Quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện?
Quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền đại diện? Các loại đại diện? Và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Quy định về đại diện và căn cứ xác lập quyền đại diện? Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi là người được đại diện) để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Về căn cứ xác lập quyền đại diện, Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”. Các loại đại diện theo pháp luật dân sự? Đại diện theo pháp luật của cá nhân được quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung như sau: - Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. - Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 này. - Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: +) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; +) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; +) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. - Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015. Đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. - Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. - Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Điều 139 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của hành vi đại diện như sau: - Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. - Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện. - Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.
Con chưa 18 tuổi có được quyền tặng cho phần thừa kế cho mẹ hay không?
Theo khoản 3 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 thì người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại Điều 73 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì: "Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật." Như vậy do con chưa đủ 18 tuổi, nên mẹ là người đại diện theo pháp luật của các con bạn trừ trường hợp con đã có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phạm vi đại diện thì: 3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, trường hợp mẹ đã là người đại diện cho con thì không thể xác lập giao dịch tặng cho với chính mình được nên việc mẹ và con thực hiện tặng cho phần thừa kế là hoàn toàn không thể thực hiện được theo quy định của pháp luật.
Quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện?
Quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền đại diện? Các loại đại diện? Và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Quy định về đại diện và căn cứ xác lập quyền đại diện? Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi là người được đại diện) để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Về căn cứ xác lập quyền đại diện, Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”. Các loại đại diện theo pháp luật dân sự? Đại diện theo pháp luật của cá nhân được quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung như sau: - Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. - Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 này. - Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: +) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; +) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; +) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. - Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015. Đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. - Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. - Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Điều 139 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của hành vi đại diện như sau: - Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. - Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện. - Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.
Con chưa 18 tuổi có được quyền tặng cho phần thừa kế cho mẹ hay không?
Theo khoản 3 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 thì người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại Điều 73 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì: "Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật." Như vậy do con chưa đủ 18 tuổi, nên mẹ là người đại diện theo pháp luật của các con bạn trừ trường hợp con đã có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phạm vi đại diện thì: 3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, trường hợp mẹ đã là người đại diện cho con thì không thể xác lập giao dịch tặng cho với chính mình được nên việc mẹ và con thực hiện tặng cho phần thừa kế là hoàn toàn không thể thực hiện được theo quy định của pháp luật.