Vợ chồng không ly hôn có được phân chia tài sản không? Mẫu văn bản phân chia tài sản chung 2024?
Vợ chồng không ly hôn có được phân chia tài sản chung không? Mẫu văn bản phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân năm 2024 như thế nào? Xác định tài sản chung của vợ chồng như thế nào? Bài viết sau sẽ giải đáp những thắc mắc nêu trên. (1) Vợ chồng không ly hôn có được phân chia tài sản chung không? Căn cứ theo Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau: - Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. - Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. - Trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp mà việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng bị tuyên vô hiệu được quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân gia đình 2014 như sau: - Việc phân chia tài sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. - Phân chia tài sản chung để trốn tránh các nghĩa vụ bao gồm: + Nuôi dưỡng, cấp dưỡng. + Bồi thường thiệt hại. + Thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản. + Trả nợ cho cá nhân, tổ chức. + Nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước. + Những nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ Luật Dân sự 2015 và quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, vợ chồng đang trong thời kỳ hôn nhân vẫn có thể thực hiện phân chia tài sản chung nếu không thuộc một số trường hợp loại trừ như đã nêu trên. (2) Mẫu văn bản phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2024 như thế nào? Năm 2024, trường hợp vợ chồng muốn phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể tham khảo, sử dụng mẫu sau đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/29/van-ban-thoa-thuan-chia-tai-san-chung-vo-chong.doc Mẫu văn bản phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (3) Tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được xác định như thế nào? Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được hướng dẫn bởi Nghị định 126/2014/NĐ-CP tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng được xác định như sau: - Tài sản chung bao gồm: + Tài sản do vợ, chồng tạo ra. + Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. + Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. - Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất và được sử dụng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Như vậy, tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng bao gồm những tài sản đã được liệt kê trên. Tổng kết lại, nếu không thuộc một trong những trường hợp bị tuyên vô hiệu thì vợ chồng đang trong thời kỳ hôn nhân được phép phân chia tài sản chung. Việc phân chia này buộc phải lập thành văn bản và công chứng theo quy định của pháp luật.
Một số lưu ý khi phân chia tài sản thuộc sở hữu chung
Thực tế không phải khi nào tài sản cũng thuộc sở hữu đơn lập của một chủ thể mà vẫn tồn tại nhiều trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều chủ thể khác nhau. Hiện nay, pháp luật dân sự phân định sở hữu chung gồm 02 loại: (1) Sở hữu chung theo phần: là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (2) Sở hữu chung hợp nhất: là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Trong đó, sở hữu chung hợp nhất bao gồm: + Sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và; + Sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Việc phân chia, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung luôn là một vấn đề khó khăn bởi thực tiễn nhiều tài sản không thể phân chia một cách dễ dàng do đặc tính vật lý của nó. Từ đó, phát sinh các tranh chấp liên quan đến việc chia tài sản thuộc sở hữu chung. Do vậy, khi tiến hành hành phân chia, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung thì cần lưu ý một số vấn đề sau đây: THỨ NHẤT: QUYỀN TỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC CHỦ SỞ HỮU CHUNG Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận là một trong những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự, vì vậy, các chủ sở hữu chung trước hết sẽ có quyền tự thỏa thuận với nhau về việc định đoạt tài sản miễn sao đảm bảo điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận đó là nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. THỨ HAI: QUYỀN ƯU TIÊN MUA KHI BÁN QUYỀN SỞ HỮU CHUNG THEO PHẦN Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua: + Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung. + Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. THỨ BA: PHƯƠNG THỨC PHÂN CHIA Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó. Có 02 hình thức phân chia: + Chia bằng hiện vật + Không chia bằng hiện vật: Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. Theo đó, thông thường trong các trường hợp này các bên sẽ tiến hành định giá tài sản và phân chia giá trị bằng tiền cho các bên. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. THỨ TƯ: TRƯỜNG HỢP TỪ BỎ QUYỀN SỞ HỮU + Tài sản là bất động sản: Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại. Bất động sản theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Bộ luật sân sự 2015 bao gồm: Đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Theo đó, bất động sản là một trong những tài sản đặc biệt thường mang giá trị lớn và có ảnh hưởng tới việc quy hoạch, quản lý đất đai của Nhà nước, do đó, khi một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ quyền của mình thì bất động sản đó sẽ thuộc về sở hữu của Nhà nước mà không phải là các chủ sở hữu chung còn lại (trừ bất động sản của cộng đồng). + Tài sản là động sản: Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại. + Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung: Trường hợp này sẽ áp dụng nguyên tắc về xác lập quyền sở hữu như đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu theo quy định tại Điều 228 Bộ luật dân sự.
