Khái quát về lịch sử quyền im lặng
Quyền im lặng trong thế kỉ XVI-XVIII Quyền im lặng thực chất là nguyên tắc suy đoán vô tội có nguồn gốc từ Luật La Mã cổ đại cách đây trên 15 thế kỷ, song đã gần như bị tê liệt trong các tòa án vô nhân suốt thời trung cổ và chỉ được phục hưng kể từ cuộc cách mạng tư sản ở Âu Châu.Thuật ngữ Latin nemo tenetur se ipsum accusare (‘no man is bound to accuse himself’) không ai tự buộc tội chính mình xuất phát từ thế kỉ 16 khi các công dân bất đồng chính kiến với chính quyền Vương Quốc Anh bị bắt và phải ra Tòa. Vì vậy, trong khoa học pháp lí đã tồn tại quan điểm cho rằng quyền im lặng có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, xuất phát từ nguyên tắc của người La Mã và được sử dụng trong lĩnh vực dân sự, thương mại khi ở đó người ta khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định. A khẳng định B nợ mình thì A phải chứng minh. Ở thời kì đó, chế định này nhiều khi đã bị lợi dụng để sử dụng như là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị hơn là quyền cho bất kì cá nhân nào bị buộc tội. Chế định này đảm bảo rằng chỉ khi có lí do hợp lí để nghi ngờ ai đó vi phạm pháp luật thì người đó mới có thể bị buộc trả lời những câu hỏi buộc tội. Tất cả những người bị bắt trước khi ra hầu tòa bị buộc phải thừa nhận tội trạng “Ex officio oath” và thề khai đúng sự thật, hầu hết các vụ việc xảy ra tại các Tòa án tôn giáo. Tòa án tôn giáo được thành lập ở Anh cuối thế kỉ 17, với nguyên tắc lời thề vinh dự trong xét xử đã hình thành một học thuyết “Tam tội bất kiến”-the cruel trilemma có nghĩa người bị bắt phải chọn một trong ba tội danh mình đã thực hiện, không có sự lựa chọn bào chữa khác. Trong vụ kiện này thẩm phán Edward Coke đã ra phán quyết Tòa án ủng hộ quyền im lặng không phải đưa ra lời thề nhận tội. Thật ra từ thời La Mã cổ có nhiều người khẳng định trách nhiệm chứng minh là thuộc về bên tố cáo chứ hoàn toàn không phải do bên phủ định. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng đến tố tụng dân sự sau này. Đây là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội sau này. Một chính khách người Anh John Lilburne đã đứng lên chống đối các thủ tục tuyên thệ buộc tội, người có biệt dạnh “Freeborn John”. Ông bị bắt sau khi xuất bản cuốn sách “An Impeachment of High Treason”, trong vụ kiện xét xử ông từ chối ra đưa ra lời thề nhận tội. Tòa án đã phán ông vô tội. Có quan điểm lại cho rằng nước Anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng. Ở Anh, xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng quyền lực giữa nhà nước và quyền công dân , ngay từ thế kỉ XVI đã tồn tại nguyên tắc về quyền im lặng: “không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kì hình thức hoặc toà án nào”, bị cáo mới có được quyền hữu hiệu để từ chối trả lời những buộc tội đối với mình. Có thể nói, những người bào chữa đã góp công lớn trong việc “khai sinh” ra đặc quyền chống lại sự tự buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên cuộc cách mạng về tố tụng mà kết quả của nó vẫn tồn tại trong hệ thống tư pháp ở Anh. Mặc dù không có căn cứ rõ rằng nhưng ngày nay, tại Vương quốc Anh và các nước thuộc dòng họ pháp luật Anh, quyền im lặng vẫn được gìn giữ. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhất bảo vệ người dân trước các hành động tuỳ tiện của nhà nước.
Khái quát về lịch sử quyền im lặng
Quyền im lặng trong thế kỉ XVI-XVIII Quyền im lặng thực chất là nguyên tắc suy đoán vô tội có nguồn gốc từ Luật La Mã cổ đại cách đây trên 15 thế kỷ, song đã gần như bị tê liệt trong các tòa án vô nhân suốt thời trung cổ và chỉ được phục hưng kể từ cuộc cách mạng tư sản ở Âu Châu.Thuật ngữ Latin nemo tenetur se ipsum accusare (‘no man is bound to accuse himself’) không ai tự buộc tội chính mình xuất phát từ thế kỉ 16 khi các công dân bất đồng chính kiến với chính quyền Vương Quốc Anh bị bắt và phải ra Tòa. Vì vậy, trong khoa học pháp lí đã tồn tại quan điểm cho rằng quyền im lặng có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, xuất phát từ nguyên tắc của người La Mã và được sử dụng trong lĩnh vực dân sự, thương mại khi ở đó người ta khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định. A khẳng định B nợ mình thì A phải chứng minh. Ở thời kì đó, chế định này nhiều khi đã bị lợi dụng để sử dụng như là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị hơn là quyền cho bất kì cá nhân nào bị buộc tội. Chế định này đảm bảo rằng chỉ khi có lí do hợp lí để nghi ngờ ai đó vi phạm pháp luật thì người đó mới có thể bị buộc trả lời những câu hỏi buộc tội. Tất cả những người bị bắt trước khi ra hầu tòa bị buộc phải thừa nhận tội trạng “Ex officio oath” và thề khai đúng sự thật, hầu hết các vụ việc xảy ra tại các Tòa án tôn giáo. Tòa án tôn giáo được thành lập ở Anh cuối thế kỉ 17, với nguyên tắc lời thề vinh dự trong xét xử đã hình thành một học thuyết “Tam tội bất kiến”-the cruel trilemma có nghĩa người bị bắt phải chọn một trong ba tội danh mình đã thực hiện, không có sự lựa chọn bào chữa khác. Trong vụ kiện này thẩm phán Edward Coke đã ra phán quyết Tòa án ủng hộ quyền im lặng không phải đưa ra lời thề nhận tội. Thật ra từ thời La Mã cổ có nhiều người khẳng định trách nhiệm chứng minh là thuộc về bên tố cáo chứ hoàn toàn không phải do bên phủ định. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng đến tố tụng dân sự sau này. Đây là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội sau này. Một chính khách người Anh John Lilburne đã đứng lên chống đối các thủ tục tuyên thệ buộc tội, người có biệt dạnh “Freeborn John”. Ông bị bắt sau khi xuất bản cuốn sách “An Impeachment of High Treason”, trong vụ kiện xét xử ông từ chối ra đưa ra lời thề nhận tội. Tòa án đã phán ông vô tội. Có quan điểm lại cho rằng nước Anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng. Ở Anh, xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng quyền lực giữa nhà nước và quyền công dân , ngay từ thế kỉ XVI đã tồn tại nguyên tắc về quyền im lặng: “không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kì hình thức hoặc toà án nào”, bị cáo mới có được quyền hữu hiệu để từ chối trả lời những buộc tội đối với mình. Có thể nói, những người bào chữa đã góp công lớn trong việc “khai sinh” ra đặc quyền chống lại sự tự buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên cuộc cách mạng về tố tụng mà kết quả của nó vẫn tồn tại trong hệ thống tư pháp ở Anh. Mặc dù không có căn cứ rõ rằng nhưng ngày nay, tại Vương quốc Anh và các nước thuộc dòng họ pháp luật Anh, quyền im lặng vẫn được gìn giữ. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhất bảo vệ người dân trước các hành động tuỳ tiện của nhà nước.
Trong luật tố tụng hình sự có quy định về “Quyền im lặng” của bị can, bị cáo + "Quyền im lặng" đối với bị cáo được quy định tại điểm, khoản 2, điều 61, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể: "h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;" Vậy các đương sự trong vụ việc dân sự có được phép xin không trả lời một số câu hỏi của HĐXX, Đại diện VKS, Luật sư…. Vì lý do riêng?
Quyền im lặng - Những vấn đề cần nắm...
