ ở đây vi phạm quyền riêng tư. Mong mọi người tư vấn để mình hiểu rõ hơn đúng sai trong tình huống này. Xin cảm ơn và chúc sức khỏe.
Ngân hàng có được xem tài khoản/thư tín của nhân viên
Chào các bạn, Như các bạn đã biết nhân viên ngân hàng hiện nay đều nhận lương vào tài khoản mở tại chính ngân hàng nơi mình đang làm việc chứ không ai mà nhận ở ngân hàng khác (chả lẽ làm NH A lại nhận lương vào tài khoản NH B :P) Tuy nhiên vì vậy mà phát sinh một vấn đề là thông tin về giao dịch và số dư tài khoản của nhân viên sẽ bị chính ngân hàng đó truy vấn và theo dõi mà không có sự đồng ý của nhân viên. Ở đây mình dùng từ "ngân hàng" tức là việc truy vấn tài khoản nhân viên được lãnh đạo ngân hàng phê duyệt/đồng ý (Ví dụ: Bộ phận kiểm toán, kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng đó), chứ không phải trường hợp các nhân viên tự ý "xem trộm" tài khoản của nhau. Chỉ xét trong mối quan hệ "ngân hàng" và người lao động. Theo mình biết, mối quan hệ "ngân hàng - người lao động", ngoài những quy định của pháp luật, thì còn bị chi phối bởi: Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động và nội quy lao động. Bản thân mình cũng là nhân viên ngân hàng, mình đã nghiên cứu kỹ các tài liệu trên và chưa thấy chỗ nào có ghi rõ hoặc đại ý là:"Ngân hàng/người sử dụng lao động có quyền theo dõi, truy vấn, kiểm tra... tài khoản của người lao động". Trong thực tế, mỗi ngân hàng đều có 1 bộ phận kiểm tra giám sát nội bộ (cũng là người của ngân hàng đó) nhằm kiểm tra và phòng ngừa rủi ro. Bộ phận này cũng thường xuyên theo dõi các giao dịch từ tài khoản của nhân viên với lý do là phòng ngừa rủi ro như: NLĐ tham gia cờ bạc, cá độ, cho vay lẫn nhau, mua bán hàng cấm, nhận hối lộ và các giao dịch bất hợp pháp khác. Mục đích thì tốt đấy nhưng như vậy ngân hàng có vi phạm quyền riêng tư của nhân viên không? Họ làm được việc này là do nhân viên nhận lương vào tài khoản mở tại chính ngân hàng đó chứ như người lao động tại doanh nghiệp thông thường thì đừng hòng! Mời các bạn cùng thảo luận về vấn đề "Ngân hàng giám sát tài khoản của nhân viên là dúng hay sai?" dựa trên các cơ sở pháp luật hiện tại! Trân trọng.
Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin
Cho mình hỏi một tình huống như thế này Anh A đang làm tại khoa điều trị HIV của 1 bệnh viện Tình cờ thấy người yêu của em gái mình đến khám và tham gia chữa trị Liêu anh A có được tiết lộ điều này với em gái mình ko Mình cảm ơn
Vô tình đọc bài báo về "hội chứng nhà nghỉ", mình muốn nêu lên một số quan điểm như sau: Ngày nay hay bắt gặp những vụ lên án về hành vi thiếu suy nghĩ của các bạn thanh niên vì không ý thức nơi công cộng. Nhiều quan điểm cho rằng việc nam nữ có những hành vi mang tính chất riêng tư ở nơi công cộng như vậy không chỉ vi phạm về đạo đức mà còn vi phạm luật. Theo mình thì có 2 hướng nghĩ như thế này: Thứ nhất, nếu hành động đó ở nơi mà mỗi người có thể riêng tư và do một người khác cố tình nhiều chuyện quay phim hoặc chụp ảnh lại thì việc này không thể chỉ đổ lỗi cho đôi bạn trẻ, mà mình nghĩ người quay phim cũng có lỗi sai ở đây. Ví dụ đơn giản, nếu đó là quán cà phê dành cho các cặp đôi thì quyền riêng tư của họ nên được tôn trọng, miễn là không ảnh hưởng tới ai. Thứ hai, nếu hành động đó ở nơi như quán cà phê, trà sữa bình thường mà bạn lại có những hành động khiếm nhã như vậy thì việc lên án là hoàn toàn đúng. Nhưng việc lên án văn minh và giúp người phạm lỗi nhận ra mình sai lại thật sự không dễ. Vấn đề ở chỗ, mạng xã hội trở thành một công cụ truyền thông tin nhanh đến mức chưa biết nạn nhân là người như thế nào thì mọi người đã cùng nhau lên án người ta. Thực tế mình thấy, dù người ta có sai đi nữa thì việc lên án cần tế nhị và giữ lại hình ảnh cá nhân của người đó, việc này thể hiện quyền công dân của mỗi người. Ảnh hưởng của mạng xã hội là khá lớn, nên nếu muốn răn đe hoặc làm cho xã hội tốt hơn thì nên thể hiện và tuyên truyền một cách văn minh. Không nên lấy việc sai để răn đe lỗi sai. Như vậy sẽ khiến cho tâm lí và danh dự của họ bị ảnh hưởng.
