Dùng nhục hình với phạm nhân có thể bị tù chung thân
Dùng nhục hình là gì? Hành vi dùng nhục hình đối với phạm nhân bị xử lý như thế nào theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 và những đối tượng phạm tội này thường là ai? Nhục hình là gì? Dùng nhục hình được hiểu là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác gây tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác. Vì là dùng nhục hình đối với phạm nhân nên chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có thẩm quyền trong hoạt động như: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó chánh án Toà án; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, các cán bộ trong các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam (Ban giám thị, Quản giáo) mới có thể thực hiện được tội phạm này. Mức phạt đối với hành vi dùng nhục hình Mức hình phạt đối với tội này được chia thành ba khung, cụ thể như sau: Căn cứ theo Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào thì bị phạt tù theo khung 1 của tội này. Theo đó: Khung 1: Có mức hình phạt là phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02-07 năm: - Phạm tội 02 lần trở lên; - Đối với 02 người trở lên; - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; - Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; - Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%. Khung 3: Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07năm đến 12 năm: - Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; - Làm người bị nhục hình tự sát; Khung 4: Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12-20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài hình phạt tù thì hành vi phạm tội này còn bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình là tội phạm đã hoàn thành. Khi đó, sẽ dựa trên mức độ, tính chất của hành vi phạm tội mà áp dụng một trong các khung phạt trên. Ngoài ra, căn cứ vào Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang”. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định này. Theo đó, nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.“ – Trong giai đoạn điều tra, việc hỏi cung bị can phải được thực hiện theo đúng trình tự quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Căn cứ vào Khoản 5 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. – Hình phạt đối với hành vi nhục hình bức cung được quy định tại Điều 373 nói trên và Điều 374 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi điểm t Khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, như sau: Người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Mức phạt cao nhất của tội này có thể tù chung thân trong trường hợp: - Làm người bị bức cung chết; - Dẫn đến làm oan người vô tội; - Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Cũng theo Khoản 5 tại Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01- 05 năm.
Pháp luật bảo vệ “quyền im lặng” của bị can, bị cáo tới đâu?
Dân gian có câu “im lặng là vàng”, tuy nhiên trong tố tụng hình sự im lặng không chỉ là vàng mà trở thành tính sống còn của sinh mạng con người. Thời gian qua, chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an (không khai, không “nhận tội”… nên bị kẻ mang danh công quyền đánh chết). Vậy quyền im lặng trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo được bảo vệ tới đâu? 1. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội Đoạn 2 điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Như vậy, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Song luật không đề cập rõ “bị can, bị cáo có quyền im lặng khi bị hỏi cung, đứng trước tòa … hay không? Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nếu bị can, bị cáo “im lặng” theo đúng nghĩa đen thì nhiều khả năng bị can, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ - “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Rõ ràng, quyền im lặng của bị can, bị cáo không được bảo vệ một cách tuyệt đối. 5 bị cáo từng là cán bộ công an phải ra tòa vì tội dùng nhục hình làm chết nghi can. 2. Nếu bị can, bị cáo im lặng tuyệt đối trong quá trình hỏi cung thì sao? Đoạn 3 điều 6, đoạn 1 và 2 điều 7 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: - Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình. - Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. - Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Như vậy, nếu bị can, bị cáo giữ im lặng tuyệt đối (điều tra viên hỏi – bị can, bị cáo im lặng không trả lời), điều tra viên cũng không có quyền dùng nhục hình với bị can, bị cáo. Song thực tế hoàn toàn khác, tất cả đều xuất phát từ hai yếu tố cơ bản: áp lực phải giải quyết nhanh vụ án và đạo đức điều tra viên bị phai mờ. 3. Giải pháp nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo? Muốn không để xảy ra những cái chết đau lòng từ việc ép cung, dùng nhục hình thì phải phá vỡ hai yếu tố cơ bản gây hại nêu trên. (i) Tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” Khoản 3 điều 23 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” – ý nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực tế khó lòng giải quyết được. Hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Như vậy, muốn không xảy ra trường hợp oan sai thì phải chấp nhận bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp nhất định. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 cần sửa đổi nội dung này để tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo. (ii) Không để cái xấu có môi trường tồn tại Pháp luật khó lòng thay đổi hay kiểm soát “đạo đức phai mờ của điều tra viên” nhưng pháp luật có thể không cho cái xấu sinh ra từ “đạo đức phai mờ” đó có môi trường tồn tại. Nghĩa là, pháp luật cần phải quy định những vấn đề sau: - Một là, đề cao hơn nữa quyền im lặng của bị can, bị cáo: + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tuyệt đối đúng theo nghĩa đen của từ “im lặng”; hoặc + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tương đối: bị can, bị cáo được quyền im lặng cho đến khi gặp luật sư riêng của mình; mọi lời khai không có chứng kiến của luật sư đều không có giá trị pháp lý trừ trường hợp bị can, bị cáo không cần luật sư. Điều này sẽ góp phần loại trừ tình trạng ép cung, dùng nhục hình để lấy lời khai giả. - Hai là, có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình hỏi cung: Có thể tạo cơ chế giám sát như sau: + Phương án lắp đặt camera tại các phòng hỏi cung được xem là hiệu quả nhất hiện nay. Song thực tế, để lắp đặt hệ thống camera trên toàn quốc thì kinh phí rất lớn nên khó lòng thực hiện ngay. + Có biên bản xác định tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo trước khi hỏi cung và sau khi hỏi cung; nếu trước khi hỏi cung không đủ sức khỏe hoặc có khả năng nếu hỏi cung xong thì bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thì không được hỏi cung cho đến khi bị cáo khỏe hẳn; nếu trước khi hỏi cung tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo là khỏe nhưng sau khi hỏi cung xong sức khỏe bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì người hỏi cung phải chịu trách nhiệm. Có như vậy, quyền im lặng của bị can, bị cáo mới được bảo vệ toàn diện từ pháp lý cho đến thực tiễn.
Công an đánh chết người xử nhẹ hơn dân thường?
Nếu người thường giết người nhẹ thì xử phạt từ 7 – 15 năm tù giam nặng có thể tù chung thân hoặc tử hình. Trong khi đó, năm bị cáo nguyên là cán bộ công an TP. Tuy Hòa tỉnh Phú Yên đánh chết nghi can vậy mà phiên tòa sơ thẩm chỉ tuyên án với mức “tượng trưng”. Có ba bị cáo bị phạt tù giam gồm: 1. Nguyễn Thân Thảo Thành(nguyên thiếu úy, trinh sát của Công an TP Tuy Hòa): 5 năm tù giam. 2. Nguyễn Minh Quyền (nguyên thiếu tá, Đội phó Đội trinh sát Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội- PC45, Công an tỉnh Phú Yên): 2 năm tù. 3. Phạm Ngọc Mẫn (nguyên thượng úy, cán bộ Công an TP Tuy Hòa): 1 năm 6 tháng tù giam. Hai bị cáo được kết án tù nhưng cho hưởng án treo là: 4. Nguyễn Tấn Quang (nguyên thiếu tá, Đội phó Đội điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP Tuy Hòa): 1 năm 6 tháng tù, cho hưởng án treo. 5. Đỗ Như Huy (nguyên trung úy, cán bộ Công an TP Tuy Hòa): 1 năm tù, cho hưởng án treo. Thử hỏi: Có phải Công an đánh chết người xử nhẹ hơn dân thường hay không?
Dùng nhục hình với phạm nhân có thể bị tù chung thân
Dùng nhục hình là gì? Hành vi dùng nhục hình đối với phạm nhân bị xử lý như thế nào theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 và những đối tượng phạm tội này thường là ai? Nhục hình là gì? Dùng nhục hình được hiểu là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác gây tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác. Vì là dùng nhục hình đối với phạm nhân nên chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có thẩm quyền trong hoạt động như: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó chánh án Toà án; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, các cán bộ trong các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam (Ban giám thị, Quản giáo) mới có thể thực hiện được tội phạm này. Mức phạt đối với hành vi dùng nhục hình Mức hình phạt đối với tội này được chia thành ba khung, cụ thể như sau: Căn cứ theo Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào thì bị phạt tù theo khung 1 của tội này. Theo đó: Khung 1: Có mức hình phạt là phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02-07 năm: - Phạm tội 02 lần trở lên; - Đối với 02 người trở lên; - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; - Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; - Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%. Khung 3: Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07năm đến 12 năm: - Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; - Làm người bị nhục hình tự sát; Khung 4: Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12-20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài hình phạt tù thì hành vi phạm tội này còn bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình là tội phạm đã hoàn thành. Khi đó, sẽ dựa trên mức độ, tính chất của hành vi phạm tội mà áp dụng một trong các khung phạt trên. Ngoài ra, căn cứ vào Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang”. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định này. Theo đó, nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.“ – Trong giai đoạn điều tra, việc hỏi cung bị can phải được thực hiện theo đúng trình tự quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Căn cứ vào Khoản 5 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. – Hình phạt đối với hành vi nhục hình bức cung được quy định tại Điều 373 nói trên và Điều 374 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi điểm t Khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, như sau: Người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Mức phạt cao nhất của tội này có thể tù chung thân trong trường hợp: - Làm người bị bức cung chết; - Dẫn đến làm oan người vô tội; - Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Cũng theo Khoản 5 tại Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01- 05 năm.
Pháp luật bảo vệ “quyền im lặng” của bị can, bị cáo tới đâu?