Dạo gần đây nảy ra một vấn đề mà mình thấy mọi người vẫn còn khá thắc mắc, đó là việc sử dụng Quyền im lặng trong vụ án chạy thận làm 8 người chết - vụ án mà bác sĩ Hoàng Công Lương đang phải “chịu” trách nhiệm chính và anh đã dùng quyền im lặng trong một phiên xét xử của tòa án. Vậy Quyền im lặng được quy định tại đâu và để hiểu rõ bản chất của nó thế nào là hợp lý, mình sẽ điểm sơ một số nội dung sau đây. Nguồn gốc quyền im lặng Không có lịch sử rõ ràng đằng sau quyền im lặng. The nemo brocard Latin tenetur se ipsum accusare ('không có người đàn ông nào bị ràng buộc để buộc tội mình ") đã trở thành một lời kêu gọi cho bất đồng chính kiến tôn giáo và chính trị bị truy tố tại các tòa án thế kỷ 16 ở Anh. Sau các cuộc cách mạng vào cuối thế kỷ thứ 17, theo một số tài liệu lịch sử, quyền im lặng trở thành luật pháp như một phản ứng của người dân đến tòa án. Ở Vương quốc Anh và các nước trước đây là một phần của Đế chế Anh (như các quốc gia cộng đồng Anh, Hoa Kỳ và Cộng hòa Ireland) quyền im lặng đã vẫn gìn giữ trong truyền thống thông luật thừa kế từ nước Anh. Mặc dù ban đầu xa lạ với hệ thống tư pháp thẩm tra, quyền im lặng lan rộng khắp lục địa châu Âu. Đến những năm cuối thế kỷ 20, do sự phát triển luật pháp quốc tế mà sự phổ cập ngày càng tăng của một số biện pháp bảo vệ quyền im lặng. Ví dụ, quyền im lặng được ghi nhận trong các văn bản nhân quyền quốc tế quan trọng như Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị. Ở Việt Nam vào tháng 5 năm 2015, các dự thảo Bộ Luật Tố tụng hình sự cho phép người bị tạm giam, bị can, bị cáo... có quyền im lặng. Theo đó, quy định “quyền im lặng” của người bị bắt, người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo không phải là tạo thêm rào cản cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà ngược lại sẽ góp phần tích cực nâng cao nghiệp vụ điều tra, truy tố, xét xử của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán. Đồng thời cũng nâng cao vị trí, vai trò của luật sư, trợ giúp viên pháp lý bào chữa. => Như vậy Quyền im lặng có thể được xem là một bước tiến mới trong hệ thống tố tụng ở nước ta, tuy vậy quyền này chỉ được phổ biến với cộng đồng thông qua vụ Hoa Hậu Phương Nga trong vụ cô bị kiện chiếm đoạt 16.5 tỷ đồng của ông Cao Toàn Mỹ. Vậy quyền im lặng được hiểu thế nào? Nên sử dụng khi nào? Quyền im lặng là một quyền hợp pháp được công nhận, một cách rõ ràng hoặc theo quy ước, trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Đây là quyền của nghi phạm, của người bị kháng cáo, trong một vụ án có quyền im lặng, không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hay tự buộc mình có tội. Theo quyền này, một công dân được mặc định là vô tội cho đến khi các cơ quan pháp luật chứng minh được người đó có tội, luật pháp công nhận quyền này căn bản phán xử dựa trên chứng cứ. Quyền im lặng là một phương tiện quan trọng để hạn chế bức cung, nhục hình - nguyên nhân dẫn đến oan sai trong tố tụng hình sự. Đây được xem là điều không quá khó hiểu khi mà điều tra viên trong trường hợp dùng các cách thức không công bằng để chứng minh việc phạm tội của người bị điều tra. Tình trạng mớm cung hoặc thêm bớt vào lời khai không phải chưa từng xuất hiện trong các vụ án ở Việt Nam. Do đó việc im lặng tới khi có sự tham gia của luật sư là cách thức bảo vệ đơn giản nhất và có thể áp dụng cho mọi người Ví dụ, trong vụ Hoa hậu Phương Nga, việc các bằng chứng mà cô đưa ra trong quá trình khai báo với cơ quan điều tra bỗng biến thành “chứng cứ” chống lại cô, dẫn đến việc cô tuyên bố sử dụng quyền im lặng vì không còn tin vào VKS. Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã cụ thể hóa một số nguyên tắc cơ bản thực thi quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp 2013 như nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13), “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15), “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16), “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Tuy nhiên cũng có thể thấy rõ khái niệm về Quyền im lặng không được quy định cụ thể mà chỉ có nội dung chứa những ý chính nhắc về nó, cụ thể là quyền của người bị buộc tội tại các điều 59 đến 62 BLTTHS. Quyền này của người bị buộc tội (gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được thể hiện như sau: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử. Đây chính là tinh thần cốt lõi của “Quyền im lặng” được thể hiện trong BLTTHS 2015. Khi nào im lặng? Khi nào nên nói? Khi bị khởi tố vụ án/khởi tố bị can, trong trường hợp này, nghĩa là cá nhân người đó đang bị điều tra về một hành vi mà cơ quan điều tra cho rằng đó là “phạm tội”. Trong quá trình điều tra lại xảy ra sự không tương xứng giữa cơ quan điều tra và người bị điều tra. Điều này thể hiện ở nhân lực, phương tiện, các thông tin được thu thập, kiến thức chuyên môn. Các cán bộ điều tra có quyền không cho người bị điều tra biết được các thông tin mà họ đã có, có kiến thức chuyên sâu về kỹ thuật thẩm vấn… Ngược lại, người bị điều tra, luôn yếu thế hơn cán bộ điều tra vì trong nhiều trường hợp, họ bị giam cách ly khỏi thế giới bên ngoài, không biết các kỹ thuật dẫn dụ trong hỏi cung có đúng pháp luật không? Do đó, nếu gặp những câu hỏi mà bạn không biết và không chắc chắn điều mình nói là bất lợi hay có lợi lúc này, những câu hỏi kiểu mớm cung hoặc trong quá trình ấy cảm thấy không yên tâm vì bất kì câu trả lời nào cũng “nguy hiểm” thì hãy im lặng và yêu cầu Luật sư để bảo vệ và hướng dẫn mình cách tốt nhất để xử lý trong trường hợp đó. Kết: việc sử dụng quyền im lặng ở nước ta là một bước tiến tốt cho thấy tình hình dân trí đã có sự tiếp thu và thực hiện các kiến thức pháp luật. Tuy nhiên thời điểm này vẫn còn khá ít trường hợp sử dụng quyền trên trong quá trình xét xử, nhất là khi bối cảnh án oan vẫn còn thì mình nghĩ việc tuyên truyền về quyền này vẫn cần thiết và mạnh mẽ hơn nữa.