Chào các chú luật sư Cho con hỏi về luật riêng tư là Con có quen một con gái mà con thích người đó mà anh ruột và anh ngoại cứ trêu chọc con và có đe doạ sẽ tung tin này lên mạng Con đang ở tuổi thiếu niên và ko bt có đủ tuổi để kiện hoặc tố cao hay không Mong các anh,các chú, anh chị giúp đỡ
Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân
Cho mình hỏi Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân được quy định ở đâu trong Pháp luật Việt Nam. Cơ sở y tế có được tự ý cung cấp thôn tin về bệnh án của bệnh nhân cho người khác hay ko?
Em có tạo một nhóm kín ( bí mật ) trên Facebook. Trong đó em có thêm các bạn của em vào để trò chuyện, trao đổi với nhau cho dễ. Nhưng cô em được một bạn khác thêm vào khi chưa có sự đồng ý của người tạo ra nhóm là em. Cô đã tự tiện đọc các bài viết và bình luận tụi em nói trong nhóm với nhau. Trong đó em lỡ nói một câu vô lễ liên quan đến cô. Cô đọc được và bắt em xin lỗi. Vậy cô có phạm vào tội xâm hại quyền riêng tư của người khác khi chưa có sự đồng ý chưa ạ?
Re:Hiệp định TPP - Còn điểm nào bạn chưa rõ?
4. Những quyền con người quan trọng nào được quan tâm trong TPP? Như đã mô tả ở trên, hiệu lực của TPP sẽ kích hoạt những yêu cầu về pháp lý và chính sách và trong một số trường hợp, sẽ yêu cầu cả việc thực thi trong pháp luật quốc gia. TPP sẽ yêu cầu các nước tham gia phải giảm thuế quan hàng hóa và dịch vụ. Hầu hết các thành viên cũng cần cải cáh một phần luật quố gia và chính sách liên quan đến quyền lao động, dịch vụ tài hính, sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế cũng nhưng các lĩnh vực liên quan khác. - Quyền lao động cơ bản: Chương lao động yêu cầu tất cả các thành viên phải đi đến những tiêu chuẩn chung về lao động theo quy định của Tổ chức lao động thế giới (ILO). Đáng chú ý có: + Công nhận quyền tự do thương lượng tập thể của người lao động. + Xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc. + Xóa bỏ lao động trẻ em. + Không phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp. Đặc biệt nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giới tính, sắc tộc, tôn giáo, màu da… Các điều kiện về mức lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn và sức khỏe lao động, phải đảm bảo tốt nhất cho người lao động. Tuy nhiên, sự chênh lệch về trình độ lao động ở các nước đang phát triển đang là một vấn đề được dư luận quan tâm nhiều; ví dụ như đối với các nước Việt Nam, Malaysia và Brunei, một số nhà nghiên cứu dự đoán nhân lực ở các quốc gia này có khả năng sẽ không theo kịp đối với những yêu cầu của TPP. Hiện tại, Hoa Kỳ đang đàm phán bổ sung các thỏa thuận song phương (còn gọi là” Kế hoạch thống nhất”) với Việt Nam, Malaysia và Brunei, yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc để bảo vệ lợi ích TPP của các bên tham gia. - Quyền về sức khỏe: Sự giảm thiểu các vấn đề về tiếp cận thuốc giúp ích rất nhiều cho các thành viên TPP, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề về việc bảo vệ bằng sáng chế và bản quyền cho thuốc. Đồng thời điều khoản quy định về sức khỏe sẽ cho phép các thành viên TPP duy trì sự linh hoạt trong thoả thuận theo Hiệp định TRIPS để bảo vệ sức khỏe cộng đồng các nước TPP thành viên cũng miễn áp dụng quy tắc đối với một số địa phương dựa trên điều kiện kinh tế và tình trạng của hệ thống y tế công cộng của họ. - Tự do thông tin trực tuyến cũng như vấn đề về quyền riêng tư: Thỏa thuận về vấn đề này được các chuyên gia đánh giá là thân thiện khi có biện pháp bảo vệ từ xa mạnh mẽ hơn cho một số quyền liên quan đến Internet, bao gồm yêu cầu các thành viên TPP tạo ra ngoại lệ và hạn chế đối với quyền tác giả và loại bỏ những hình phạt nước ngoài trong các biện pháp bảo vệ công nghệ. Nhằm bảo vệ người tieu, dung, TPP cũng quy định này cũng được đánh giá có thể có thể tăng cường các yêu cầu đối với chế độ bảo vệ thông tin cá nhân và đảm bảo rằng các quy định thúc đẩy các luồng dữ liệu xuyên biên giới không phá hoại, cản trở chế độ bảo vệ này. Nguồn: - Wikipedia Việt Nam; - Toàn văn Hiệp định TPP; - Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP, Dân luật; - TPP được ví như nồi cơm Thạch Sanh, Trung tâm WTO; - Hiệp định TPP: nội dung về thương mại điện tử, Cục công nghệ thông, Bộ Y tế.
