Thống kê thiệt hại do Bão số 3 và mưa lũ tính đến hôm nay (12/9/2024)
Vừa qua Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã có Báo cáo nhanh công tác phòng, chống thiên tai ngày 11/9/2024. Trong đó, có thống kê thiệt hại do Bão số 3 và mưa lũ tính đến hôm nay (12/9/2024). Thống kê thiệt hại do Bão số 3 và mưa lũ tính đến hôm nay Theo Báo cáo nhanh công tác phòng, chống thiên tai ngày 11/9/2024 của Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) về tình hình thiệt hại như sau: Theo báo cáo của các địa phương, một số thiệt hại bước đầu thống kê đến 07h00 ngày 12/9/2024 như sau: - Về người: 325 người chết, mất tích (197 người chết, 128 người mất tích), tăng 124 người (Lào Cai 111, Yên Bái 04, Quảng Ninh 02, Bắc Giang 01, Sơn La 01, Phú Thọ 01, Thái Nguyên 02, Hoà Bình 02) so với báo cáo ngày 10/8. Trong đó: + Lào Cai: 177 người (82 người chết, 95 người mất tích), gồm: Bảo Yên 109, Sa Pa 09, Bát Xát 16, Si Ma Cai 07, Bắc Hà 34, Văn Bàn 02. + Cao Bằng: 52 người (34 người chết, 18 người mất tích). + Yên Bái: 44 người (42 người chết, 02 người mất tích), gồm: TP Yên Bái 21, Lục Yên: 14, Văn Yên 06, Văn Chấn 01, Trấn Yên 02. + Quảng Ninh: 15 người chết. + Hải Phòng: 02 người chết do bão. + Hải Dương: 01 người chết do bão. + Hà Nội: 01 người chết do bão. + Hòa Bình: 07 người chết do sạt lở đất. + Lạng Sơn: 03 người chết do lũ cuốn, sạt lở đất. + Bắc Giang: 02 người chết do lũ cuốn. + Tuyên Quang: 03 người do lũ (02 người chết, 01 người mất tích). + Hà Giang: 02 người (01 người chết; 01 người mất tích). + Lai Châu: 01 người chết do sạt lở đất. + Sơn La: 01 người mất tích do lũ cuốn. + Vĩnh phúc: 02 người (01 chết, 01 người mất tích do lật thuyền). + Phú Thọ: 10 người (08 người mất tích tại sự cố sập cầu Phong Châu; 01 người mất tích do lũ; 01 người chết do sạt lở đất). + Thái Nguyên: 02 người chết do lũ. - Người bị thương: 807 người, trong đó: Quảng Ninh 536, Hải Phòng 49, Hải Dương 05, Hà Nội 23, Bắc Giang 07, Bắc Ninh 52, Hà Giang 01, Lạng Sơn 10, Lào Cai 69, Yên Bái 23, Cao Bằng 17, Phú Thọ 05, Bắc Kạn 03, Hoà Bình 03, Vĩnh Phúc 02, Thanh Hoá 02. - Nhà hư hỏng: 130.268 nhà (tăng 28.924 nhà). Trong đó: Quảng Ninh 70.629, Hải Phòng 36.675, Bắc Ninh 3.472, Lạng Sơn 2.990, Bắc Giang 3.289, Yên Bái 1.378,...; nhiều cửa hàng, trụ sở, trường học bị tốc mái, hư hỏng; rất nhiều biển hiệu quảng cáo, cột viễn thông, trạm phát sóng di động bị gẫy đổ; cây xanh đô thị bị bật gốc, gẫy đổ la liệt trên các tuyến đường tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội,… - Nhà bị ngập: 57.857 nhà (tăng 17.732 nhà). Trong đó: (Nam Định 959; Hà Nội 6.521; Yên Bái 21.288; Lạng Sơn 6.614; Thanh Hóa 144; Lào Cai 2.930; Thái Nguyên 5.000; Bắc Kạn 342; Sơn La 296; Hà Giang 664; Tuyên Quang 10.489; Ninh Bình 2.604). - Về nông nghiệp: + 195.929 ha lúa bị ngập úng, thiệt hại (tăng 35.078ha). Trong đó Hải Phòng 23.870ha; Nam Định 30.271ha; Thái Bình 11.000ha; Hà Nội 27.318ha; Hưng Yên 2.012ha; Hải Dương 20.467ha; Hà Nam 7.928ha; Bắc Giang 18.779ha; Bắc Ninh 4.711ha; Lạng Sơn 5.220ha; Vĩnh Phúc 9.054ha; Thái Nguyên 7.332ha; Tuyên Quang 4.362ha,… + 35.010 ha hoa màu bị ngập úng, thiệt hại (tăng 4.310ha); tập trung tại Hải Phòng 2.500ha; Thái Bình 3.345ha; Hà Nội 4.046ha; Hải Dương 3.159ha; Bắc Giang 1.981ha; Hoà Bình 6.728ha; Phú Thọ 1.631ha; Lạng Sơn 1.849ha,... + 22.237 ha cây ăn quả bị