Hoa Hậu Trương Hồ Phương Nga "Không tin Viện kiểm sát" giữ "Quyền im lặng"
Ngày hôm nay, 22/06/2017 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa vụ án HH Trương Hồ Phương Nga về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản ra xét xử lần 2. Tại phiên tòa Bị cáo Trương Hồ Phương Nga đã sử dụng quyền im lặng, bị cáo Nga khẳng định không tin tưởng cơ quan điều tra nên không khai và bị cáo cũng nói nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền và bị cáo Nga không có nghĩa vụ phải chứng minh mình bị oan. Theo cáo trạng của Viện KSND TP.HCM Trương Hồ Phương Nga quen biết với ông Cao Toàn Mỹ (sinh năm 1977) qua mạng xã hội. Khoảng năm 2012 Nga nói với ông Mỹ rằng mình có khả năng kinh doanh bất động sản và có người quen bán nhà với giá rẻ, nói ông Mỹ đưa tiền để Nga mua giúp. Sau khi ông Mỹ đưa tiền nhưng Nga viện lý do mua bán không thành, giới thiệu căn khác nhưng rồi cũng không giao nhà. Sau khi nói mua bán đổi sang nhiều căn nhà khác và ông Mỹ vẫn tin tưởng chuyển thêm tiền, đến tháng 11-2013, Nga viết giấy xác nhận đã nhận 16,5 tỉ đồng của ông Mỹ để mua nhà. 30 ngày sau không thấy Nga liên lạc để làm thủ tục sang tên nhà, ông Mỹ đi tìm hiểu thì biết mình bị lừa. Đòi Nga trả tiền không được, ông Mỹ làm đơn tố cáo và Nga cùng Dung (bạn Nga) bị khởi tố, bắt giam. Trong phiên tòa sơ thẩm đầu tiên được mở ngày 21-9-2016, Phương Nga bất ngờ cho lời khai rằng giữa Nga và ông Mỹ có mối quan hệ tình cảm và số tiền 16,5 tỉ đồng trên là để thực hiện "hợp đồng tình cảm" giữa Nga và Mỹ trong 7 năm. Nga khai không lừa đảo ông Cao Toàn Mỹ. Về quyền im lặng của bị cáo, ở Việt Nam tuy chưa ghi nhận trực tiếp về quyền im lặng, nhưng quyền này được thể hiện gián tiếp ở nhiều điều luật của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 khi cho phép người bị bắt không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc nhận có tội. Cụ thể về quyền của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp tại các điểm e khoản 1 điều 58, điểm c khoản 2 điều 59, điểm d khoản 1 điều 60, điểm h khoản 2 điều 61. Theo đó, ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Khoản 3 Điều 309 cho phép tại phiên tòa, trong giai đoạn xét hỏi nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Điều 15 cũng quy định Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Các Hiến pháp Việt Nam xưa nay vốn đã ghi nhận quyền giả định vô tội và Hiến pháp hiện hành 2013 tiếp tục khẳng định: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" (khoản 1, Điều 31). Quyền này được thể hiện gián tiếp ở nhiều điều luật của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 khi cho phép người bị bắt không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc nhận có tội. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 với rất nhiều quy định có ảnh hưởng và tác động đến việc đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. Trong đó đáng chú ý là những quy định về “quyền im lặng” của bị can, bị cáo. Tuy nhiên quyền này không được ghi nhận trực tiếp mà gián tiếp thể hiện trong một số điều luật. Cụ thể như: Điểm e khoản 1 điều 58 quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền trình bày lời khau, trình bày ý kiến, không buộc đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận có tội. Như vậy có thể hiểu rằng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ khai báo, những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai bá cũng như không buộc mình phải nhận có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng. Khoản 3 Điều 309 cho phép tại phiên tòa, trong giai đoạn xét hỏi nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Điều 15 cũng quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh vô tội. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng quyền im lặng không loại trừ quyền khai báo của người bị buộc tội, do đó người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo có quyền khi báo sau khi được giải thích về quyền im lặng. Việc nhận tội của bị can, bị cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Im lặng trong giao kết hợp đồng luôn gây cho đôi bên sự bất tiện nhất định vì một bên luôn giữ thái độ "không ý kiến". Vậy, liệu im lặng có đồng nghĩa với đồng ý mà chúng ta vẫn hay thường nghĩ ? Thực ra, Bộ luật dân sự 2005 cũng đã dự liệu về sự "im lặng", theo đó, im lặng chỉ được hiểu là đồng ý khi mà các bên đã có thỏa thuận trước rằng: "nếu bên nào im lặng thì có nghĩa là đồng ý". Tuy nhiên, "lý thuyết là màu xám, chỉ có cây đời là mãi xanh tươi", trong cuộc sống, đã có rất nhiều hướng xử lý khác nhau từ tòa khi mà một bên thể hiện sự im lặng. Theo đó, im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận (đồng ý) nếu tồn tại yếu tố khác như: Thứ nhất, bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng, nhưng sau đó yêu cầu bên kia thực hiện hợp đồng. Thứ hai, bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng tiếp nhận việc thực hiện hợp đồng của bên kia và cũng tiến hành thực hiện hợp đồng từ phía mình. Thứ ba, bên giữ im lặng trong quá trình giao kết biết rõ việc thực hiện hợp đồng nhưng không có phản đối gì. Thứ tư, dựa vào lời khai của bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người giữ im lặng đã đồng ý hợp đồng. Trên đây là các yếu tố được rút ra từ thực tiễn xét xử về vấn đề im lặng. Như vậy, nếu im lặng mà có đi kèm với các yếu tố này thì "im lặng được xem là đồng ý".
Những ngày đầu tiên khi mới sang Mỹ học luật, trên đường đi bộ từ nhà tới trường, tôi nhận thấy là các ngôi nhà hầu hết không có hàng rào và các chấn song sắt kiên cố như tôi vẫn thấy ở Việt Nam. Vì biết nước Mỹ là một quốc gia có tỷ lệ tội phạm và số người ngồi tù thuộc nhóm đứng đầu thế giới, nên tôi thắc mắc nhưng không thể lý giải được điều đó. Tôi mang vấn đề này hỏi giáo sư của mình và được ông trả lời như sau: “Chúng tôi thừa nhận một sự thật là cái ác đã, đang và sẽ luôn song hành với cái thiện chừng nào nhân loại còn tồn tại. Chúng tôi biết là không có một giải pháp nào có thể giải quyết được mọi mục đích đặt ra. Do đó, khi soạn luật chúng tôi xem xét các mục đích rồi xác định thứ tự ưu tiên cho các mục đích đó. Đối với vấn đề tội phạm, ưu tiên của chúng tôi là làm cho những người dân yên tâm là họ được bảo vệ và nhờ đó các nguồn lực, thay vì được dùng để biến mỗi căn nhà thành một pháo đài thì sẽ được đầu tư cho lực lượng thực thi luật pháp. Nói cách khác, chúng tôi làm luật không vì một nhóm nhỏ người xấu mà vì đa số người tốt. Sự an tâm và phát triển của những người dân sẽ mang lại nguồn lực cho việc bảo vệ pháp luật. Cái anh nhìn thấy là kết quả của triết lý lập pháp đó”. Khi quan sát những trao đổi qua lại trên Quốc hội về quyền im lặng của những người là đối tượng của điều tra hình sự, tôi tự hỏi các đại biểu Quốc hội nghĩ thế nào về mục đích của quy định về quyền im lặng và thứ tự ưu tiên của các mục đích đó. Các vị đại biểu Quốc hội có quân hàm tướng trong lực lượng công an thì cho rằng, quyền im lặng sẽ ngăn trở việc phá án của lực lượng này. Họ cũng cho rằng, với điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng và dân trí của Việt Nam hiện nay chưa phù hợp với việc quy định im lặng. Một vị luật sư là đại biểu khi phản bác lại thì cho rằng: "Quyền không khai báo các nước làm hết, còn mình lại không làm là hạ thấp quyền của người dân Việt Nam”. Tôi nhận thấy các cuộc trao đổi như vậy không đề cập tới mục đích của quyền im lặng là gì và thứ tự ưu tiên nào trong các mục đích nên được áp dụng. Quyền của một người được tự bảo vệ đối với các hoạt động tố tụng hình sự chống lại mình là một quyền cơ bản mà có lẽ không có ai trong chúng ta nghi ngờ. Quyền đó được cụ thể hoá trong các quyền khác của người bị điều tra: quyền cung cấp bằng chứng để chứng minh sự vô tội của mình, quyền có luật sư và hỗ trợ về pháp lý, quyền khi ra toà được đề nghị thay đổi hội đồng xét xử khi thấy rằng hội đồng xét xử đó có định kiến sẵn với mình và quan trọng nhất là quyền im lặng. Tại sao quyền im lặng lại quan trọng? Trong quá trình điều tra có sự không tương xứng giữa cơ quan điều tra và người bị điều tra. Sự bất tương xứng này thể hiện ở nhân lực, phương tiện, các thông tin được thu thập, kiến thức chuyên môn, thậm chí là cả khả năng sử dụng bạo lực của mỗi bên. Các cán bộ điều tra có các phương tiện để thu thập bằng chứng, có quyền không cho người bị điều tra biết được các thông tin mà họ đã có, có kiến thức chuyên sâu về pháp lý hình sự và kỹ thuật thẩm vấn... Ngược lại, người bị điều tra, luôn yếu thế hơn cán bộ điều tra vì trong nhiều trường hợp, họ bị giam cách ly khỏi thế giới bên ngoài, không có các kiến thức pháp lý về hình sự, và không biết liệu các kỹ thuật dẫn dụ trong hỏi cung liệu có đúng pháp luật không.