Nghị quyết 13/NQ-CP: Thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2023
Ngày 07/02/2023, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 13/NQ-CP thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân. Bảo vệ dữ liệu cá nhân là quyền riêng tư và được pháp luật bảo vệ; bảo vệ dữ liệu cá nhân được thể hiện qua nhiều khía cạnh, như: bảo đảm quyền tự chủ, quyền riêng tư và bảo toàn được danh dự, uy tín của mỗi cá nhân. Theo đó, Chính phủ đồng ý quy định dữ liệu cá nhân được xử lý không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu trong trường hợp sau: Thứ nhất, để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của chủ thể dữ liệu hoặc người khác trong tình huống khẩn cấp. Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân, Bên Xử lý dữ liệu cá nhân, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân, Bên thứ ba có trách nhiệm chứng minh trường hợp này. Thứ hai, việc công khai dữ liệu cá nhân theo quy định của luật. Thứ ba, việc xử lý dữ liệu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm; khi có nguy cơ đe dọa an ninh, quốc phòng nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp; phòng, chống bạo loạn, khủng bố, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định của luật. (So với trước đó, tại Nghị quyết 27/NQ-CP ngày 07/03/2022 thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân chỉ quy định việc xử lý là cần thiết vì yêu cầu quốc phòng, an ninh quốc gia, được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của luật khác.) Thứ tư, để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của chủ thể dữ liệu với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của luật. Thứ năm, phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước đã được quy định theo luật chuyên ngành. Trên đây là 05 trường hợp mà Chính phủ đồng ý quy định dữ liệu cá nhân được xử lý không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu Xem chi tiết tại Nghị quyết 13/NQ-CP có hiệu lực từ ngày 07/02/2023.
Bị xâm phạm đến quyền riêng tư?
Em có thắc mắc về vấn đề liên quan đến việc bị xâm phạm quyền quyền riêng tư ạ. Em xin chân thành cảm ơn mọi người nhiều ạ. Phim ngắn "Y" của Công ty X kể về bà A, là người yêu cũ của ông B (đã mất) – người có thật ở ngoài đời và được dựng thành một nhân vật trong phim Y. Trong phim, bà A được tạo hình khi bà 24 tuổi. Sau khi bộ phim được quảng bá rộng rãi tại Việt Nam, bà A lúc này đã ngoài 60 tuổi cho biết bà là bạn gái cũ của ông B được đề cập trong phim. Tuy nhiên, bà A chưa bao giờ được Công ty X hay gia đình ông B hỏi ý kiến để công khai mối quan hệ của cả hai trước công chúng. Ngoài ra, việc nhắc đến tên thật và làm phim liên quan đến bà khiến bà A cảm thấy khó chịu vì chuyện tình cảm trước đây giữa bà và ông B là điều bà A không muốn nhớ lại. Bà A thắc mắc gia đình ông B có được phép công khai mối quan hệ giữa bà A và ông B hay không? Việc ông B là người nổi tiếng có khiến gia đình ông được phép tiết lộ câu chuyện riêng của bà A sau khi ông đã mất hay không? Cho e xin hỏi là bộ phim này có xâm phạm đến quyền riêng tư của bà A hay không ạ?
Quyền riêng tư và văn hóa Việt
Từ cá nhân chủ nghĩa đến quyền riêng tư trong tư tưởng phương Tây Không rõ thuật ngữ “riêng tư” (privacy) xuất hiện khi nào, nhưng nhiều khả năng nó có nguồn gốc từ phương Tây. Người phương Tây thường hình dung riêng tư dưới dạng thực hành khách quan, gắn với hình tượng cá thể một mình, khép kín, giữa bốn bề phong tỏa. Trong một tiểu luận nổi tiếng, Braindeis và Warrens cho rằng riêng tư là nguyên tắc nhằm bảo vệ những gì cá nhân viết ra, hoặc những gì là sản phẩm của trí tuệ và xúc cảm, khỏi sự công bố với bên ngoài. Theo họ, riêng tư là quyền của một người được “để yên” (to be let alone). Sự riêng tư có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa cá nhân, vốn là một đặc trưng của nền văn hóa phương Tây. Bảo vệ sự toàn vẹn của nhân cách và bản thể cũng quan trọng như bảo vệ cơ thể vật lý bên ngoài. Trong trào lưu giải phóng con người, người phương Tây ngày càng mất niềm tin vào các định chế công. Họ đặc biệt sợ hãi về một xã hội nơi chính quyền biết hết mọi thứ về cá nhân qua các hồ sơ lưu trữ, qua hệ thống giám sát chặt chẽ và các cơ quan thực thi pháp luật mang tính kiểm soát tư tưởng như được mô tả trong các tác phẩm nghệ thuật giả tưởng từ Kafka, Zamyatin và Orwell. Trước nhu cầu đó, đối với người phương Tây, quyền riêng tư là quyền tự mình bảo vệ, nhờ pháp luật bảo vệ, hoặc cấm kẻ khác không được xâm phạm đến những không gian, những vật thể, những thông tin mà mình muốn giữ kín. Đối tượng được bảo vệ của quyền riêng tư hoàn toàn được quyết định bởi ý chí cá nhân, thể hiện quyền tự chủ của cá nhân trong những vấn đề thuộc đời sống của mình. Như một hệ quả, quy phạm hóa quyền riêng tư thành luật là sản phẩm tất yếu của chủ nghĩa cá nhân phương Tây. Văn hóa Việt có quyền riêng tư? Không thể tìm thấy thuật ngữ “riêng tư” trong kinh điển phương Đông xưa. Trong bầu khí quyển Á Đông xưa, chữ “tư” có ý nghĩa gắn liền với chữ “tôi”. Trong tiếng Việt, “tôi” vốn là một đại từ mang tính nhún nhường, khiêm cung, gắn liền với vị thế thấp hơn trong xã hội. Các tư tưởng chính trị, xã hội truyền thống ở khu vực Đông Á đều nhấn mạnh sự rút lui của cái tôi cá nhân khỏi cộng đồng, nhường bước trước những lợi ích lớn lao hơn của tập thể. Phật giáo, hướng tới một xã hội đại đồng, yêu sách mỗi cá nhân phải ẩn đi cái tự ngã, tu thân dưỡng tính, hướng về cõi không5. Các nhà nho học lỗi lạc nhất trong lịch sử Á Đông đều đề cao tinh thần “vô tư”, tu thân, giữ nghĩa, dùng đạo lý tự răn mình để làm tròn vai vế trong một xã hội tôn ti. Như vậy, bị đặt trong thế đối lập với chủ nghĩa tập thể, cá nhân không có vị trí gì đáng kể trong xã hội truyền thống phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Đi xa hơn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên thậm chí nhấn mạnh rằng, trong xã hội Việt Nam, “l’individu n’est rien” (tạm dịch: cá nhân không là gì cả). Đơn vị cơ bản trong xã hội Việt Nam truyền thống không phải là cá nhân, mà là gia đình. Nhà văn hóa Đào Duy Anh từng khẳng định: “…địa vị gia đình ở trong xã hội là tối trọng, mà cá nhân chỉ là những phần tử vô danh ở trong gia đình thôi. Cái kết quả rõ ràng của chế độ ấy là khiến cá tính của người ta không thể nào phát triển ở trong phạm vi gia đình được”. Đối với người Việt Nam trong xã hội phong kiến, “quyền” không phải là “tự do làm những gì luật không cấm” mà là “làm những gì được cho phép làm”. Chữ “quyền” có khi gần gũi với “quyền uy” hơn trong tâm thức người phương Đông. Vua có quyền hơn tôi, cha có quyền hơn con, chồng có quyền hơn vợ. Mỗi cá nhân đều phục tùng trước sự sắp đặt của tôn ti, trật tư, nhún nhường trước quyền uy của người gia trưởng. Đến lượt mình, bản thân mỗi gia đình cũng chủ động chôn vùi những tâm tư ý nhị của các thành viên, chỉ tiết lộ với người ngoài về những công trạng làm rạng danh gia tộc – “tốt khoe, xấu che”. Vị tôn phu tôn phu là cái “nóc” che đậy và đại diện cho bộ mặt của cả ngôi nhà và cũng là người đứng mũi chịu sào cho mọi hành vi của mọi người trong gia đình. Cửa nhà, một cách éo le, trở thành nơi chôn kín bí mật cá nhân. Chẳng cần vay mượn lý thuyết chế tài từ phương Tây, điều tiếng, tin đồn – thứ nghìn năm sau vẫn còn lưu giữ qua “bia miệng”, chính là sợi dây trói buộc hành vi người Việt hữu hiệu nhất. Trong văn hóa làng xã xưa, tiếng xấu đồn xa là điều cám cảnh tâm thức và ràng buộc hành vi người Việt. Trong không gian gò bó của mái đình cây đa, bên ngoài gia môn, người ta biết đi về đâu để thoát khỏi miệng lưỡi thiên hạ? Người Việt Nam không thể hiểu được quy phạm về quyền riêng tư, thứ vốn gắn liền với chủ nghĩa cá nhân kiểu phương Tây. “Ẩn Tư”, thuật ngữ chỉ quyền riêng tư trong Hoa ngữ hiện đại, có gốc gác gần nghĩa với y phục, ám chỉ việc che đậy những bộ phận nhạy cảm để khỏi làm ô uế văn hóa xã hội9. Trong bầu khí quyển bao trùm của bổn phận, những khao khát manh mún tầm thường của cái tôi càng không hòa được vào tiếng nói chung về bổn phận với gia đình, với làng, với nước. Nam nữ tư tình, buồn vui ý nhị, “sầu riêng”, thì cũng đến lúc phải “hóa vui chung trăm nhà”10. Đó là sự lùi bước của riêng tư cá nhân trước những đại tự sự của tập thể. Tiếp biến và chuyển hóa quy phạm xã hội về riêng tư Với những thế hệ đi trước, quyền riêng tư vẫn là thứ gì đó xa xỉ và không đáng kể. Tuy nhiên, đến thế hệ trẻ, đặc biệt từ thế hệ sinh sau năm 1995, quan niệm về cá nhân và quyền riêng tư bắt đầu thay đổi. Tường ngăn, vách chắn, then cài… là những thứ dường như trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống thường ngày. Ngày nay, người Việt Nam (trẻ) đã có những cách hiểu rất khác về sự riêng tư. Họ chủ động phô bày hình ảnh đẹp của chính mình trên mạng xã hội vì họ hiểu được ranh giới giữa riêng tư và hình tượng bản thân trong mắt người khác.Thế hệ trẻ cũng ngày càng ít chia sẻ tâm tư, bí mật với bố mẹ hơn, dù họ chẳng ngần ngại tiết lộ một vài bí mật trên các diễn đàn công khai. Không cần tuyên truyền phổ biến, một hai thế hệ nay mai, con trẻ Việt sẽ biết chủ động giấu kín bí mật đời tư của mình vào cỗ máy thông minh trên tay và không cho bố mẹ động vào. Từ chỗ giấu nhẹm như một nỗi hổ thẹn và là nỗi ám ảnh khi bí mật đời tư cá nhân bị soi mói, ngày nay người Việt dần biết chủ động chống lại sự nhòm ngó của người khác, thậm chí, người ta còn biết cách đánh bóng hình ảnh của mình trước công chúng qua việc tiết lộ những thông tin về đời tư với chủ đích xây dựng thương hiệu bản thân. Từ cảm thức bổn phận, giờ đây người Việt hiểu riêng tư như là tự do, tự chủ làm (hoặc không làm) việc dựng rào, xây vách, cách trở mình ra khỏi mọi người xung quanh; đồng thời yêu sách bổn phận tôn trọng từ những người đứng ngoài bức vách ấy. Cách hiểu của người phương Tây về sự riêng tư gắn với quyền, khẳng định tính tự chủ và tính bản thể của chủ thể, đã loay hoay đâm chồi trong tâm thức người Việt Nam hiện đại. Quyền riêng tư trong bối cảnh văn hóa pháp lý Việt Nam đương đại Trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam, chưa thể tìm thấy một định nghĩa trực tiếp về quyền riêng tư. Cơ sở pháp lí gần nhất với quyền riêng tư là “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” ở điều 38, Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, “Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”, “Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Có thể suy ra rằng thiệt hại đối với quyền riêng tư xảy ra khi thông tin riêng tư bị thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai trái với ý muốn của chủ thể thông tin đó. Tuy nhiên, trong một số bối cảnh, nếu việc tiết lộ các thông tin về cá nhân không gây điều tiếng xấu, mà ngược lại, mang lại thanh danh cho cá nhân, gia đình, thì người Việt Nam chưa chắc đã thấy có cái gì của mình bị xâm phạm. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy rất khó để xác định thiệt hại gây ra đối với quyền riêng tư14. Nhìn từ góc độ quy phạm, dường như người Việt Nam vẫn chưa thể phân biệt rạch ròi giữa thông tin “tốt-xấu” liên quan đến danh dự, nhân phẩm, uy tín cá nhân với thông tin “đời tư” và “bí mật” của cá nhân. Phó Giáo sư Nguyễn Ngọc Điện cho rằng:“nếu việc xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình dẫn đến những tổn thương đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì có thể áp dụng các quy định liên quan để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nhưng nếu việc xâm phạm đời tư không làm tổn thương những giá trị đó, thì việc bảo vệ lại có vẻ mờ mịt”. Suy cho cùng, người Việt Nam ngày nay, với nhiều nghìn năm văn hiến, vẫn chưa thể tách hẳn tri nhận về quyền riêng tư ra khỏi tri nhận về danh dự, về nỗi sợ điều tiếng, nỗi sợ đánh mất uy tín trong các quan hệ xã hội, nỗi sợ làm ô nhục cái danh gia đình. Bước chân vào thế giới lạ lẫm của điện toán, quyền riêng tư một lần nữa đứng trước nhu cầu tái định nghĩa. Vài năm qua, dường như nhà làm luật Việt Nam có xu hướng cho rằng “bảo vệ dữ liệu trên môi trường mạng” chính là “bảo vệ đời sống riêng tư”. Quy định tại Điều 4, khoản 3 Luật an toàn thông tin mạng minh họa rõ rệt niềm tin này. Vì sao người làm luật ở Việt Nam bắt đầu bàn về việc bảo vệ dữ liệu cá nhân như là bảo vệ quyền riêng tư? Một phần, người làm luật chịu sức ép từ việc hội nhập kinh tế và các cam kết về tạo dựng hành lang pháp lý an toàn xuyên quốc gia về chia sẻ dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân trong nước; mặt khác, lực lượng lao động trẻ trong xã hội đang khởi sự nhận thức về quyền riêng tư theo kiểu của phương Tây. Đứng trước sức ép đó, một số nhà nghiên cứu vội vã kết luận bảo vệ dữ liệu cá nhân là bảo vệ quyền riêng tư để hình thành diễn ngôn hợp thức hóa cho tiến trình lập pháp về quyền riêng tư. Thiết nghĩ chưa nên vội vàng đến thế. Mặc dù Việt Nam đã và đang tiếp thu nhanh chóng những học thuyết về kinh tế – chính trị – xã hội của phương Tây và chuyển mình thích nghi với những hệ giá trị mới về quy phạm luân