hư hại (tập trung tại Hải Phòng 2.130ha; Thái Bình 1.385ha; Hà Nội 3.924ha; Hưng Yên 2.953ha; Hải Dương 3.163ha; Bắc Giang 6.669ha,…). + 1.791 lồng bè nuôi trồng thuỷ sản bị hư hỏng, cuốn trôi (tập trung Quảng Ninh 1.000, Hải Dương 300,...). + 2.502 con gia súc, 1.523.345 con gia cầm bị chết (tập trung ở Hải Dương 388.605, Hải Phòng 644.452 gia cầm; Thái Nguyên 292.696). - Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội bị mất điện, mất liên lạc trên diện rộng: 12 đoạn đường dây 500kV, 36 đường dây 220kV, 173 đường dây 110kV bị sự cố và 5.305 cột điện bị gãy đổ. Các địa phương đang tiếp tục rà soát, thống kê thiệt hại. Xem toàn văn Báo cáo nhanh công tác trực ban PCTT của Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai ngày 119/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/12/Bao-cao-nhanh-11-9-2024.doc Có các biện pháp nào để phòng chống lũ lụt? Theo khoản 1 Điều 26 Luật Phòng, chống thiên tai 2013 sửa đổi bởi điểm d khoản 4 Điều 54 Luật Phòng thủ dân sự 2023 quy định biện pháp cơ bản phòng chống lũ lụt như sau: Căn cứ vào loại thiên tai, cấp độ rủi ro thiên tai xảy ra, Ban chỉ đạo phòng thủ dân sự quốc gia; ban chỉ huy phòng thủ dân sự Bộ, cơ quan ngang Bộ; ban chỉ huy phòng thủ dân sự địa phương quyết định lựa chọn một hoặc một số biện pháp phù hợp sau đây: - Sơ tán người ra khỏi khu vực nguy hiểm, nơi không bảo đảm an toàn; tập trung triển khai biện pháp bảo đảm an toàn cho người, đặc biệt đối tượng dễ bị tổn thương trong tình huống thiên tai khẩn cấp; - Di chuyển tàu thuyền, phương tiện nuôi trồng thuỷ sản trên biển, ven biển, trên sông ra khỏi khu vực nguy hiểm; tổ chức kiểm đếm, hướng dẫn tàu thuyền neo đậu hoặc thực hiện biện pháp khác để bảo đảm an toàn; - Thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn đối với nhà cửa, công sở, bệnh viện, trường học, kho tàng, công trình và cơ sở kinh tế, an ninh, quốc phòng; - Chủ động thực hiện biện pháp bảo vệ sản xuất; - Kiểm tra, phát hiện và xử lý sự cố công trình phòng, chống thiên tai, công trình trọng điểm về kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng; - Giám sát, hướng dẫn và chủ động thực hiện việc hạn chế hoặc cấm người, phương tiện đi vào khu vực nguy hiểm trên sông, trên biển, khu vực và tuyến đường bị ngập sâu, khu vực có nguy cơ sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy và khu vực nguy hiểm khác; - Bảo đảm giao thông và thông tin liên lạc đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống thiên tai; - Thực hiện hoạt động tìm kiếm cứu nạn, cứu chữa người bị thương, hỗ trợ lương thực, thuốc chữa bệnh, nước uống và nhu yếu phẩm khác tại khu vực bị chia cắt, khu vực ngập lụt nghiêm trọng và địa điểm sơ tán; - Bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân tại khu vực xảy ra thiên tai; - Huy động khẩn cấp và tuân thủ quyết định chỉ đạo, huy động khẩn cấp về nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm để kịp thời ứng phó với thiên tai. Như vậy, đối với phòng chống lũ lụt thì sẽ có các biện pháp theo quy định trên. Khi xảy ra lũ lụt, người dân cần hết sức bình tĩnh ứng phó, tin tưởng và phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng. Ai có trách nhiệm cứu nạn khi xảy ra lũ lụt? Theo khoản 2 Điều 29 Luật Phòng, chống thiên tai 2013 được sửa đổi bởi điểm e khoản 4 Điều 54 Luật Phòng thủ dân sự 2023, trách nhiệm tìm kiếm cứu