Công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung hộ gia đình
Cho mình hỏi văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung hộ gia đình có chứng thực tại UBND cấp xã được không? Cơ sở pháp lý ạ?
Thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là việc cơ quan có thẩm quyền tổ chức, đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi chính đáng của người được thi hành án. Do vậy, thi hành án dân sự được xem là khâu cuối cùng, đánh dấu kết thúc một vụ việc dân sự đã trải qua quá trình tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý đến khi đưa vụ án ra giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành án. Khi đến giai đoạn thi hành án, tưởng như quyền lợi của người được thi hành án sẽ được đảm bảo bằng việc cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) tổ chức thi hành án là đã xong. >>> Thế nhưng, ở giai đoạn này người được thi hành án lại gặp tiếp rắc rối đó là người phải thi hành án có phát sinh tranh chấp trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng nên việc thi hành án phải bị tạm hoãn để chờ thực hiện thêm một công đoạn nữa là thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng làm cho việc thi hành án bị kéo dài, quyền lợi của người được thi hành án chưa được đáp ứng. Căn cứ pháp lý được áp dụng để thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự được quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự (THADS) năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS gọi tắt là (Nghị định số 62). Theo quy định tại Điều 74 Luật THADS thì điều luật chỉ quy định chung chung về việc phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác chứ không có quy định rõ ràng về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Để cụ thể hóa quy định này được áp dụng dễ dàng hơn thì tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62 đã hướng dẫn rõ hơn về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là: “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”. >>> Như vậy, theo hướng dẫn của Nghị định số 62 thì người có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng là Chấp hành viên và Tòa án nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về Chấp hành viên thực hiện. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên và có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, còn nếu vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên nhưng không có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì không làm phát sinh thủ tục giải quyết tại Tòa án cho nên cuối cùng cũng do Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Về căn cứ pháp lý quy định Chấp hành viên và Tòa án có quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự như đã nêu trên là vậy nhưng trong thực tiễn việc vận dụng quy định này có vướng mắc như sau: Thứ nhất, đối với Chấp hành viên, trong thực tế khi có phát sinh việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng thì hầu hết các vụ việc Chấp hành viên không tự mình thực hiện việc xác định, phân chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mà Chấp hành viên hướng dẫn vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án để giải quyết, nếu không có ai khởi kiện thì lúc này Chấp hành viên đứng đơn kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ, chồng. >>> Sở dĩ có sự bất cập này: là do đội ngũ Chấp hành viên hiện nay còn thiếu nhiều so với lượng công việc phát sinh. Mặt khác, một số Chấp hành viên có trình độ chuyên môn còn hạn chế. Trong khi việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng đòi hỏi phải tuân thủ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật có liên quan. Mà nhất là các quy định về chế độ tài sản chung, riêng của vợ, chồng đối với tài sản là bất động sản rất phức tạp, còn nhiều chồng chéo cho nên Chấp hành viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Vì vậy, việc phân chia tài sản bằng một phán quyết của Tòa án sẽ đảm bảo được tính chính xác và khách quan hơn nên Chấp hành viên chọn cách khởi kiện ra Tòa án là giải pháp hữu hiệu. Thứ hai, đối với quy định trường hợp vợ hoặc chồng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo hợp lệ nhưng đa phần đương sự không thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Bởi vì, tâm lý của họ là sợ tài sản của mình bị giảm xuống nên dây dưa, kéo dài thời gian, không muốn thi hành án. Tuy nhiên, do Luật quy định đương sự có quyền này nên Chấp hành viên cũng phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và chờ đến khi hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên mới thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Từ đó, đã làm cho vụ việc thi hành án lại kéo dài thêm. Thứ ba, Tòa án chỉ thực hiện quyền phân chia tài sản khi có vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án. Vậy khi có một bên vợ hoặc chồng khởi kiện thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ tranh chấp chia tài sản chung của vợ, chồng theo trình tự tố tụng dân sự và lúc này Tòa án xác định CQTHADS sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để trình bày những vấn đề có liên quan trong vụ kiện. Thế nhưng, do nhận thực về pháp luật của Tòa án và CQTHADS còn có quan điểm khác nhau nên việc Tòa án tuyên bản án chưa đảm bảo tính triệt để khi chia tài sản chung của vợ, chồng dẫn đến hiệu quả của bản án không cao. Đó là, CQTHADS ít khi tham gia phiên tòa mà thường xin vắng mặt, vì quan niệm rằng việc xét xử là do Tòa án thực hiện. Tòa án thì quan niệm rằng việc xét xử sẽ tuân theo trình tự tố tụng dân sự nên tôn trọng tuyệt đối quyền tự định đoạt, thỏa thuận của đương sự dẫn đến Tòa án phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Điều này, vô tình làm cho một bên vợ hoặc chồng là người phải thi hành án được chia tài sản ít hơn nghĩa vụ phải thi hành án hoặc thỏa thuận không chia một tài sản nào đó để có cơ hội tẩu tán tài sản. >>> Kết quả là bản án chia tài sản chưa triệt để, dẫn đến tài sản không đủ để đảm bảo thi hành án nên lại phải thực hiện tiếp việc khởi kiện để chia tiếp phần tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận không chia làm cho vụ việc kéo dài và rơi vào vòng luẩn quẩn. Để không xảy ra thực trạng nêu trên, theo tôi cần phải có nhận thức pháp luật một cách thấu đáo, đó là, CQTHADS phải tham gia tố tụng để trình bày tất cả những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ thi hành án của đương sự và các tài sản có liên quan. Đồng thời, yêu cầu Tòa án chia tài sản của vợ, chồng một cách triệt để nhằm đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án trước đó. Đối với Tòa án thì cũng cần phân chia tài sản chung của vợ, chồng một cách dứt điểm chứ không căn cứ vào sự tự thỏa thuận của đương sự. Vì bản chất sự việc trong vụ kiện này là chia tài sản chung để đảm bảo thi hành án nó hoàn toàn khác với một vụ kiện mới phát sinh thông thường. Từ bất cập, hạn chế như đã phân tích nêu trên, để giúp cho các cơ quan tư pháp địa phương có sự vận dụng pháp luật trong thực tiễn được thuận lợi, tôi có đề xuất cơ quan có thẩm quyền Trung ương hướng dẫn kịp thời như sau: 1. Cần xác định Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự. 2. Cơ quan thi hành án dân sự cần phải tham gia phiên tòa để trình bày ý kiến về nghĩa vụ thi hành án và cung cấp thông tin về tài sản của đương sự để Tòa án có thêm chứng cứ nhằm tuyên một bản án chính xác, có hiệu quả. Nguồn: Kiểm sát online
Phân chia tài sản chung trong hôn nhân
Luật sư thân mến! Hiện tại tôi có một vấn đề xin luật sư tư vấn như sau: Chị Tôi đã lập gia đình và có 3 người con gái, (một cháu bị bênh hiểm nghèo), chồng cũng là người bệnh không có khả năng tự lao động. Do vậy, chi tôi có vay nợ của một số người để lo cho gia đình, nhưng đến nay không có khả năng trả nợ, vì vậy chị tôi muốn lấy giấy tờ nhà (do 2 vợ chồng đứng tên cầm ngân hàng hoặc bán nhà để trả nợ). Nhưng đến thời điểm này gia đình bên Chồng đã cất dấu sổ đỏ căn nhà trên. Như vậy, xin luật sư tư vấn giúp như sau: - Về quy định của của Pháp luật về việc quy định về phân chia tài sản chung. - Trong trường hợp, nếu Chị tôi muốn lấy tài sản của mình thì phải làm sao? Liên hệ cơ quan pháp luật nào để được hỗ trợ và giải quyết? Xin cảm ơn!