lý và luật pháp; song những tư tưởng mới từ trời Tây chưa bao giờ đủ mạnh để xóa sổ những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam17. Như Phó giáo sư Phạm Duy Nghĩa đã đúc kết: “… thuyết âm dương ngũ hành, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, triết lý nhân quả, tình thương yêu đồng loại của đạo Phật và triết lý sống của Nho giáo đã tạo nên nền móng cho văn minh pháp lý Việt Nam. Thứ nền móng đó đã ăn sâu trong tâm thức người Việt Nam. Luật pháp nếu xung đột với những giá trị nền tảng đó sẽ không được cộng đồng người Việt Nam chấp nhận; chúng sẽ tự tiêu vong”. Luật mới cũng như một loài cây: khi gieo một giống cây xa lạ vào thổ nhưỡng Việt, hấp thụ khí hậu và địa lý Việt, có khi nó không thể sống được. Luật hóa theo hướng cấy ghép luật pháp nước ngoài không chọn lọc, người Việt đôi khi vô tình được trao cho một số quyền mà họ không cần đến, hoặc chưa nhận thức đầy đủ để sử dụng làm sao cho đúng. Hãy xem xét trường hợp quyền được lãng quên19. Đối với người phương Tây, quyền riêng tư chính là quyền được “rút lui” khỏi môi trường điện toán, được khoác một tấm áo tàng hình, không cho bất kỳ thông tin nào về mình lộ ra bên ngoài. Vì vậy, cá nhân được phép quyết định thông tin nào về mình là thông tin cần được bảo vệ, thông tin nào có thể được tiết lộ, thậm chí đến mức không cần biết lý do cho quyết định đó. Trong khi người phương Tây có thể yêu sách sự xóa bỏ toàn bộ thông tin về mình trong quá khứ khỏi kho lưu trữ của thế giới điện toán, người Việt Nam – quen thuộc với bổn phận gia đình và cộng đồng, làm sao có thể đòi hỏi một quyền riêng tư tuyệt đối đến thế. Nếu không có lộ trình làm luật khoa học, gắn liền với bối cảnh văn hóa – xã hội đặc thù, việc “cắm” quy phạm về riêng tư điện toán theo kiểu phương Tây vào môi trường văn hóa Việt Nam sẽ dẫn đến những rắc rối, phức tạp về mặt diễn giải và thực thi pháp luật. Muốn xây dựng quy định về bảo vệ dữ liệu, trước hết phải hiểu quyền riêng tư như một quyền gắn liền với bối cảnh Việt Nam; quyền này cần được liên tục diễn giải, thi hành, phê phán, rồi tái diễn giải. Từ đó, cần nhận thức rằng quyền riêng tư trên môi trường điện toán ở Việt Nam sở hữu những tính chất rất đặc thù. Về mặt chính sách, cần thúc đẩy nghiên cứu liên ngành văn hóa – sử học – luật học về quyền riêng tư kiểu Việt Nam, tiến đến xác định một số tiêu chí, đặc điểm của quyền riêng tư trong môi trường điện toán nước ta; sau đó mới có thể luật hóa quyền riêng tư và tiến đến xây dựng một đạo luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân của Việt Nam. Có nên xây dựng quy phạm về quyền riêng tư trên mạng hoàn toàn theo cách hiểu của phương Tây cho Việt Nam hay không là điều cần bàn thêm; cũng không nên quá hấp tấp đánh đồng giữa bảo vệ quyền riêng tư với bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường điện toán. Ở thời điểm hiện tại, có thể khẳng định một điều chắc chắn: hiểu đúng về tri nhận riêng tư trong văn hóa Việt truyền thống sẽ là trụ cột quan trọng để nghiên cứu về quyền riêng tư trong những chiều kích mới. □ Tạp chí tia sáng
Xin tư vấn về việc vi phạm quyền riêng tư?
Chào mọi người, Cách đây không lâu mình có giao dịch mua xe ô tô, chat với nhân viên bán hàng (sales) qua zalo. Vì mới mua lần đầu nên mình bị bạn ấy "dắt mũi" phải trả thêm một khoảng tiền cao hơn so với bình thường. Đây có thể hiểu là tiền dịch vụ riêng, ngoài giá niêm yết của xe ví dụ như tiền hỗ trợ làm giấy tờ, tiền phụ kiện... Sau đó mình muốn chia sẽ với mọi người trên FB về cách thức của bạn này. Mục đích là để mọi người hiểu, sáng suốt hơn trước khi nghe theo sales "vẽ vời". Trong bình luận của mình có đăng hình đoạn chat zalo nguyên văn. Hình này có hình đại diện (avatar) của bạn sales và nội dung chat, ngoài ra mình không nói thêm bớt điều gì, tất cả để cộng đồng mạng tự nhận xét. Nhân viên bán hàng thấy vậy dọa kiện mình vì mình xâm hại quyền riêng tư. Lý do bạn ấy đưa ra là đoạn chat là giữa riêng mình và bạn ấy, không được tiết lộ ra ngoài, đặc biệt là có avatar bạn ấy trong đoạn chat. Theo góc nhìn cá nhân, đoạn chat đó không phải thông tin chỉ riêng bạn sales mà là thông tin từ cả 2 người (mình và bạn ấy) nên mình không nghĩ ở đây vi phạm quyền riêng tư. Mong mọi người tư vấn để mình hiểu rõ hơn đúng sai trong tình huống này. Xin cảm ơn và chúc sức khỏe.