nạn được quy định như sau: - Tổ chức, cá nhân chủ động tìm kiếm cứu nạn và có trách nhiệm tham gia tìm kiếm cứu nạn theo sự huy động của cơ quan có thẩm quyền; - Ủy ban nhân dân, Ban chỉ huy phòng thủ dân sự địa phương các cấp có trách nhiệm chủ động triển khai hoạt động tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn; trường hợp vượt quá khả năng phải báo cáo, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp tỉnh, Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia hỗ trợ; - Các bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm chủ động triển khai hoạt động tìm kiếm cứu nạn thuộc phạm vi quản lý; trường hợp vượt quá khả năng phải báo cáo, đề nghị Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai hỗ trợ; - Các đơn vị chuyên trách, kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn tại một số bộ có trách nhiệm tổ chức thực hiện tìm kiếm cứu nạn theo sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia; - Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức phối hợp thực hiện công tác tìm kiếm cứu nạn trong phạm vi cả nước; chủ trì phối hợp với lực lượng hỗ trợ của quốc tế và khu vực trong tìm kiếm cứu nạn. Như vậy, mọi tổ chức, cá nhân đều có thể chủ động cứu nạn và sẽ có trách nhiệm cứu nạn theo sự huy động của cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra lũ lụt.
Phá hoại đê điều có phải là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ đê điều hay không?
Ở nước ta, đê điều là biện pháp kỹ thuật hàng đầu, nền tảng cho canh tác nông nghiệp và phòng, chống thiên tai. Tuy nhiên, nhiều tuyến đê được xây dựng từ lâu, hiện nay đã xuống cấp và ý thức chấp hành pháp luật về đê điều của một bộ phận người dân còn hạn chế. Nguyên tắc hoạt động trong lĩnh vực đê điều là gì? Căn cứ Điều 5 Luật đê điều 2006 sửa đổi, bổ sung bởi khoản 1 Điều 13 Luật sửa đổi các Luật có liên quan đến quy hoạch 2018 có quy định như sau: - Bảo đảm phát triển bền vững, quốc phòng, an ninh; bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, chủ quyền và lợi ích quốc gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội. - Bảo vệ đê điều là trách nhiệm của toàn dân, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. - Tuân thủ quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi, quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều đã được phê duyệt; bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, đồng bộ, khả năng thoát lũ trên toàn tuyến sông; kết hợp đồng bộ các giải pháp tổng thể về trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, xây dựng hồ chứa nước ở thượng lưu, thanh thải vật cản, nạo vét lòng sông, làm thông thoáng dòng chảy, phân lũ, làm chậm lũ. - Phòng, chống lũ hiệu quả, kết hợp với phát triển giao thông, bảo vệ cảnh quan môi trường, bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa của dân tộc, phát triển du lịch, nuôi trồng thủy sản. Theo đó, bảo vệ đê điều là trách nhiệm của toàn dân, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. Vậy nên khi hoạt động bảo vệ đê điều cần tuân thủ nguyên tắc nêu trên. Pháp luật quy định như thế nào về chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đê điều? Căn cứ Điều 6 Luật đê điều 2006 sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 13 Luật sửa đổi các Luật có liên quan đến quy hoạch 2018 có quy định như sau: - Đầu tư cho đê điều và ưu tiên đầu tư các tuyến đê xung yếu, các tuyến đê kết hợp quốc phòng, an ninh. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến kết hợp với các biện pháp truyền thống vào việc xây dựng, tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa, bảo vệ đê điều và hướng tới các giải pháp chủ động trong hoạt động quy hoạch. - Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng, tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa và bảo vệ đê điều kết hợp phát triển kinh tế - xã hội; bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. - Hỗ trợ khắc phục hậu quả của lũ, lụt, bão, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho vùng bị ảnh hưởng của việc phân lũ, làm chậm lũ, vùng dân cư sống chung với lũ; dành một khoản kinh phí cho việc xử lý đột xuất sự cố đê điều trước, trong và sau mỗi đợt mưa, lũ, bão. Theo đó, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu bảo vệ đê điều. Hỗ trợ khắc phục hậu quả của lũ, lụt, bão, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho vùng bị ảnh hưởng của việc phân lũ, làm chậm lũ, vùng dân cư sống chung với lũ. Phá hoại đê điều có phải là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ đê điều hay không? Căn cứ Điều 7 Luật đê điều 2006 sửa đổi, bổ sung bởi điểm a, b, c khoản 2 Điều 2 Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều sửa đổi 2020 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như sau: - Phá hoại đê điều. - Nổ, phá gây nguy hại đến thân đê, trừ trường hợp khẩn cấp được người có thẩm quyền quy định tại Điều 34 Luật đê điều 2006 quyết định nổ, phá nhằm phân lũ, làm chậm lũ để hộ đê. - Vận hành trái quy chuẩn kỹ thuật đối với công trình phân lũ, làm chậm lũ, cống qua đê, công trình tràn sự cố, cửa khẩu qua đê, trạm bơm, âu thuyền trong phạm vi bảo vệ đê điều. - Vận hành hồ chứa nước thượng lưu trái quy chuẩn kỹ thuật gây ảnh hưởng đến đê điều. - Xây dựng công trình, nhà ở trong phạm vi bảo vệ đê điều và phạm vi lòng sông không gồm bãi nổi hoặc cù lao, trừ công trình phục vụ phòng, chống lũ, lụt, bão, công trình phụ trợ và công trình đặc biệt. - Sử dụng xe cơ giới vượt quá tải trọng cho phép đi trên đê; sử dụng xe cơ giới đi trên đê khi có biển cấm trong trường hợp đê có sự cố hoặc có lũ, lụt, bão, trừ xe kiểm tra đê, xe hộ đê, xe làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, cứu thương, cứu hỏa. - Đổ chất thải trong phạm vi bảo vệ đê điều, ở bãi sông, lòng sông; để vật liệu trong phạm vi bảo vệ đê điều, trừ vật tư dự trữ phòng, chống lũ, lụt, bão. - Chiếm dụng, sử dụng hoặc di chuyển trái phép vật tư dự trữ phòng, chống lũ, lụt, bão. - Phá hoại cây chắn sóng bảo vệ đê, trừ trường hợp khai thác cây chắn sóng quy định tại khoản 2 Điều 29 Luật đê điều 2006. - Khai thác đất, đá, cát, sỏi, khoáng sản khác, đào ao, giếng trong phạm vi bảo vệ đê điều, các hoạt động khác gây cản trở dòng chảy và thoát lũ nhưng không có biện pháp xử lý, khắc phục. - Sử dụng sai mục đích ngân sách đầu tư cho xây dựng, tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa và bảo vệ đê điều. Như vậy, hành vi phá hoại đê điều được liệt kê trong các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động lĩnh vực đê điều. Từ những căn cứ nêu trên, có thể thấy hoạt động đê điều ở nước ta chưa được đảm bảo, ý thức của mỗi người dân trong việc bảo vệ đê điều còn kém dẫn đến nhiều hành vi vi phạm xảy ra.
