Người đã áp dụng biện pháp giáo dưỡng thì có xem là phạm tội lần đầu?
Người được xác định là phạm tội lần đầu được sẽ được Tòa án xem xét giảm án khi là lần đầu vi phạm. Tình tiết trên là dữ kiện quý giá cho việc tuyên mức án của người phạm tội. Vậy trường hợp trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì có được xem là phạm tội lần đầu? 1. Phạm tội lần đầu là gì? Cụ thể tại mục 4 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC có giải thích tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 được hiểu như sau: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Hiện nay, chưa có quy định chính thức về thuật ngữ phạm tội lần đầu nhưng từ dữ kiện trên có thể hiểu người phạm tội lần đầu là người chưa lần chưa phạm tội hoặc đã phạm tội nhưng không xem xét truy cứu trách nhiệm hoặc đã được xóa án tích. 2. Có bao nhiêu trường hợp được xác định là phạm tội lần đầu? Căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP quy định phạm tội được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Trước đó chưa phạm tội lần nào. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. - Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. 3. Người phạm tội lần đầu có phải đi tù? Tù có thời hạn hiện nay được quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được Tòa án áp dụng thực hiện như sau: - Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. - Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. - Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Ngoài ra, không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, nếu người phạm tội lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng thì được xem xét không áp dụng hình phạt tù. Trường hợp thiếu các điều kiện trên thì có thể áp dụng hình phạt tù. 4. Như thế nào được xem là phạm tội ít nghiêm trọng? Hiện hành theo Bộ luật Hình sự 2015 thì các tội được xem là tội phạm ít nghiêm trọng thì vẫn có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức thấp. Theo đó, người phạm tội ít nghiêm trọng sẽ bị phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc cao nhất là phạt tù đến 3 năm. Sau đây là ví dụ về tội phạm ít nghiêm trọng: - Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết hoặc loại bỏ con mới đẻ. - Điều 126 khoản 1 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn khả năng tự vệ hoặc vượt mức cần thiết khi truy bắt người phạm tội. - Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội hành hạ người khác và nhiều tội danh khác nhưng đều chỉ có mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là đến hai năm tù (theo quy định là dưới ba năm tù). Như vậy, người bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng do đã vi phạm trước đó mà lần tiếp theo vẫn phạm tội thì sẽ được xác định là phạm tội lần đầu nếu là phạm tội ít nghiêm trọng, vô ý phạm tội và có nơi cư trú rõ ràng.
Hiểu thế nào là phạm tội lần đầu
Theo giải đáp tại mục 4 phần I Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao ngày 7/4/2017, phạm tội lần đầu được định nghĩa như sau “phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”. Công văn 01/2017 ban hành tại thời điểm BLHS 1999 đang có hiệu lực, giải thích những trường hợp người phạm tội được xem là đã xoá án tích quy định tại bộ luật này mà tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được xem là phạm tội lần đầu. Ngày 24/4/2018, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP. Tại khoản 2 điều 2 của Nghị quyết này quy định: “Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”. Theo quy định của BLHS 2015, người được xoá án tích coi như chưa bị kết án (khoản 1 điều 69). Chỉ có hai trường hợp được coi là “không có án tích” theo quy định của BLHS. Thứ nhất là người đương nhiên được xoá án tích và có yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp thì được xác nhận là không có án tích (khoản 4 điều 70). Thứ hai là người dưới 18 tuổi bị kết án thuộc một số trường hợp quy định tại khoản 1 điều 107. Như vậy đã có sự khác nhau trong định nghĩa “phạm tội lần đầu” ở Công văn giải đáp và Nghị quyết của TANDTC, quy định ở Nghị quyết 01/2018 nhìn chung có lợi hơn cho người phạm tội hơn so với giải thích ở Công văn. Có hai quan điểm chính trong vấn đề này như sau: - Vì Nghị quyết 01/2018 có phạm vi áp dụng đối với các trường hợp tha tù trước thời hạn; còn Công văn 01/2017 giải đáp cụ thể về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đồng thời quy định về tình tiết giảm nhẹ này tại BLHS 1999 và BLHS hiện hành không thay đổi. Vậy nên đề nghị áp dụng quan điểm giải thích về “phạm tội lần đầu” theo Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC. - Về giá trị pháp lý, Nghị quyết của HĐTP TANDTC là văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong khi đó Công văn giải đáp chỉ mang tính tham khảo, hướng dẫn, không có tính bắt buộc. Đồng thời theo chính sách hình sự nước ta, khi có sự xung đột về pháp luật cần áp dụng quy định có lợi hơn cho người phạm tội. Vì vậy cần áp dụng quy định tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP để giải thích khái niệm “phạm tội lần đầu”.