Ngân hàng có được xem tài khoản/thư tín của nhân viên
Chào các bạn, Như các bạn đã biết nhân viên ngân hàng hiện nay đều nhận lương vào tài khoản mở tại chính ngân hàng nơi mình đang làm việc chứ không ai mà nhận ở ngân hàng khác (chả lẽ làm NH A lại nhận lương vào tài khoản NH B :P) Tuy nhiên vì vậy mà phát sinh một vấn đề là thông tin về giao dịch và số dư tài khoản của nhân viên sẽ bị chính ngân hàng đó truy vấn và theo dõi mà không có sự đồng ý của nhân viên. Ở đây mình dùng từ "ngân hàng" tức là việc truy vấn tài khoản nhân viên được lãnh đạo ngân hàng phê duyệt/đồng ý (Ví dụ: Bộ phận kiểm toán, kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng đó), chứ không phải trường hợp các nhân viên tự ý "xem trộm" tài khoản của nhau. Chỉ xét trong mối quan hệ "ngân hàng" và người lao động. Theo mình biết, mối quan hệ "ngân hàng - người lao động", ngoài những quy định của pháp luật, thì còn bị chi phối bởi: Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động và nội quy lao động. Bản thân mình cũng là nhân viên ngân hàng, mình đã nghiên cứu kỹ các tài liệu trên và chưa thấy chỗ nào có ghi rõ hoặc đại ý là:"Ngân hàng/người sử dụng lao động có quyền theo dõi, truy vấn, kiểm tra... tài khoản của người lao động". Trong thực tế, mỗi ngân hàng đều có 1 bộ phận kiểm tra giám sát nội bộ (cũng là người của ngân hàng đó) nhằm kiểm tra và phòng ngừa rủi ro. Bộ phận này cũng thường xuyên theo dõi các giao dịch từ tài khoản của nhân viên với lý do là phòng ngừa rủi ro như: NLĐ tham gia cờ bạc, cá độ, cho vay lẫn nhau, mua bán hàng cấm, nhận hối lộ và các giao dịch bất hợp pháp khác. Mục đích thì tốt đấy nhưng như vậy ngân hàng có vi phạm quyền riêng tư của nhân viên không? Họ làm được việc này là do nhân viên nhận lương vào tài khoản mở tại chính ngân hàng đó chứ như người lao động tại doanh nghiệp thông thường thì đừng hòng! Mời các bạn cùng thảo luận về vấn đề "Ngân hàng giám sát tài khoản của nhân viên là dúng hay sai?" dựa trên các cơ sở pháp luật hiện tại! Trân trọng.
Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin
Cho mình hỏi một tình huống như thế này Anh A đang làm tại khoa điều trị HIV của 1 bệnh viện Tình cờ thấy người yêu của em gái mình đến khám và tham gia chữa trị Liêu anh A có được tiết lộ điều này với em gái mình ko Mình cảm ơn
Vô tình đọc bài báo về "hội chứng nhà nghỉ", mình muốn nêu lên một số quan điểm như sau: Ngày nay hay bắt gặp những vụ lên án về hành vi thiếu suy nghĩ của các bạn thanh niên vì không ý thức nơi công cộng. Nhiều quan điểm cho rằng việc nam nữ có những hành vi mang tính chất riêng tư ở nơi công cộng như vậy không chỉ vi phạm về đạo đức mà còn vi phạm luật. Theo mình thì có 2 hướng nghĩ như thế này: Thứ nhất, nếu hành động đó ở nơi mà mỗi người có thể riêng tư và do một người khác cố tình nhiều chuyện quay phim hoặc chụp ảnh lại thì việc này không thể chỉ đổ lỗi cho đôi bạn trẻ, mà mình nghĩ người quay phim cũng có lỗi sai ở đây. Ví dụ đơn giản, nếu đó là quán cà phê dành cho các cặp đôi thì quyền riêng tư của họ nên được tôn trọng, miễn là không ảnh hưởng tới ai. Thứ hai, nếu hành động đó ở nơi như quán cà phê, trà sữa bình thường mà bạn lại có những hành động khiếm nhã như vậy thì việc lên án là hoàn toàn đúng. Nhưng việc lên án văn minh và giúp người phạm lỗi nhận ra mình sai lại thật sự không dễ. Vấn đề ở chỗ, mạng xã hội trở thành một công cụ truyền thông tin nhanh đến mức chưa biết nạn nhân là người như thế nào thì mọi người đã cùng nhau lên án người ta. Thực tế mình thấy, dù người ta có sai đi nữa thì việc lên án cần tế nhị và giữ lại hình ảnh cá nhân của người đó, việc này thể hiện quyền công dân của mỗi người. Ảnh hưởng của mạng xã hội là khá lớn, nên nếu muốn răn đe hoặc làm cho xã hội tốt hơn thì nên thể hiện và tuyên truyền một cách văn minh. Không nên lấy việc sai để răn đe lỗi sai. Như vậy sẽ khiến cho tâm lí và danh dự của họ bị ảnh hưởng.