Thống kê thiệt hại do Bão số 3 và mưa lũ tính đến hôm nay (12/9/2024)
Vừa qua Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã có Báo cáo nhanh công tác phòng, chống thiên tai ngày 11/9/2024. Trong đó, có thống kê thiệt hại do Bão số 3 và mưa lũ tính đến hôm nay (12/9/2024). Thống kê thiệt hại do Bão số 3 và mưa lũ tính đến hôm nay Theo Báo cáo nhanh công tác phòng, chống thiên tai ngày 11/9/2024 của Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) về tình hình thiệt hại như sau: Theo báo cáo của các địa phương, một số thiệt hại bước đầu thống kê đến 07h00 ngày 12/9/2024 như sau: - Về người: 325 người chết, mất tích (197 người chết, 128 người mất tích), tăng 124 người (Lào Cai 111, Yên Bái 04, Quảng Ninh 02, Bắc Giang 01, Sơn La 01, Phú Thọ 01, Thái Nguyên 02, Hoà Bình 02) so với báo cáo ngày 10/8. Trong đó: + Lào Cai: 177 người (82 người chết, 95 người mất tích), gồm: Bảo Yên 109, Sa Pa 09, Bát Xát 16, Si Ma Cai 07, Bắc Hà 34, Văn Bàn 02. + Cao Bằng: 52 người (34 người chết, 18 người mất tích). + Yên Bái: 44 người (42 người chết, 02 người mất tích), gồm: TP Yên Bái 21, Lục Yên: 14, Văn Yên 06, Văn Chấn 01, Trấn Yên 02. + Quảng Ninh: 15 người chết. + Hải Phòng: 02 người chết do bão. + Hải Dương: 01 người chết do bão. + Hà Nội: 01 người chết do bão. + Hòa Bình: 07 người chết do sạt lở đất. + Lạng Sơn: 03 người chết do lũ cuốn, sạt lở đất. + Bắc Giang: 02 người chết do lũ cuốn. + Tuyên Quang: 03 người do lũ (02 người chết, 01 người mất tích). + Hà Giang: 02 người (01 người chết; 01 người mất tích). + Lai Châu: 01 người chết do sạt lở đất. + Sơn La: 01 người mất tích do lũ cuốn. + Vĩnh phúc: 02 người (01 chết, 01 người mất tích do lật thuyền). + Phú Thọ: 10 người (08 người mất tích tại sự cố sập cầu Phong Châu; 01 người mất tích do lũ; 01 người chết do sạt lở đất). + Thái Nguyên: 02 người chết do lũ. - Người bị thương: 807 người, trong đó: Quảng Ninh 536, Hải Phòng 49, Hải Dương 05, Hà Nội 23, Bắc Giang 07, Bắc Ninh 52, Hà Giang 01, Lạng Sơn 10, Lào Cai 69, Yên Bái 23, Cao Bằng 17, Phú Thọ 05, Bắc Kạn 03, Hoà Bình 03, Vĩnh Phúc 02, Thanh Hoá 02. - Nhà hư hỏng: 130.268 nhà (tăng 28.924 nhà). Trong đó: Quảng Ninh 70.629, Hải Phòng 36.675, Bắc Ninh 3.472, Lạng Sơn 2.990, Bắc Giang 3.289, Yên Bái 1.378,...; nhiều cửa hàng, trụ sở, trường học bị tốc mái, hư hỏng; rất nhiều biển hiệu quảng cáo, cột viễn thông, trạm phát sóng di động bị gẫy đổ; cây xanh đô thị bị bật gốc, gẫy đổ la liệt trên các tuyến đường tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội,… - Nhà bị ngập: 57.857 nhà (tăng 17.732 nhà). Trong đó: (Nam Định 959; Hà Nội 6.521; Yên Bái 21.288; Lạng Sơn 6.614; Thanh Hóa 144; Lào Cai 2.930; Thái Nguyên 5.000; Bắc Kạn 342; Sơn La 296; Hà Giang 664; Tuyên Quang 10.489; Ninh Bình 2.604). - Về nông nghiệp: + 195.929 ha lúa bị ngập úng, thiệt hại (tăng 35.078ha). Trong đó Hải Phòng 23.870ha; Nam Định 30.271ha; Thái Bình 11.000ha; Hà Nội 27.318ha; Hưng Yên 2.012ha; Hải Dương 20.467ha; Hà Nam 7.928ha; Bắc Giang 18.779ha; Bắc Ninh 4.711ha; Lạng Sơn 5.220ha; Vĩnh Phúc 9.054ha; Thái Nguyên 7.332ha; Tuyên Quang 4.362ha,… + 35.010 ha hoa màu bị ngập úng, thiệt hại (tăng 4.310ha); tập trung tại Hải Phòng 2.500ha; Thái Bình 3.345ha; Hà Nội 4.046ha; Hải Dương 3.159ha; Bắc Giang 1.981ha; Hoà Bình 6.728ha; Phú Thọ 1.631ha; Lạng Sơn 1.849ha,... + 22.237 ha cây ăn