Ở giai đoạn đầu tiên tại Anh (nơi sinh ra quyền này), mục đích của quyền là nhằm ngăn chặn việc sử dụng tra tấn để cưỡng ép người bị điều tra khai báo để chống lại chính mình. Dù hiện nay nguy cơ bị tra tấn không còn hiện hữu nhiều ở các nước phương Tây thì quyền này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng như lúc ban đầu. Lý do là vì người điều tra có thể dùng nhiều kỹ thuật không công bằng để chứng minh tội của người bị điều tra. Ví dụ, việc trích dẫn một câu nói không đầy đủ, tách rời hoàn toàn khỏi ngữ cảnh nói có thể khiến câu bị trích có nghĩa ngược hoàn toàn với nguyên bản. Cách thức này đang được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống từ chính trị, ngoại giao, báo chí, đến mạng xã hội chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi điều tra hình sự. Người bị điều tra có thể chống lại việc đó bằng nhiều cách, tuy nhiên cách nào cũng đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng nhất định. Trong tất cả các cách để bảo vệ mình, im lặng tới khi có sự tham gia của luật sư là cách thức bảo vệ đơn giản nhất và có thể áp dụng cho mọi người, mọi tầng lớp dân trí, ở mọi nơi, với mọi cơ sở hạ tầng đang có. Do đó, theo quan điểm của tôi, càng ở các nước điều kiện hạ tầng và dân trí còn nhiều bất cập như Việt Nam thì quyền im lặng lại càng cần thiết vì nó là công cụ bảo vệ dễ được áp dụng nhất cho mọi người. Và thực tế đã chứng minh là quyền này được các quốc gia khác bắt đầu áp dụng từ thế kỷ 16 với điều kiện kinh tế và dân trí thấp hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều. Vấn đề thứ hai là thứ tự ưu tiên nào cho các mục đích mà chúng ta nhắm tới khi lập pháp về vấn đề này: bảo vệ người vô tội khỏi các oan sai hay tìm ra một người chịu trách nhiệm về tội ác đó. Chúng ta biết rằng một người phạm tội thì chỉ có một, nhưng những người bị tình nghi và điều tra sẽ rất nhiều. Sau khi điều tra hết những nghi can đó, chúng ta có 50% khả năng tìm ra một ai đó chịu trách nhiệm. Nhưng không có gì là chắc chắn rằng người chịu trách nhiệm đúng là người thực sự đã gây tội ác. Như vậy, số người vô tội cần được bảo vệ trong một vụ điều tra hình sự lớn hơn nhiều so với kẻ phạm tội phải bị bắt. Nếu như tôi có quyền, và nếu các đại biểu Quốc hội lắng nghe lời một cử tri, tôi sẽ đặt việc bảo vệ người vô tội khỏi các oan sai lên hàng đầu. Nói một cách khác, tôi ủng hộ việc áp dụng quyền im lặng cho những người bị điều tra vì quyền đó là công cụ đơn giản nhất mà bất kể một người nào, dù trình độ văn hoá hay địa vị xã hội ra sao, dù ở đâu và với phương tiện nghèo nàn đến mấy cũng áp dụng được. Vì sao lại như vậy? Vì tôi tin rằng số người tốt đông hơn rất nhiều những kẻ xấu và những người tốt, những người vô tội xứng đáng được luật pháp bảo vệ. Tất nhiên, quyền im lặng không bao giờ là tuyệt đối, người bị điều tra có quyền im lặng tới khi họ có được các công cụ bảo vệ khác mà pháp luật cung cấp hoặc tạo điều kiện cho họ. Thái Bảo Anh
Đại biểu Đỗ Văn Đương: “Thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”
Đó là phát biểu của Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương (Nguồn Dân trí). Nếu đây đúng là phát biểu của ông thì đó là “điều đáng buồn cho khoảng 90 triệu dân Việt Nam”. Cầu mong, có “sự nhầm” ở đây! Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương 1. Quyền im lặng Trích nguyên từ báo: “Quyền im lặng khi có luật sư, luật pháp và công ước quốc tế quy định như thế. Còn quyền im lặng không là không đúng. Quy định đó rất hay nhưng chưa thể áp dụng được ở Việt Nam. Trong thực tế có người bị bắt nhầm, bắt oan phải để cho họ đươc nói là họ bị oan để cơ quan xác minh kịp thời trả tự do”. Có lẽ, đại biểu Đương chưa hiểu rõ về ba chữ “Quyền im lặng”. Quyền im lặng ở đây phải được hiểu là “Quyền”, nghĩa là được sử dụng nó hoặc không (được im lặng hoặc được nói). Còn cách phát biểu của nghị Đương thì không phải là “Quyền” mà là “sự bắt buộc” (trong mọi trường hợp đều im lặng). Ảnh chụp trên Dân trí 2. Luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền Trích nguyên từ báo: “Không phải cơ quan điều tra ngại chuyện này, mà đây là chuyện kiểu như “vẽ đường cho hươu chạy” để bọn tội phạm lộng hành. Hơn nữa, thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền. Tôi nói là đúng như thế, vì thực tế những vụ việc Nguyễn Đức Kiên, Huyền Như… mà lại nói không có tội là rất một chiều”. Phải chăng nghị Đương đã quên hay chưa từng đọc điều 3 Luật luật sư 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012). Điều 3. Chức năng xã hội của luật sư Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Quốc hội đã ghi nhận hoạt động nghề nghiệp của luật sư và quy định vào Luật như thế, vậy mà nghị Đương “phủ công” của luật sư. Thật đáng buồn! Tôi chẳng dám bình luận gì thêm về vấn đề này (đơn giản vì tôi không phải là Luật sư). Xin nhường lại những bình luận, đánh giá… cho quý bạn đọc (trong đó có các Luật sư).
Pháp luật bảo vệ “quyền im lặng” của bị can, bị cáo tới đâu?
Dân gian có câu “im lặng là vàng”, tuy nhiên trong tố tụng hình sự im lặng không chỉ là vàng mà trở thành tính sống còn của sinh mạng con người. Thời gian qua, chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an (không khai, không “nhận tội”… nên bị kẻ mang danh công quyền đánh chết). Vậy quyền im lặng trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo được bảo vệ tới đâu? 1. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội Đoạn 2 điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Như vậy, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Song luật không đề cập rõ “bị can, bị cáo có quyền im lặng khi bị hỏi cung, đứng trước tòa … hay không? Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nếu bị can, bị cáo “im lặng” theo đúng nghĩa đen thì nhiều khả năng bị can, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ - “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Rõ ràng, quyền im lặng của bị can, bị cáo không được bảo vệ một cách tuyệt đối. 5 bị cáo từng là cán bộ công an phải ra tòa vì tội dùng nhục hình làm chết nghi can. 2. Nếu bị can, bị cáo im lặng tuyệt đối trong quá trình hỏi cung thì sao? Đoạn 3 điều 6, đoạn 1 và 2 điều 7 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: - Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình. - Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. - Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Như vậy, nếu bị can, bị cáo giữ im lặng tuyệt đối (điều tra viên hỏi – bị can, bị cáo im lặng không trả lời), điều tra viên cũng không có quyền dùng nhục hình với bị can, bị cáo. Song thực tế hoàn toàn khác, tất cả đều xuất phát từ hai yếu tố cơ bản: áp lực phải giải quyết nhanh vụ án và đạo đức điều tra viên bị phai mờ. 3. Giải pháp nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo? Muốn không để xảy ra những cái chết đau lòng từ việc ép cung, dùng nhục hình thì phải phá vỡ hai yếu tố cơ bản gây hại nêu trên. (i) Tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” Khoản 3 điều 23 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” – ý nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực tế khó lòng giải quyết được. Hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Như vậy, muốn không xảy ra trường hợp oan sai thì phải chấp nhận bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp nhất định. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 cần sửa đổi nội dung này để tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo. (ii) Không để cái xấu có môi trường tồn tại Pháp luật khó lòng thay đổi hay kiểm soát “đạo đức phai mờ của điều tra viên” nhưng pháp luật có thể không cho cái xấu sinh ra từ “đạo đức phai mờ” đó có môi trường tồn tại. Nghĩa là, pháp luật cần phải quy định những vấn đề sau: - Một là, đề cao hơn nữa quyền im lặng của bị can, bị cáo: + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tuyệt đối đúng theo nghĩa đen của từ “im lặng”; hoặc + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tương đối: bị can, bị cáo được quyền im lặng cho đến khi gặp luật sư riêng của mình; mọi lời khai không có chứng kiến của luật sư đều không có giá trị pháp lý trừ trường hợp bị can, bị cáo không cần luật sư. Điều này sẽ góp phần loại trừ tình trạng ép cung, dùng nhục hình để lấy lời khai giả. - Hai là, có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình hỏi cung: Có thể tạo cơ chế giám sát như sau: + Phương án lắp đặt camera tại các phòng hỏi cung được xem là hiệu quả nhất hiện nay. Song thực tế, để lắp đặt hệ thống camera trên toàn quốc thì kinh phí rất lớn nên khó lòng thực hiện ngay. + Có biên bản xác định tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo trước khi hỏi cung và sau khi hỏi cung; nếu trước khi hỏi cung không đủ sức khỏe hoặc có khả năng nếu hỏi cung xong thì bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thì không được hỏi cung cho đến khi bị cáo khỏe hẳn; nếu trước khi hỏi cung tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo là khỏe nhưng sau khi hỏi cung xong sức khỏe bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì người hỏi cung phải chịu trách nhiệm. Có như vậy, quyền im lặng của bị can, bị cáo mới được bảo vệ toàn diện từ pháp lý cho đến thực tiễn.