Vợ chồng không ly hôn có được phân chia tài sản không? Mẫu văn bản phân chia tài sản chung 2024?
Vợ chồng không ly hôn có được phân chia tài sản chung không? Mẫu văn bản phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân năm 2024 như thế nào? Xác định tài sản chung của vợ chồng như thế nào? Bài viết sau sẽ giải đáp những thắc mắc nêu trên. (1) Vợ chồng không ly hôn có được phân chia tài sản chung không? Căn cứ theo Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau: - Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. - Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. - Trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp mà việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng bị tuyên vô hiệu được quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân gia đình 2014 như sau: - Việc phân chia tài sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. - Phân chia tài sản chung để trốn tránh các nghĩa vụ bao gồm: + Nuôi dưỡng, cấp dưỡng. + Bồi thường thiệt hại. + Thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản. + Trả nợ cho cá nhân, tổ chức. + Nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước. + Những nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ Luật Dân sự 2015 và quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, vợ chồng đang trong thời kỳ hôn nhân vẫn có thể thực hiện phân chia tài sản chung nếu không thuộc một số trường hợp loại trừ như đã nêu trên. (2) Mẫu văn bản phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2024 như thế nào? Năm 2024, trường hợp vợ chồng muốn phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể tham khảo, sử dụng mẫu sau đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/29/van-ban-thoa-thuan-chia-tai-san-chung-vo-chong.doc Mẫu văn bản phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (3) Tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được xác định như thế nào? Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được hướng dẫn bởi Nghị định 126/2014/NĐ-CP tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng được xác định như sau: - Tài sản chung bao gồm: + Tài sản do vợ, chồng tạo ra. + Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. + Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. - Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất và được sử dụng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Như vậy, tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng bao gồm những tài sản đã được liệt kê trên. Tổng kết lại, nếu không thuộc một trong những trường hợp bị tuyên vô hiệu thì vợ chồng đang trong thời kỳ hôn nhân được phép phân chia tài sản chung. Việc phân chia này buộc phải lập thành văn bản và công chứng theo quy định của pháp luật.
Một số lưu ý khi phân chia tài sản thuộc sở hữu chung
Thực tế không phải khi nào tài sản cũng thuộc sở hữu đơn lập của một chủ thể mà vẫn tồn tại nhiều trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều chủ thể khác nhau. Hiện nay, pháp luật dân sự phân định sở hữu chung gồm 02 loại: (1) Sở hữu chung theo phần: là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (2) Sở hữu chung hợp nhất: là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Trong đó, sở hữu chung hợp nhất bao gồm: + Sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và; + Sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Việc phân chia, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung luôn là một vấn đề khó khăn bởi thực tiễn nhiều tài sản không thể phân chia một cách dễ dàng do đặc tính vật lý của nó. Từ đó, phát sinh các tranh chấp liên quan đến việc chia tài sản thuộc sở hữu chung. Do vậy, khi tiến hành hành phân chia, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung thì cần lưu ý một số vấn đề sau đây: THỨ NHẤT: QUYỀN TỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC CHỦ SỞ HỮU CHUNG Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận là một trong những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự, vì vậy, các chủ sở hữu chung trước hết sẽ có quyền tự thỏa thuận với nhau về việc định đoạt tài sản miễn sao đảm bảo điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận đó là nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. THỨ HAI: QUYỀN ƯU TIÊN MUA KHI BÁN QUYỀN SỞ HỮU CHUNG THEO PHẦN Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua: + Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung. + Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. THỨ BA: PHƯƠNG THỨC PHÂN CHIA Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó. Có 02 hình thức phân chia: + Chia bằng hiện vật + Không chia bằng hiện vật: Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. Theo đó, thông thường trong các trường hợp này các bên sẽ tiến hành định giá tài sản và phân chia giá trị bằng tiền cho các bên. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. THỨ TƯ: TRƯỜNG HỢP TỪ BỎ QUYỀN SỞ HỮU + Tài sản là bất động sản: Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại. Bất động sản theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Bộ luật sân sự 2015 bao gồm: Đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Theo đó, bất động sản là một trong những tài sản đặc biệt thường mang giá trị lớn và có ảnh hưởng tới việc quy hoạch, quản lý đất đai của Nhà nước, do đó, khi một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ quyền của mình thì bất động sản đó sẽ thuộc về sở hữu của Nhà nước mà không phải là các chủ sở hữu chung còn lại (trừ bất động sản của cộng đồng). + Tài sản là động sản: Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại. + Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung: Trường hợp này sẽ áp dụng nguyên tắc về xác lập quyền sở hữu như đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu theo quy định tại Điều 228 Bộ luật dân sự.