quả bị hư hại (tập trung tại Hải Phòng 2.130ha; Thái Bình 1.385ha; Hà Nội 3.924ha; Hưng Yên 2.953ha; Hải Dương 3.163ha; Bắc Giang 6.669ha,…). + 1.791 lồng bè nuôi trồng thuỷ sản bị hư hỏng, cuốn trôi (tập trung Quảng Ninh 1.000, Hải Dương 300,...). + 2.502 con gia súc, 1.523.345 con gia cầm bị chết (tập trung ở Hải Dương 388.605, Hải Phòng 644.452 gia cầm; Thái Nguyên 292.696). - Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội bị mất điện, mất liên lạc trên diện rộng: 12 đoạn đường dây 500kV, 36 đường dây 220kV, 173 đường dây 110kV bị sự cố và 5.305 cột điện bị gãy đổ. Các địa phương đang tiếp tục rà soát, thống kê thiệt hại. Xem toàn văn Báo cáo nhanh công tác trực ban PCTT của Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai ngày 119/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/12/Bao-cao-nhanh-11-9-2024.doc Có các biện pháp nào để phòng chống lũ lụt? Theo khoản 1 Điều 26 Luật Phòng, chống thiên tai 2013 sửa đổi bởi điểm d khoản 4 Điều 54 Luật Phòng thủ dân sự 2023 quy định biện pháp cơ bản phòng chống lũ lụt như sau: Căn cứ vào loại thiên tai, cấp độ rủi ro thiên tai xảy ra, Ban chỉ đạo phòng thủ dân sự quốc gia; ban chỉ huy phòng thủ dân sự Bộ, cơ quan ngang Bộ; ban chỉ huy phòng thủ dân sự địa phương quyết định lựa chọn một hoặc một số biện pháp phù hợp sau đây: - Sơ tán người ra khỏi khu vực nguy hiểm, nơi không bảo đảm an toàn; tập trung triển khai biện pháp bảo đảm an toàn cho người, đặc biệt đối tượng dễ bị tổn thương trong tình huống thiên tai khẩn cấp; - Di chuyển tàu thuyền, phương tiện nuôi trồng thuỷ sản trên biển, ven biển, trên sông ra khỏi khu vực nguy hiểm; tổ chức kiểm đếm, hướng dẫn tàu thuyền neo đậu hoặc thực hiện biện pháp khác để bảo đảm an toàn; - Thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn đối với nhà cửa, công sở, bệnh viện, trường học, kho tàng, công trình và cơ sở kinh tế, an ninh, quốc phòng; - Chủ động thực hiện biện pháp bảo vệ sản xuất; - Kiểm tra, phát hiện và xử lý sự cố công trình phòng, chống thiên tai, công trình trọng điểm về kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng; - Giám sát, hướng dẫn và chủ động thực hiện việc hạn chế hoặc cấm người, phương tiện đi vào khu vực nguy hiểm trên sông, trên biển, khu vực và tuyến đường bị ngập sâu, khu vực có nguy cơ sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy và khu vực nguy hiểm khác; - Bảo đảm giao thông và thông tin liên lạc đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống thiên tai; - Thực hiện hoạt động tìm kiếm cứu nạn, cứu chữa người bị thương, hỗ trợ lương thực, thuốc chữa bệnh, nước uống và nhu yếu phẩm khác tại khu vực bị chia cắt, khu vực ngập lụt nghiêm trọng và địa điểm sơ tán; - Bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân tại khu vực xảy ra thiên tai; - Huy động khẩn cấp và tuân thủ quyết định chỉ đạo, huy động khẩn cấp về nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm để kịp thời ứng phó với thiên tai. Như vậy, đối với phòng chống lũ lụt thì sẽ có các biện pháp theo quy định trên. Khi xảy ra lũ lụt, người dân cần hết sức bình tĩnh ứng phó, tin tưởng và phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng. Ai có trách nhiệm cứu nạn khi xảy ra lũ lụt? Theo khoản 2 Điều 29 Luật Phòng, chống thiên tai 2013 được sửa đổi bởi điểm e khoản 4 Điều 54 Luật Phòng thủ dân sự 2023, trách nhiệm