Khái quát về lịch sử quyền im lặng
Quyền im lặng trong thế kỉ XVI-XVIII Quyền im lặng thực chất là nguyên tắc suy đoán vô tội có nguồn gốc từ Luật La Mã cổ đại cách đây trên 15 thế kỷ, song đã gần như bị tê liệt trong các tòa án vô nhân suốt thời trung cổ và chỉ được phục hưng kể từ cuộc cách mạng tư sản ở Âu Châu.Thuật ngữ Latin nemo tenetur se ipsum accusare (‘no man is bound to accuse himself’) không ai tự buộc tội chính mình xuất phát từ thế kỉ 16 khi các công dân bất đồng chính kiến với chính quyền Vương Quốc Anh bị bắt và phải ra Tòa. Vì vậy, trong khoa học pháp lí đã tồn tại quan điểm cho rằng quyền im lặng có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, xuất phát từ nguyên tắc của người La Mã và được sử dụng trong lĩnh vực dân sự, thương mại khi ở đó người ta khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định. A khẳng định B nợ mình thì A phải chứng minh. Ở thời kì đó, chế định này nhiều khi đã bị lợi dụng để sử dụng như là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị hơn là quyền cho bất kì cá nhân nào bị buộc tội. Chế định này đảm bảo rằng chỉ khi có lí do hợp lí để nghi ngờ ai đó vi phạm pháp luật thì người đó mới có thể bị buộc trả lời những câu hỏi buộc tội. Tất cả những người bị bắt trước khi ra hầu tòa bị buộc phải thừa nhận tội trạng “Ex officio oath” và thề khai đúng sự thật, hầu hết các vụ việc xảy ra tại các Tòa án tôn giáo. Tòa án tôn giáo được thành lập ở Anh cuối thế kỉ 17, với nguyên tắc lời thề vinh dự trong xét xử đã hình thành một học thuyết “Tam tội bất kiến”-the cruel trilemma có nghĩa người bị bắt phải chọn một trong ba tội danh mình đã thực hiện, không có sự lựa chọn bào chữa khác. Trong vụ kiện này thẩm phán Edward Coke đã ra phán quyết Tòa án ủng hộ quyền im lặng không phải đưa ra lời thề nhận tội. Thật ra từ thời La Mã cổ có nhiều người khẳng định trách nhiệm chứng minh là thuộc về bên tố cáo chứ hoàn toàn không phải do bên phủ định. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng đến tố tụng dân sự sau này. Đây là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội sau này. Một chính khách người Anh John Lilburne đã đứng lên chống đối các thủ tục tuyên thệ buộc tội, người có biệt dạnh “Freeborn John”. Ông bị bắt sau khi xuất bản cuốn sách “An Impeachment of High Treason”, trong vụ kiện xét xử ông từ chối ra đưa ra lời thề nhận tội. Tòa án đã phán ông vô tội. Có quan điểm lại cho rằng nước Anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng. Ở Anh, xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng quyền lực giữa nhà nước và quyền công dân , ngay từ thế kỉ XVI đã tồn tại nguyên tắc về quyền im lặng: “không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kì hình thức hoặc toà án nào”, bị cáo mới có được quyền hữu hiệu để từ chối trả lời những buộc tội đối với mình. Có thể nói, những người bào chữa đã góp công lớn trong việc “khai sinh” ra đặc quyền chống lại sự tự buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên cuộc cách mạng về tố tụng mà kết quả của nó vẫn tồn tại trong hệ thống tư pháp ở Anh. Mặc dù không có căn cứ rõ rằng nhưng ngày nay, tại Vương quốc Anh và các nước thuộc dòng họ pháp luật Anh, quyền im lặng vẫn được gìn giữ. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhất bảo vệ người dân trước các hành động tuỳ tiện của nhà nước.
Khái quát về lịch sử quyền im lặng
Quyền im lặng trong thế kỉ XVI-XVIII Quyền im lặng thực chất là nguyên tắc suy đoán vô tội có nguồn gốc từ Luật La Mã cổ đại cách đây trên 15 thế kỷ, song đã gần như bị tê liệt trong các tòa án vô nhân suốt thời trung cổ và chỉ được phục hưng kể từ cuộc cách mạng tư sản ở Âu Châu.Thuật ngữ Latin nemo tenetur se ipsum accusare (‘no man is bound to accuse himself’) không ai tự buộc tội chính mình xuất phát từ thế kỉ 16 khi các công dân bất đồng chính kiến với chính quyền Vương Quốc Anh bị bắt và phải ra Tòa. Vì vậy, trong khoa học pháp lí đã tồn tại quan điểm cho rằng quyền im lặng có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, xuất phát từ nguyên tắc của người La Mã và được sử dụng trong lĩnh vực dân sự, thương mại khi ở đó người ta khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định. A khẳng định B nợ mình thì A phải chứng minh. Ở thời kì đó, chế định này nhiều khi đã bị lợi dụng để sử dụng như là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị hơn là quyền cho bất kì cá nhân nào bị buộc tội. Chế định này đảm bảo rằng chỉ khi có lí do hợp lí để nghi ngờ ai đó vi phạm pháp luật thì người đó mới có thể bị buộc trả lời những câu hỏi buộc tội. Tất cả những người bị bắt trước khi ra hầu tòa bị buộc phải thừa nhận tội trạng “Ex officio oath” và thề khai đúng sự thật, hầu hết các vụ việc xảy ra tại các Tòa án tôn giáo. Tòa án tôn giáo được thành lập ở Anh cuối thế kỉ 17, với nguyên tắc lời thề vinh dự trong xét xử đã hình thành một học thuyết “Tam tội bất kiến”-the cruel trilemma có nghĩa người bị bắt phải chọn một trong ba tội danh mình đã thực hiện, không có sự lựa chọn bào chữa khác. Trong vụ kiện này thẩm phán Edward Coke đã ra phán quyết Tòa án ủng hộ quyền im lặng không phải đưa ra lời thề nhận tội. Thật ra từ thời La Mã cổ có nhiều người khẳng định trách nhiệm chứng minh là thuộc về bên tố cáo chứ hoàn toàn không phải do bên phủ định. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng đến tố tụng dân sự sau này. Đây là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội sau này. Một chính khách người Anh John Lilburne đã đứng lên chống đối các thủ tục tuyên thệ buộc tội, người có biệt dạnh “Freeborn John”. Ông bị bắt sau khi xuất bản cuốn sách “An Impeachment of High Treason”, trong vụ kiện xét xử ông từ chối ra đưa ra lời thề nhận tội. Tòa án đã phán ông vô tội. Có quan điểm lại cho rằng nước Anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng. Ở Anh, xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng quyền lực giữa nhà nước và quyền công dân , ngay từ thế kỉ XVI đã tồn tại nguyên tắc về quyền im lặng: “không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kì hình thức hoặc toà án nào”, bị cáo mới có được quyền hữu hiệu để từ chối trả lời những buộc tội đối với mình. Có thể nói, những người bào chữa đã góp công lớn trong việc “khai sinh” ra đặc quyền chống lại sự tự buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên cuộc cách mạng về tố tụng mà kết quả của nó vẫn tồn tại trong hệ thống tư pháp ở Anh. Mặc dù không có căn cứ rõ rằng nhưng ngày nay, tại Vương quốc Anh và các nước thuộc dòng họ pháp luật Anh, quyền im lặng vẫn được gìn giữ. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhất bảo vệ người dân trước các hành động tuỳ tiện của nhà nước.
Trong luật tố tụng hình sự có quy định về “Quyền im lặng” của bị can, bị cáo + "Quyền im lặng" đối với bị cáo được quy định tại điểm, khoản 2, điều 61, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể: "h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;" Vậy các đương sự trong vụ việc dân sự có được phép xin không trả lời một số câu hỏi của HĐXX, Đại diện VKS, Luật sư…. Vì lý do riêng?
Quyền im lặng - Những vấn đề cần nắm...