Chào các chú luật sư Cho con hỏi về luật riêng tư là Con có quen một con gái mà con thích người đó mà anh ruột và anh ngoại cứ trêu chọc con và có đe doạ sẽ tung tin này lên mạng Con đang ở tuổi thiếu niên và ko bt có đủ tuổi để kiện hoặc tố cao hay không Mong các anh,các chú, anh chị giúp đỡ
Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân
Cho mình hỏi Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân được quy định ở đâu trong Pháp luật Việt Nam. Cơ sở y tế có được tự ý cung cấp thôn tin về bệnh án của bệnh nhân cho người khác hay ko?
Em có tạo một nhóm kín ( bí mật ) trên Facebook. Trong đó em có thêm các bạn của em vào để trò chuyện, trao đổi với nhau cho dễ. Nhưng cô em được một bạn khác thêm vào khi chưa có sự đồng ý của người tạo ra nhóm là em. Cô đã tự tiện đọc các bài viết và bình luận tụi em nói trong nhóm với nhau. Trong đó em lỡ nói một câu vô lễ liên quan đến cô. Cô đọc được và bắt em xin lỗi. Vậy cô có phạm vào tội xâm hại quyền riêng tư của người khác khi chưa có sự đồng ý chưa ạ?
Re:Hiệp định TPP - Còn điểm nào bạn chưa rõ?
4. Những quyền con người quan trọng nào được quan tâm trong TPP? Như đã mô tả ở trên, hiệu lực của TPP sẽ kích hoạt những yêu cầu về pháp lý và chính sách và trong một số trường hợp, sẽ yêu cầu cả việc thực thi trong pháp luật quốc gia. TPP sẽ yêu cầu các nước tham gia phải giảm thuế quan hàng hóa và dịch vụ. Hầu hết các thành viên cũng cần cải cáh một phần luật quố gia và chính sách liên quan đến quyền lao động, dịch vụ tài hính, sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế cũng nhưng các lĩnh vực liên quan khác. - Quyền lao động cơ bản: Chương lao động yêu cầu tất cả các thành viên phải đi đến những tiêu chuẩn chung về lao động theo quy định của Tổ chức lao động thế giới (ILO). Đáng chú ý có: + Công nhận quyền tự do thương lượng tập thể của người lao động. + Xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc. + Xóa bỏ lao động trẻ em. + Không phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp. Đặc biệt nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giới tính, sắc tộc, tôn giáo, màu da… Các điều kiện về mức lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn và sức khỏe lao động, phải đảm bảo tốt nhất cho người lao động. Tuy nhiên, sự chênh lệch về trình độ lao động ở các nước đang phát triển đang là một vấn đề được dư luận quan tâm nhiều; ví dụ như đối với các nước Việt Nam, Malaysia và Brunei, một số nhà nghiên cứu dự đoán nhân lực ở các quốc gia này có khả năng sẽ không theo kịp đối với những yêu cầu của TPP. Hiện tại, Hoa Kỳ đang đàm phán bổ sung các thỏa thuận song phương (còn gọi là” Kế hoạch thống nhất”) với Việt Nam, Malaysia và Brunei, yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc để bảo vệ lợi ích TPP của các bên tham gia. - Quyền về sức khỏe: Sự giảm thiểu các vấn đề về tiếp cận thuốc giúp ích rất nhiều cho các thành viên TPP, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề về việc bảo vệ bằng sáng chế và bản quyền cho thuốc. Đồng thời điều khoản quy định về sức khỏe sẽ cho phép các thành viên TPP duy trì sự linh hoạt trong thoả thuận theo Hiệp định TRIPS để bảo vệ sức khỏe cộng đồng các nước TPP thành viên cũng miễn áp dụng quy tắc đối với một số địa phương dựa trên điều kiện kinh tế và tình trạng của hệ thống y tế công cộng của họ. - Tự do thông tin trực tuyến cũng như vấn đề về quyền riêng tư: Thỏa thuận về vấn đề này được các chuyên gia đánh giá là thân thiện khi có biện pháp bảo vệ từ xa mạnh mẽ hơn cho một số quyền liên quan đến Internet, bao gồm yêu cầu các thành viên TPP tạo ra ngoại lệ và hạn chế đối với quyền tác giả và loại bỏ những hình phạt nước ngoài trong các biện pháp bảo vệ công nghệ. Nhằm bảo vệ người tieu, dung, TPP cũng quy định này cũng được đánh giá có thể có thể tăng cường các yêu cầu đối với chế độ bảo vệ thông tin cá nhân và đảm bảo rằng các quy định thúc đẩy các luồng dữ liệu xuyên biên giới không phá hoại, cản trở chế độ bảo vệ này. Nguồn: - Wikipedia Việt Nam; - Toàn văn Hiệp định TPP; - Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP, Dân luật; - TPP được ví như nồi cơm Thạch Sanh, Trung tâm WTO; - Hiệp định TPP: nội dung về thương mại điện tử, Cục công nghệ thông, Bộ Y tế.