Dân gian có câu “im lặng là vàng”, tuy nhiên trong tố tụng hình sự im lặng không chỉ là vàng mà trở thành tính sống còn của sinh mạng con người. Thời gian qua, chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an (không khai, không “nhận tội”… nên bị kẻ mang danh công quyền đánh chết). Vậy quyền im lặng trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo được bảo vệ tới đâu? 1. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội Đoạn 2 điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Như vậy, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Song luật không đề cập rõ “bị can, bị cáo có quyền im lặng khi bị hỏi cung, đứng trước tòa … hay không? Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nếu bị can, bị cáo “im lặng” theo đúng nghĩa đen thì nhiều khả năng bị can, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ - “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Rõ ràng, quyền im lặng của bị can, bị cáo không được bảo vệ một cách tuyệt đối. 5 bị cáo từng là cán bộ công an phải ra tòa vì tội dùng nhục hình làm chết nghi can. 2. Nếu bị can, bị cáo im lặng tuyệt đối trong quá trình hỏi cung thì sao? Đoạn 3 điều 6, đoạn 1 và 2 điều 7 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: - Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình. - Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. - Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Như vậy, nếu bị can, bị cáo giữ im lặng tuyệt đối (điều tra viên hỏi – bị can, bị cáo im lặng không trả lời), điều tra viên cũng không có quyền dùng nhục hình với bị can, bị cáo. Song thực tế hoàn toàn khác, tất cả đều xuất phát từ hai yếu tố cơ bản: áp lực phải giải quyết nhanh vụ án và đạo đức điều tra viên bị phai mờ. 3. Giải pháp nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo? Muốn không để xảy ra những cái chết đau lòng từ việc ép cung, dùng nhục hình thì phải phá vỡ hai yếu tố cơ bản gây hại nêu trên. (i) Tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” Khoản 3 điều 23 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” – ý nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực tế khó lòng giải quyết được. Hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Như vậy, muốn không xảy ra trường hợp oan sai thì phải chấp nhận bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp nhất định. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 cần sửa đổi nội dung này để tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo. (ii) Không để cái xấu có môi trường tồn tại Pháp luật khó lòng thay đổi hay kiểm soát “đạo đức phai mờ của điều tra viên” nhưng pháp luật có thể không cho cái xấu sinh ra từ “đạo đức phai mờ” đó có môi trường tồn tại. Nghĩa là, pháp luật cần phải quy định những vấn đề sau: - Một là, đề cao hơn nữa quyền im lặng của bị can, bị cáo: + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tuyệt đối đúng theo nghĩa đen của từ “im lặng”; hoặc + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tương đối: bị can, bị cáo được quyền im lặng cho đến khi gặp luật sư riêng của mình; mọi lời khai không có chứng kiến của luật sư đều không có giá trị pháp lý trừ trường hợp bị can, bị cáo không cần luật sư. Điều này sẽ góp phần loại trừ tình trạng ép cung, dùng nhục hình để lấy lời khai giả. - Hai là, có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình hỏi cung: Có thể tạo cơ chế giám sát như sau: + Phương án lắp đặt camera tại các phòng hỏi cung được xem là hiệu quả nhất hiện nay. Song thực tế, để lắp đặt hệ thống camera trên toàn quốc thì kinh phí rất lớn nên khó lòng thực hiện ngay. + Có biên bản xác định tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo trước khi hỏi cung và sau khi hỏi cung; nếu trước khi hỏi cung không đủ sức khỏe hoặc có khả năng nếu hỏi cung xong thì bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thì không được hỏi cung cho đến khi bị cáo khỏe hẳn; nếu trước khi hỏi cung tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo là khỏe nhưng sau khi hỏi cung xong sức khỏe bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì người hỏi cung phải chịu trách nhiệm. Có như vậy, quyền im lặng của bị can, bị cáo mới được bảo vệ toàn diện từ pháp lý cho đến thực tiễn.
Công an đánh chết người xử nhẹ hơn dân thường?
Nếu người thường giết người nhẹ thì xử phạt từ 7 – 15 năm tù giam nặng có thể tù chung thân hoặc tử hình. Trong khi đó, năm bị cáo nguyên là cán bộ công an TP. Tuy Hòa tỉnh Phú Yên đánh chết nghi can vậy mà phiên tòa sơ thẩm chỉ tuyên án với mức “tượng trưng”. Có ba bị cáo bị phạt tù giam gồm: 1. Nguyễn Thân Thảo Thành(nguyên thiếu úy, trinh sát của Công an TP Tuy Hòa): 5 năm tù giam. 2. Nguyễn Minh Quyền (nguyên thiếu tá, Đội phó Đội trinh sát Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội- PC45, Công an tỉnh Phú Yên): 2 năm tù. 3. Phạm Ngọc Mẫn (nguyên thượng úy, cán bộ Công an TP Tuy Hòa): 1 năm 6 tháng tù giam. Hai bị cáo được kết án tù nhưng cho hưởng án treo là: 4. Nguyễn Tấn Quang (nguyên thiếu tá, Đội phó Đội điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP Tuy Hòa): 1 năm 6 tháng tù, cho hưởng án treo. 5. Đỗ Như Huy (nguyên trung úy, cán bộ Công an TP Tuy Hòa): 1 năm tù, cho hưởng án treo. Thử hỏi: Có phải Công an đánh chết người xử nhẹ hơn dân thường hay không?