Dạo gần đây nảy ra một vấn đề mà mình thấy mọi người vẫn còn khá thắc mắc, đó là việc sử dụng Quyền im lặng trong vụ án chạy thận làm 8 người chết - vụ án mà bác sĩ Hoàng Công Lương đang phải “chịu” trách nhiệm chính và anh đã dùng quyền im lặng trong một phiên xét xử của tòa án. Vậy Quyền im lặng được quy định tại đâu và để hiểu rõ bản chất của nó thế nào là hợp lý, mình sẽ điểm sơ một số nội dung sau đây. Nguồn gốc quyền im lặng Không có lịch sử rõ ràng đằng sau quyền im lặng. The nemo brocard Latin tenetur se ipsum accusare ('không có người đàn ông nào bị ràng buộc để buộc tội mình ") đã trở thành một lời kêu gọi cho bất đồng chính kiến tôn giáo và chính trị bị truy tố tại các tòa án thế kỷ 16 ở Anh. Sau các cuộc cách mạng vào cuối thế kỷ thứ 17, theo một số tài liệu lịch sử, quyền im lặng trở thành luật pháp như một phản ứng của người dân đến tòa án. Ở Vương quốc Anh và các nước trước đây là một phần của Đế chế Anh (như các quốc gia cộng đồng Anh, Hoa Kỳ và Cộng hòa Ireland) quyền im lặng đã vẫn gìn giữ trong truyền thống thông luật thừa kế từ nước Anh. Mặc dù ban đầu xa lạ với hệ thống tư pháp thẩm tra, quyền im lặng lan rộng khắp lục địa châu Âu. Đến những năm cuối thế kỷ 20, do sự phát triển luật pháp quốc tế mà sự phổ cập ngày càng tăng của một số biện pháp bảo vệ quyền im lặng. Ví dụ, quyền im lặng được ghi nhận trong các văn bản nhân quyền quốc tế quan trọng như Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị. Ở Việt Nam vào tháng 5 năm 2015, các dự thảo Bộ Luật Tố tụng hình sự cho phép người bị tạm giam, bị can, bị cáo... có quyền im lặng. Theo đó, quy định “quyền im lặng” của người bị bắt, người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo không phải là tạo thêm rào cản cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà ngược lại sẽ góp phần tích cực nâng cao nghiệp vụ điều tra, truy tố, xét xử của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán. Đồng thời cũng nâng cao vị trí, vai trò của luật sư, trợ giúp viên pháp lý bào chữa. => Như vậy Quyền im lặng có thể được xem là một bước tiến mới trong hệ thống tố tụng ở nước ta, tuy vậy quyền này chỉ được phổ biến với cộng đồng thông qua vụ Hoa Hậu Phương Nga trong vụ cô bị kiện chiếm đoạt 16.5 tỷ đồng của ông Cao Toàn Mỹ. Vậy quyền im lặng được hiểu thế nào? Nên sử dụng khi nào? Quyền im lặng là một quyền hợp pháp được công nhận, một cách rõ ràng hoặc theo quy ước, trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Đây là quyền của nghi phạm, của người bị kháng cáo, trong một vụ án có quyền im lặng, không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hay tự buộc mình có tội. Theo quyền này, một công dân được mặc định là vô tội cho đến khi các cơ quan pháp luật chứng minh được người đó có tội, luật pháp công nhận quyền này căn bản phán xử dựa trên chứng cứ. Quyền im lặng là một phương tiện quan trọng để hạn chế bức cung, nhục hình - nguyên nhân dẫn đến oan sai trong tố tụng hình sự. Đây được xem là điều không quá khó hiểu khi mà điều tra viên trong trường hợp dùng các cách thức không công bằng để chứng minh việc phạm tội của người bị điều tra. Tình trạng mớm cung hoặc thêm bớt vào lời khai không phải chưa từng xuất hiện trong các vụ án ở Việt Nam. Do đó việc im lặng tới khi có sự tham gia của luật sư là cách thức bảo vệ đơn giản nhất và có thể áp dụng cho mọi người Ví dụ, trong vụ Hoa hậu Phương Nga, việc các bằng chứng mà cô đưa ra trong quá trình khai báo với cơ quan điều tra bỗng biến thành “chứng cứ” chống lại cô, dẫn đến việc cô tuyên bố sử dụng quyền im lặng vì không còn tin vào VKS. Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã cụ thể hóa một số nguyên tắc cơ bản thực thi quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp 2013 như nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13), “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15), “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16), “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Tuy nhiên cũng có thể thấy rõ khái niệm về Quyền im lặng không được quy định cụ thể mà chỉ có nội dung chứa những ý chính nhắc về nó, cụ thể là quyền của người bị buộc tội tại các điều 59 đến 62 BLTTHS. Quyền này của người bị buộc tội (gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được thể hiện như sau: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử. Đây chính là tinh thần cốt lõi của “Quyền im lặng” được thể hiện trong BLTTHS 2015. Khi nào im lặng? Khi nào nên nói? Khi bị khởi tố vụ án/khởi tố bị can, trong trường hợp này, nghĩa là cá nhân người đó đang bị điều tra về một hành vi mà cơ quan điều tra cho rằng đó là “phạm tội”. Trong quá trình điều tra lại xảy ra sự không tương xứng giữa cơ quan điều tra và người bị điều tra. Điều này thể hiện ở nhân lực, phương tiện, các thông tin được thu thập, kiến thức chuyên môn. Các cán bộ điều tra có quyền không cho người bị điều tra biết được các thông tin mà họ đã có, có kiến thức chuyên sâu về kỹ thuật thẩm vấn… Ngược lại, người bị điều tra, luôn yếu thế hơn cán bộ điều tra vì trong nhiều trường hợp, họ bị giam cách ly khỏi thế giới bên ngoài, không biết các kỹ thuật dẫn dụ trong hỏi cung có đúng pháp luật không? Do đó, nếu gặp những câu hỏi mà bạn không biết và không chắc chắn điều mình nói là bất lợi hay có lợi lúc này, những câu hỏi kiểu mớm cung hoặc trong quá trình ấy cảm thấy không yên tâm vì bất kì câu trả lời nào cũng “nguy hiểm” thì hãy im lặng và yêu cầu Luật sư để bảo vệ và hướng dẫn mình cách tốt nhất để xử lý trong trường hợp đó. Kết: việc sử dụng quyền im lặng ở nước ta là một bước tiến tốt cho thấy tình hình dân trí đã có sự tiếp thu và thực hiện các kiến thức pháp luật. Tuy nhiên thời điểm này vẫn còn khá ít trường hợp sử dụng quyền trên trong quá trình xét xử, nhất là khi bối cảnh án oan vẫn còn thì mình nghĩ việc tuyên truyền về quyền này vẫn cần thiết và mạnh mẽ hơn nữa.
Hoa Hậu Trương Hồ Phương Nga "Không tin Viện kiểm sát" giữ "Quyền im lặng"
Ngày hôm nay, 22/06/2017 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa vụ án HH Trương Hồ Phương Nga về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản ra xét xử lần 2. Tại phiên tòa Bị cáo Trương Hồ Phương Nga đã sử dụng quyền im lặng, bị cáo Nga khẳng định không tin tưởng cơ quan điều tra nên không khai và bị cáo cũng nói nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền và bị cáo Nga không có nghĩa vụ phải chứng minh mình bị oan. Theo cáo trạng của Viện KSND TP.HCM Trương Hồ Phương Nga quen biết với ông Cao Toàn Mỹ (sinh năm 1977) qua mạng xã hội. Khoảng năm 2012 Nga nói với ông Mỹ rằng mình có khả năng kinh doanh bất động sản và có người quen bán nhà với giá rẻ, nói ông Mỹ đưa tiền để Nga mua giúp. Sau khi ông Mỹ đưa tiền nhưng Nga viện lý do mua bán không thành, giới thiệu căn khác nhưng rồi cũng không giao nhà. Sau khi nói mua bán đổi sang nhiều căn nhà khác và ông Mỹ vẫn tin tưởng chuyển thêm tiền, đến tháng 11-2013, Nga viết giấy xác nhận đã nhận 16,5 tỉ đồng của ông Mỹ để mua nhà. 30 ngày sau không thấy Nga liên lạc để làm thủ tục sang tên nhà, ông Mỹ đi tìm hiểu thì biết mình bị lừa. Đòi Nga trả tiền không được, ông Mỹ làm đơn tố cáo và Nga cùng Dung (bạn Nga) bị khởi tố, bắt giam. Trong phiên tòa sơ thẩm đầu tiên được mở ngày 21-9-2016, Phương Nga bất ngờ cho lời khai rằng giữa Nga và ông Mỹ có mối quan hệ tình cảm và số tiền 16,5 tỉ đồng trên là để thực hiện "hợp đồng tình cảm" giữa Nga và Mỹ trong 7 năm. Nga khai không lừa đảo ông Cao Toàn Mỹ. Về quyền im lặng của bị cáo, ở Việt Nam tuy chưa ghi nhận trực tiếp về quyền im lặng, nhưng quyền này được thể hiện gián tiếp ở nhiều điều luật của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 khi cho phép người bị bắt không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc nhận có tội. Cụ thể về quyền của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp tại các điểm e khoản 1 điều 58, điểm c khoản 2 điều 59, điểm d khoản 1 điều 60, điểm h khoản 2 điều 61. Theo đó, ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Khoản 3 Điều 309 cho phép tại phiên tòa, trong giai đoạn xét hỏi nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Điều 15 cũng quy định Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Các Hiến pháp Việt Nam xưa nay vốn đã ghi nhận quyền giả định vô tội và Hiến pháp hiện hành 2013 tiếp tục khẳng định: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" (khoản 1, Điều 31). Quyền này được thể hiện gián tiếp ở nhiều điều luật của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 khi cho phép người bị bắt không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc nhận có tội. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 với rất nhiều quy định có ảnh hưởng và tác động đến việc đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. Trong đó đáng chú ý là những quy định về “quyền im lặng” của bị can, bị cáo. Tuy nhiên quyền này không được ghi nhận trực tiếp mà gián tiếp thể hiện trong một số điều luật. Cụ thể như: Điểm e khoản 1 điều 58 quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền trình bày lời khau, trình bày ý kiến, không buộc đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận có tội. Như vậy có thể hiểu rằng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ khai báo, những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai bá cũng như không buộc mình phải nhận có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng. Khoản 3 Điều 309 cho phép tại phiên tòa, trong giai đoạn xét hỏi nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Điều 15 cũng quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh vô tội. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng quyền im lặng không loại trừ quyền khai báo của người bị buộc tội, do đó người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo có quyền khi báo sau khi được giải thích về quyền im lặng. Việc nhận tội của bị can, bị cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Im lặng trong giao kết hợp đồng luôn gây cho đôi bên sự bất tiện nhất định vì một bên luôn giữ thái độ "không ý kiến". Vậy, liệu im lặng có đồng nghĩa với đồng ý mà chúng ta vẫn hay thường nghĩ ? Thực ra, Bộ luật dân sự 2005 cũng đã dự liệu về sự "im lặng", theo đó, im lặng chỉ được hiểu là đồng ý khi mà các bên đã có thỏa thuận trước rằng: "nếu bên nào im lặng thì có nghĩa là đồng ý". Tuy nhiên, "lý thuyết là màu xám, chỉ có cây đời là mãi xanh tươi", trong cuộc sống, đã có rất nhiều hướng xử lý khác nhau từ tòa khi mà một bên thể hiện sự im lặng. Theo đó, im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận (đồng ý) nếu tồn tại yếu tố khác như: Thứ nhất, bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng, nhưng sau đó yêu cầu bên kia thực hiện hợp đồng. Thứ hai, bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng tiếp nhận việc thực hiện hợp đồng của bên kia và cũng tiến hành thực hiện hợp đồng từ phía mình. Thứ ba, bên giữ im lặng trong quá trình giao kết biết rõ việc thực hiện hợp đồng nhưng không có phản đối gì. Thứ tư, dựa vào lời khai của bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người giữ im lặng đã đồng ý hợp đồng. Trên đây là các yếu tố được rút ra từ thực tiễn xét xử về vấn đề im lặng. Như vậy, nếu im lặng mà có đi kèm với các yếu tố này thì "im lặng được xem là đồng ý".
Những ngày đầu tiên khi mới sang Mỹ học luật, trên đường đi bộ từ nhà tới trường, tôi nhận thấy là các ngôi nhà hầu hết không có hàng rào và các chấn song sắt kiên cố như tôi vẫn thấy ở Việt Nam. Vì biết nước Mỹ là một quốc gia có tỷ lệ tội phạm và số người ngồi tù thuộc nhóm đứng đầu thế giới, nên tôi thắc mắc nhưng không thể lý giải được điều đó. Tôi mang vấn đề này hỏi giáo sư của mình và được ông trả lời như sau: “Chúng tôi thừa nhận một sự thật là cái ác đã, đang và sẽ luôn song hành với cái thiện chừng nào nhân loại còn tồn tại. Chúng tôi biết là không có một giải pháp nào có thể giải quyết được mọi mục đích đặt ra. Do đó, khi soạn luật chúng tôi xem xét các mục đích rồi xác định thứ tự ưu tiên cho các mục đích đó. Đối với vấn đề tội phạm, ưu tiên của chúng tôi là làm cho những người dân yên tâm là họ được bảo vệ và nhờ đó các nguồn lực, thay vì được dùng để biến mỗi căn nhà thành một pháo đài thì sẽ được đầu tư cho lực lượng thực thi luật pháp. Nói cách khác, chúng tôi làm luật không vì một nhóm nhỏ người xấu mà vì đa số người tốt. Sự an tâm và phát triển của những người dân sẽ mang lại nguồn lực cho việc bảo vệ pháp luật. Cái anh nhìn thấy là kết quả của triết lý lập pháp đó”. Khi quan sát những trao đổi qua lại trên Quốc hội về quyền im lặng của những người là đối tượng của điều tra hình sự, tôi tự hỏi các đại biểu Quốc hội nghĩ thế nào về mục đích của quy định về quyền im lặng và thứ tự ưu tiên của các mục đích đó. Các vị đại biểu Quốc hội có quân hàm tướng trong lực lượng công an thì cho rằng, quyền im lặng sẽ ngăn trở việc phá án của lực lượng này. Họ cũng cho rằng, với điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng và dân trí của Việt Nam hiện nay chưa phù hợp với việc quy định im lặng. Một vị luật sư là đại biểu khi phản bác lại thì cho rằng: "Quyền không khai báo các nước làm hết, còn mình lại không làm là hạ thấp quyền của người dân Việt Nam”. Tôi nhận thấy các cuộc trao đổi như vậy không đề cập tới mục đích của quyền im lặng là gì và thứ tự ưu tiên nào trong các mục đích nên được áp dụng. Quyền của một người được tự bảo vệ đối với các hoạt động tố tụng hình sự chống lại mình là một quyền cơ bản mà có lẽ không có ai trong chúng ta nghi ngờ. Quyền đó được cụ thể hoá trong các quyền khác của người bị điều tra: quyền cung cấp bằng chứng để chứng minh sự vô tội của mình, quyền có luật sư và hỗ trợ về pháp lý, quyền khi ra toà được đề nghị thay đổi hội đồng xét xử khi thấy rằng hội đồng xét xử đó có định kiến sẵn với mình và quan trọng nhất là quyền im lặng. Tại sao quyền im lặng lại quan trọng? Trong quá trình điều tra có sự không tương xứng giữa cơ quan điều tra và người bị điều tra. Sự bất tương xứng này thể hiện ở nhân lực, phương tiện, các thông tin được thu thập, kiến thức chuyên môn, thậm chí là cả khả năng sử dụng bạo lực của mỗi bên. Các cán bộ điều tra có các phương tiện để thu thập bằng chứng, có quyền không cho người bị điều tra biết được các thông tin mà họ đã có, có kiến thức chuyên sâu về pháp lý hình sự và kỹ thuật thẩm vấn... Ngược lại, người bị điều tra, luôn yếu thế hơn cán bộ điều tra vì trong nhiều trường hợp, họ bị giam cách ly khỏi thế giới bên ngoài, không có các kiến thức pháp lý về hình sự, và không biết liệu các kỹ thuật dẫn dụ trong hỏi cung liệu có đúng pháp luật không.