Người đã áp dụng biện pháp giáo dưỡng thì có xem là phạm tội lần đầu?
Người được xác định là phạm tội lần đầu được sẽ được Tòa án xem xét giảm án khi là lần đầu vi phạm. Tình tiết trên là dữ kiện quý giá cho việc tuyên mức án của người phạm tội. Vậy trường hợp trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì có được xem là phạm tội lần đầu? 1. Phạm tội lần đầu là gì? Cụ thể tại mục 4 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC có giải thích tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 được hiểu như sau: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Hiện nay, chưa có quy định chính thức về thuật ngữ phạm tội lần đầu nhưng từ dữ kiện trên có thể hiểu người phạm tội lần đầu là người chưa lần chưa phạm tội hoặc đã phạm tội nhưng không xem xét truy cứu trách nhiệm hoặc đã được xóa án tích. 2. Có bao nhiêu trường hợp được xác định là phạm tội lần đầu? Căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP quy định phạm tội được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Trước đó chưa phạm tội lần nào. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. - Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. 3. Người phạm tội lần đầu có phải đi tù? Tù có thời hạn hiện nay được quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được Tòa án áp dụng thực hiện như sau: - Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. - Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. - Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Ngoài ra, không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, nếu người phạm tội lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng thì được xem xét không áp dụng hình phạt tù. Trường hợp thiếu các điều kiện trên thì có thể áp dụng hình phạt tù. 4. Như thế nào được xem là phạm tội ít nghiêm trọng? Hiện hành theo Bộ luật Hình sự 2015 thì các tội được xem là tội phạm ít nghiêm trọng thì vẫn có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức thấp. Theo đó, người phạm tội ít nghiêm trọng sẽ bị phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc cao nhất là phạt tù đến 3 năm. Sau đây là ví dụ về tội phạm ít nghiêm trọng: - Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết hoặc loại bỏ con mới đẻ. - Điều 126 khoản 1 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn khả năng tự vệ hoặc vượt mức cần thiết khi truy bắt người phạm tội. - Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội hành hạ người khác và nhiều tội danh khác nhưng đều chỉ có mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là đến hai năm tù (theo quy định là dưới ba năm tù). Như vậy, người bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng do đã vi phạm trước đó mà lần tiếp theo vẫn phạm tội thì sẽ được xác định là phạm tội lần đầu nếu là phạm tội ít nghiêm trọng, vô ý phạm tội và có nơi cư trú rõ ràng.
Hiểu thế nào là phạm tội lần đầu
Theo giải đáp tại mục 4 phần I Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao ngày 7/4/2017, phạm tội lần đầu được định nghĩa như sau “phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”. Công văn 01/2017 ban hành tại thời điểm BLHS 1999 đang có hiệu lực, giải thích những trường hợp người phạm tội được xem là đã xoá án tích quy định tại bộ luật này mà tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được xem là phạm tội lần đầu. Ngày 24/4/2018, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP. Tại khoản 2 điều 2 của Nghị quyết này quy định: “Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”. Theo quy định của BLHS 2015, người được xoá án tích coi như chưa bị kết án (khoản 1 điều 69). Chỉ có hai trường hợp được coi là “không có án tích” theo quy định của BLHS. Thứ nhất là người đương nhiên được xoá án tích và có yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp thì được xác nhận là không có án tích (khoản 4 điều 70). Thứ hai là người dưới 18 tuổi bị kết án thuộc một số trường hợp quy định tại khoản 1 điều 107. Như vậy đã có sự khác nhau trong định nghĩa “phạm tội lần đầu” ở Công văn giải đáp và Nghị quyết của TANDTC, quy định ở Nghị quyết 01/2018 nhìn chung có lợi hơn cho người phạm tội hơn so với giải thích ở Công văn. Có hai quan điểm chính trong vấn đề này như sau: - Vì Nghị quyết 01/2018 có phạm vi áp dụng đối với các trường hợp tha tù trước thời hạn; còn Công văn 01/2017 giải đáp cụ thể về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đồng thời quy định về tình tiết giảm nhẹ này tại BLHS 1999 và BLHS hiện hành không thay đổi. Vậy nên đề nghị áp dụng quan điểm giải thích về “phạm tội lần đầu” theo Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC. - Về giá trị pháp lý, Nghị quyết của HĐTP TANDTC là văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong khi đó Công văn giải đáp chỉ mang tính tham khảo, hướng dẫn, không có tính bắt buộc. Đồng thời theo chính sách hình sự nước ta, khi có sự xung đột về pháp luật cần áp dụng quy định có lợi hơn cho người phạm tội. Vì vậy cần áp dụng quy định tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP để giải thích khái niệm “phạm tội lần đầu”.