Công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung hộ gia đình
Cho mình hỏi văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung hộ gia đình có chứng thực tại UBND cấp xã được không? Cơ sở pháp lý ạ?
Thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là việc cơ quan có thẩm quyền tổ chức, đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi chính đáng của người được thi hành án. Do vậy, thi hành án dân sự được xem là khâu cuối cùng, đánh dấu kết thúc một vụ việc dân sự đã trải qua quá trình tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý đến khi đưa vụ án ra giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành án. Khi đến giai đoạn thi hành án, tưởng như quyền lợi của người được thi hành án sẽ được đảm bảo bằng việc cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) tổ chức thi hành án là đã xong. >>> Thế nhưng, ở giai đoạn này người được thi hành án lại gặp tiếp rắc rối đó là người phải thi hành án có phát sinh tranh chấp trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng nên việc thi hành án phải bị tạm hoãn để chờ thực hiện thêm một công đoạn nữa là thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng làm cho việc thi hành án bị kéo dài, quyền lợi của người được thi hành án chưa được đáp ứng. Căn cứ pháp lý được áp dụng để thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự được quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự (THADS) năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS gọi tắt là (Nghị định số 62). Theo quy định tại Điều 74 Luật THADS thì điều luật chỉ quy định chung chung về việc phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác chứ không có quy định rõ ràng về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Để cụ thể hóa quy định này được áp dụng dễ dàng hơn thì tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62 đã hướng dẫn rõ hơn về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là: “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”. >>> Như vậy, theo hướng dẫn của Nghị định số 62 thì người có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng là Chấp hành viên và Tòa án nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về Chấp hành viên thực hiện. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên và có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, còn nếu vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên nhưng không có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì không làm phát sinh thủ tục giải quyết tại Tòa án cho nên cuối cùng cũng do Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Về căn cứ pháp lý quy định Chấp hành viên và Tòa án có quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự như đã nêu trên là vậy nhưng trong thực tiễn việc vận dụng quy định này có vướng mắc như sau: Thứ nhất, đối với Chấp hành viên, trong thực tế khi có phát sinh việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng thì hầu hết các vụ việc Chấp hành viên không tự mình thực hiện việc xác định, phân chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mà Chấp hành viên hướng dẫn vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án để giải quyết, nếu không có ai khởi kiện thì lúc này Chấp hành viên đứng đơn kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ, chồng. >>> Sở dĩ có sự bất cập này: là do đội ngũ Chấp hành viên hiện nay còn thiếu nhiều so với lượng công việc phát sinh. Mặt khác, một số Chấp hành viên có trình độ chuyên môn còn hạn chế. Trong khi việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng đòi hỏi phải tuân thủ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật có liên quan. Mà nhất là các quy định về chế độ tài sản chung, riêng của vợ, chồng đối với tài sản là bất động sản rất phức tạp, còn nhiều chồng chéo cho nên Chấp hành viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Vì vậy, việc phân chia tài sản bằng một phán quyết của Tòa án sẽ đảm bảo được tính chính xác và khách quan hơn nên Chấp hành viên chọn cách khởi kiện ra Tòa án là giải pháp hữu hiệu. Thứ hai, đối với quy định trường hợp vợ hoặc chồng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo hợp lệ nhưng đa phần đương sự không thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Bởi vì, tâm lý của họ là sợ tài sản của mình bị giảm xuống nên dây dưa, kéo dài thời gian, không muốn thi hành án. Tuy nhiên, do Luật quy định đương sự có quyền này nên Chấp hành viên cũng phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và chờ đến khi hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên mới thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Từ đó, đã làm cho vụ việc thi hành án lại kéo dài thêm. Thứ ba, Tòa án chỉ thực hiện quyền phân chia tài sản khi có vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án. Vậy khi có một bên vợ hoặc chồng khởi kiện thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ tranh chấp chia tài sản chung của vợ, chồng theo trình tự tố tụng dân sự và lúc này Tòa án xác định CQTHADS sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để trình bày những vấn đề có liên quan trong vụ kiện. Thế nhưng, do nhận thực về pháp luật của Tòa án và CQTHADS còn có quan điểm khác nhau nên việc Tòa án tuyên bản án chưa đảm bảo tính triệt để khi chia tài sản chung của vợ, chồng dẫn đến hiệu quả của bản án không cao. Đó là, CQTHADS ít khi tham gia phiên tòa mà thường xin vắng mặt, vì quan niệm rằng việc xét xử là do Tòa án thực hiện. Tòa án thì quan niệm rằng việc xét xử sẽ tuân theo trình tự tố tụng dân sự nên tôn trọng tuyệt đối quyền tự định đoạt, thỏa thuận của đương sự dẫn đến Tòa án phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Điều này, vô tình làm cho một bên vợ hoặc chồng là người phải thi hành án được chia tài sản ít hơn nghĩa vụ phải thi hành án hoặc thỏa thuận không chia một tài sản nào đó để có cơ hội tẩu tán tài sản. >>> Kết quả là bản án chia tài sản chưa triệt để, dẫn đến tài sản không đủ để đảm bảo thi hành án nên lại phải thực hiện tiếp việc khởi kiện để chia tiếp phần tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận không chia làm cho vụ việc kéo dài và rơi vào vòng luẩn quẩn. Để không xảy ra thực trạng nêu trên, theo tôi cần phải có nhận thức pháp luật một cách thấu đáo, đó là, CQTHADS phải tham gia tố tụng để trình bày tất cả những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ thi hành án của đương sự và các tài sản có liên quan. Đồng thời, yêu cầu Tòa án chia tài sản của vợ, chồng một cách triệt để nhằm đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án trước đó. Đối với Tòa án thì cũng cần phân chia tài sản chung của vợ, chồng một cách dứt điểm chứ không căn cứ vào sự tự thỏa thuận của đương sự. Vì bản chất sự việc trong vụ kiện này là chia tài sản chung để đảm bảo thi hành án nó hoàn toàn khác với một vụ kiện mới phát sinh thông thường. Từ bất cập, hạn chế như đã phân tích nêu trên, để giúp cho các cơ quan tư pháp địa phương có sự vận dụng pháp luật trong thực tiễn được thuận lợi, tôi có đề xuất cơ quan có thẩm quyền Trung ương hướng dẫn kịp thời như sau: 1. Cần xác định Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự. 2. Cơ quan thi hành án dân sự cần phải tham gia phiên tòa để trình bày ý kiến về nghĩa vụ thi hành án và cung cấp thông tin về tài sản của đương sự để Tòa án có thêm chứng cứ nhằm tuyên một bản án chính xác, có hiệu quả. Nguồn: Kiểm sát online
Phân chia tài sản chung trong hôn nhân
Luật sư thân mến! Hiện tại tôi có một vấn đề xin luật sư tư vấn như sau: Chị Tôi đã lập gia đình và có 3 người con gái, (một cháu bị bênh hiểm nghèo), chồng cũng là người bệnh không có khả năng tự lao động. Do vậy, chi tôi có vay nợ của một số người để lo cho gia đình, nhưng đến nay không có khả năng trả nợ, vì vậy chị tôi muốn lấy giấy tờ nhà (do 2 vợ chồng đứng tên cầm ngân hàng hoặc bán nhà để trả nợ). Nhưng đến thời điểm này gia đình bên Chồng đã cất dấu sổ đỏ căn nhà trên. Như vậy, xin luật sư tư vấn giúp như sau: - Về quy định của của Pháp luật về việc quy định về phân chia tài sản chung. - Trong trường hợp, nếu Chị tôi muốn lấy tài sản của mình thì phải làm sao? Liên hệ cơ quan pháp luật nào để được hỗ trợ và giải quyết? Xin cảm ơn!