Ở giai đoạn đầu tiên tại Anh (nơi sinh ra quyền này), mục đích của quyền là nhằm ngăn chặn việc sử dụng tra tấn để cưỡng ép người bị điều tra khai báo để chống lại chính mình. Dù hiện nay nguy cơ bị tra tấn không còn hiện hữu nhiều ở các nước phương Tây thì quyền này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng như lúc ban đầu. Lý do là vì người điều tra có thể dùng nhiều kỹ thuật không công bằng để chứng minh tội của người bị điều tra. Ví dụ, việc trích dẫn một câu nói không đầy đủ, tách rời hoàn toàn khỏi ngữ cảnh nói có thể khiến câu bị trích có nghĩa ngược hoàn toàn với nguyên bản. Cách thức này đang được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống từ chính trị, ngoại giao, báo chí, đến mạng xã hội chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi điều tra hình sự. Người bị điều tra có thể chống lại việc đó bằng nhiều cách, tuy nhiên cách nào cũng đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng nhất định. Trong tất cả các cách để bảo vệ mình, im lặng tới khi có sự tham gia của luật sư là cách thức bảo vệ đơn giản nhất và có thể áp dụng cho mọi người, mọi tầng lớp dân trí, ở mọi nơi, với mọi cơ sở hạ tầng đang có. Do đó, theo quan điểm của tôi, càng ở các nước điều kiện hạ tầng và dân trí còn nhiều bất cập như Việt Nam thì quyền im lặng lại càng cần thiết vì nó là công cụ bảo vệ dễ được áp dụng nhất cho mọi người. Và thực tế đã chứng minh là quyền này được các quốc gia khác bắt đầu áp dụng từ thế kỷ 16 với điều kiện kinh tế và dân trí thấp hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều. Vấn đề thứ hai là thứ tự ưu tiên nào cho các mục đích mà chúng ta nhắm tới khi lập pháp về vấn đề này: bảo vệ người vô tội khỏi các oan sai hay tìm ra một người chịu trách nhiệm về tội ác đó. Chúng ta biết rằng một người phạm tội thì chỉ có một, nhưng những người bị tình nghi và điều tra sẽ rất nhiều. Sau khi điều tra hết những nghi can đó, chúng ta có 50% khả năng tìm ra một ai đó chịu trách nhiệm. Nhưng không có gì là chắc chắn rằng người chịu trách nhiệm đúng là người thực sự đã gây tội ác. Như vậy, số người vô tội cần được bảo vệ trong một vụ điều tra hình sự lớn hơn nhiều so với kẻ phạm tội phải bị bắt. Nếu như tôi có quyền, và nếu các đại biểu Quốc hội lắng nghe lời một cử tri, tôi sẽ đặt việc bảo vệ người vô tội khỏi các oan sai lên hàng đầu. Nói một cách khác, tôi ủng hộ việc áp dụng quyền im lặng cho những người bị điều tra vì quyền đó là công cụ đơn giản nhất mà bất kể một người nào, dù trình độ văn hoá hay địa vị xã hội ra sao, dù ở đâu và với phương tiện nghèo nàn đến mấy cũng áp dụng được. Vì sao lại như vậy? Vì tôi tin rằng số người tốt đông hơn rất nhiều những kẻ xấu và những người tốt, những người vô tội xứng đáng được luật pháp bảo vệ. Tất nhiên, quyền im lặng không bao giờ là tuyệt đối, người bị điều tra có quyền im lặng tới khi họ có được các công cụ bảo vệ khác mà pháp luật cung cấp hoặc tạo điều kiện cho họ. Thái Bảo Anh
Đại biểu Đỗ Văn Đương: “Thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”
Đó là phát biểu của Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương (Nguồn Dân trí). Nếu đây đúng là phát biểu của ông thì đó là “điều đáng buồn cho khoảng 90 triệu dân Việt Nam”. Cầu mong, có “sự nhầm” ở đây! Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương 1. Quyền im lặng Trích nguyên từ báo: “Quyền im lặng khi có luật sư, luật pháp và công ước quốc tế quy định như thế. Còn quyền im lặng không là không đúng. Quy định đó rất hay nhưng chưa thể áp dụng được ở Việt Nam. Trong thực tế có người bị bắt nhầm, bắt oan phải để cho họ đươc nói là họ bị oan để cơ quan xác minh kịp thời trả tự do”. Có lẽ, đại biểu Đương chưa hiểu rõ về ba chữ “Quyền im lặng”. Quyền im lặng ở đây phải được hiểu là “Quyền”, nghĩa là được sử dụng nó hoặc không (được im lặng hoặc được nói). Còn cách phát biểu của nghị Đương thì không phải là “Quyền” mà là “sự bắt buộc” (trong mọi trường hợp đều im lặng). Ảnh chụp trên Dân trí 2. Luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền Trích nguyên từ báo: “Không phải cơ quan điều tra ngại chuyện này, mà đây là chuyện kiểu như “vẽ đường cho hươu chạy” để bọn tội phạm lộng hành. Hơn nữa, thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền. Tôi nói là đúng như thế, vì thực tế những vụ việc Nguyễn Đức Kiên, Huyền Như… mà lại nói không có tội là rất một chiều”. Phải chăng nghị Đương đã quên hay chưa từng đọc điều 3 Luật luật sư 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012). Điều 3. Chức năng xã hội của luật sư Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Quốc hội đã ghi nhận hoạt động nghề nghiệp của luật sư và quy định vào Luật như thế, vậy mà nghị Đương “phủ công” của luật sư. Thật đáng buồn! Tôi chẳng dám bình luận gì thêm về vấn đề này (đơn giản vì tôi không phải là Luật sư). Xin nhường lại những bình luận, đánh giá… cho quý bạn đọc (trong đó có các Luật sư).
Pháp luật bảo vệ “quyền im lặng” của bị can, bị cáo tới đâu?
Dân gian có câu “im lặng là vàng”, tuy nhiên trong tố tụng hình sự im lặng không chỉ là vàng mà trở thành tính sống còn của sinh mạng con người. Thời gian qua, chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an (không khai, không “nhận tội”… nên bị kẻ mang danh công quyền đánh chết). Vậy quyền im lặng trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo được bảo vệ tới đâu? 1. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội Đoạn 2 điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Như vậy, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Song luật không đề cập rõ “bị can, bị cáo có quyền im lặng khi bị hỏi cung, đứng trước tòa … hay không? Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nếu bị can, bị cáo “im lặng” theo đúng nghĩa đen thì nhiều khả năng bị can, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ - “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Rõ ràng, quyền im lặng của bị can, bị cáo không được bảo vệ một cách tuyệt đối. 5 bị cáo từng là cán bộ công an phải ra tòa vì tội dùng nhục hình làm chết nghi can. 2. Nếu bị can, bị cáo im lặng tuyệt đối trong quá trình hỏi cung thì sao? Đoạn 3 điều 6, đoạn 1 và 2 điều 7 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: - Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình. - Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. - Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Như vậy, nếu bị can, bị cáo giữ im lặng tuyệt đối (điều tra viên hỏi – bị can, bị cáo im lặng không trả lời), điều tra viên cũng không có quyền dùng nhục hình với bị can, bị cáo. Song thực tế hoàn toàn khác, tất cả đều xuất phát từ hai yếu tố cơ bản: áp lực phải giải quyết nhanh vụ án và đạo đức điều tra viên bị phai mờ. 3. Giải pháp nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo? Muốn không để xảy ra những cái chết đau lòng từ việc ép cung, dùng nhục hình thì phải phá vỡ hai yếu tố cơ bản gây hại nêu trên. (i) Tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” Khoản 3 điều 23 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” – ý nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực tế khó lòng giải quyết được. Hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Như vậy, muốn không xảy ra trường hợp oan sai thì phải chấp nhận bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp nhất định. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 cần sửa đổi nội dung này để tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo. (ii) Không để cái xấu có môi trường tồn tại Pháp luật khó lòng thay đổi hay kiểm soát “đạo đức phai mờ của điều tra viên” nhưng pháp luật có thể không cho cái xấu sinh ra từ “đạo đức phai mờ” đó có môi trường tồn tại. Nghĩa là, pháp luật cần phải quy định những vấn đề sau: - Một là, đề cao hơn nữa quyền im lặng của bị can, bị cáo: + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tuyệt đối đúng theo nghĩa đen của từ “im lặng”; hoặc + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tương đối: bị can, bị cáo được quyền im lặng cho đến khi gặp luật sư riêng của mình; mọi lời khai không có chứng kiến của luật sư đều không có giá trị pháp lý trừ trường hợp bị can, bị cáo không cần luật sư. Điều này sẽ góp phần loại trừ tình trạng ép cung, dùng nhục hình để lấy lời khai giả. - Hai là, có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình hỏi cung: Có thể tạo cơ chế giám sát như sau: + Phương án lắp đặt camera tại các phòng hỏi cung được xem là hiệu quả nhất hiện nay. Song thực tế, để lắp đặt hệ thống camera trên toàn quốc thì kinh phí rất lớn nên khó lòng thực hiện ngay. + Có biên bản xác định tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo trước khi hỏi cung và sau khi hỏi cung; nếu trước khi hỏi cung không đủ sức khỏe hoặc có khả năng nếu hỏi cung xong thì bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thì không được hỏi cung cho đến khi bị cáo khỏe hẳn; nếu trước khi hỏi cung tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo là khỏe nhưng sau khi hỏi cung xong sức khỏe bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì người hỏi cung phải chịu trách nhiệm. Có như vậy, quyền im lặng của bị can, bị cáo mới được bảo vệ toàn diện từ pháp lý cho đến thực tiễn.