tìm kiếm cứu nạn được quy định như sau: - Tổ chức, cá nhân chủ động tìm kiếm cứu nạn và có trách nhiệm tham gia tìm kiếm cứu nạn theo sự huy động của cơ quan có thẩm quyền; - Ủy ban nhân dân, Ban chỉ huy phòng thủ dân sự địa phương các cấp có trách nhiệm chủ động triển khai hoạt động tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn; trường hợp vượt quá khả năng phải báo cáo, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp tỉnh, Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia hỗ trợ; - Các bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm chủ động triển khai hoạt động tìm kiếm cứu nạn thuộc phạm vi quản lý; trường hợp vượt quá khả năng phải báo cáo, đề nghị Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai hỗ trợ; - Các đơn vị chuyên trách, kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn tại một số bộ có trách nhiệm tổ chức thực hiện tìm kiếm cứu nạn theo sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia; - Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức phối hợp thực hiện công tác tìm kiếm cứu nạn trong phạm vi cả nước; chủ trì phối hợp với lực lượng hỗ trợ của quốc tế và khu vực trong tìm kiếm cứu nạn. Như vậy, mọi tổ chức, cá nhân đều có thể chủ động cứu nạn và sẽ có trách nhiệm cứu nạn theo sự huy động của cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra lũ lụt.
Phá hoại đê điều có phải là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ đê điều hay không?
Ở nước ta, đê điều là biện pháp kỹ thuật hàng đầu, nền tảng cho canh tác nông nghiệp và phòng, chống thiên tai. Tuy nhiên, nhiều tuyến đê được xây dựng từ lâu, hiện nay đã xuống cấp và ý thức chấp hành pháp luật về đê điều của một bộ phận người dân còn hạn chế. Nguyên tắc hoạt động trong lĩnh vực đê điều là gì? Căn cứ Điều 5 Luật đê điều 2006 sửa đổi, bổ sung bởi khoản 1 Điều 13 Luật sửa đổi các Luật có liên quan đến quy hoạch 2018 có quy định như sau: - Bảo đảm phát triển bền vững, quốc phòng, an ninh; bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, chủ quyền và lợi ích quốc gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội. - Bảo vệ đê điều là trách nhiệm của toàn dân, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. - Tuân thủ quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi, quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều đã được phê duyệt; bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, đồng bộ, khả năng thoát lũ trên toàn tuyến sông; kết hợp đồng bộ các giải pháp tổng thể về trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, xây dựng hồ chứa nước ở thượng lưu, thanh thải vật cản, nạo vét lòng sông, làm thông thoáng dòng chảy, phân lũ, làm chậm lũ. - Phòng, chống lũ hiệu quả, kết hợp với phát triển giao thông, bảo vệ cảnh quan môi trường, bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa của dân tộc, phát triển du lịch, nuôi trồng thủy sản. Theo đó, bảo vệ đê điều là trách nhiệm của toàn dân, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. Vậy nên khi hoạt động bảo vệ đê điều cần tuân thủ nguyên tắc nêu trên. Pháp luật quy định như thế nào về chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đê điều? Căn cứ Điều 6 Luật đê điều 2006 sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 13 Luật sửa đổi các Luật có liên quan đến quy hoạch 2018 có quy định như sau: - Đầu tư cho đê điều và ưu tiên đầu tư các tuyến đê xung yếu, các tuyến đê kết hợp quốc phòng, an ninh. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến kết hợp với các biện pháp truyền thống vào việc xây dựng, tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa, bảo vệ đê điều và hướng tới các giải pháp chủ động trong hoạt động quy hoạch. - Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng, tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa và bảo vệ đê điều kết hợp phát triển kinh tế - xã hội; bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. - Hỗ trợ khắc phục hậu quả của lũ, lụt, bão, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho vùng bị ảnh hưởng của việc phân lũ, làm chậm lũ, vùng dân cư sống chung với lũ; dành một khoản kinh phí cho việc xử lý đột xuất sự cố đê điều trước, trong và sau mỗi đợt mưa, lũ, bão. Theo đó, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu bảo vệ đê điều. Hỗ trợ khắc phục hậu quả của lũ, lụt, bão, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho vùng bị ảnh hưởng của việc phân lũ, làm chậm lũ, vùng dân cư sống chung với lũ. Phá hoại đê điều có phải là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ đê điều hay không? Căn cứ Điều 7 Luật đê điều 2006 sửa đổi, bổ sung bởi điểm a, b, c khoản 2 Điều 2 Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều sửa đổi 2020 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như sau: - Phá hoại đê điều. - Nổ, phá gây nguy hại đến thân đê, trừ trường hợp khẩn cấp được người có thẩm quyền quy định tại Điều 34 Luật đê điều 2006 quyết định nổ, phá nhằm phân lũ, làm chậm lũ để hộ đê. - Vận hành trái quy chuẩn kỹ thuật đối với công trình phân lũ, làm chậm lũ, cống qua đê, công trình tràn sự cố, cửa khẩu qua đê, trạm bơm, âu thuyền trong phạm vi bảo vệ đê điều. - Vận hành hồ chứa nước thượng lưu trái quy chuẩn kỹ thuật gây ảnh hưởng đến đê điều. - Xây dựng công trình, nhà ở trong phạm vi bảo vệ đê điều và phạm vi lòng sông không gồm bãi nổi hoặc cù lao, trừ công trình phục vụ phòng, chống lũ, lụt, bão, công trình phụ trợ và công trình đặc biệt. - Sử dụng xe cơ giới vượt quá tải trọng cho phép đi trên đê; sử dụng xe cơ giới đi trên đê khi có biển cấm trong trường hợp đê có sự cố hoặc có lũ, lụt, bão, trừ xe kiểm tra đê, xe hộ đê, xe làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, cứu thương, cứu hỏa. - Đổ chất thải trong phạm vi bảo vệ đê điều, ở bãi sông, lòng sông; để vật liệu trong phạm vi bảo vệ đê điều, trừ vật tư dự trữ phòng, chống lũ, lụt, bão. - Chiếm dụng, sử dụng hoặc di chuyển trái phép vật tư dự trữ phòng, chống lũ, lụt, bão. - Phá hoại cây chắn sóng bảo vệ đê, trừ trường hợp khai thác cây chắn sóng quy định tại khoản 2 Điều 29 Luật đê điều 2006. - Khai thác đất, đá, cát, sỏi, khoáng sản khác, đào ao, giếng trong phạm vi bảo vệ đê điều, các hoạt động khác gây cản trở dòng chảy và thoát lũ nhưng không có biện pháp xử lý, khắc phục. - Sử dụng sai mục đích ngân sách đầu tư cho xây dựng, tu bổ, nâng cấp, kiên cố hóa và bảo vệ đê điều. Như vậy, hành vi phá hoại đê điều được liệt kê trong các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động lĩnh vực đê điều. Từ những căn cứ nêu trên, có thể thấy hoạt động đê điều ở nước ta chưa được đảm bảo, ý thức của mỗi người dân trong việc bảo vệ đê điều còn kém dẫn đến nhiều hành vi vi phạm xảy ra.