Bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, nhân lực, kinh phí hoạt động của CSDLQG quy định thế nào?
Cơ sở dữ liệu quốc gia là cơ sở dữ liệu của một hoặc một số lĩnh vực kinh tế - xã hội được xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng yêu cầu truy nhập và sử dụng thông tin của các ngành kinh tế và phục vụ lợi ích công cộng. 1. Bảo đảm hạ tầng kỹ thuật hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia Căn cứ Điều 14 Nghị định 47/2024/NĐ-CP về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia: - Trung tâm dữ liệu quốc gia do cơ quan nhà nước chủ trì xây dựng, quản lý, khai thác và vận hành để phục vụ cơ sở dữ liệu quốc gia; phục vụ cơ sở dữ liệu dùng chung khác theo quy định của pháp luật. Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia phù hợp với quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông; định hướng chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. - Trung tâm dữ liệu quốc gia đáp ứng yêu cầu tối thiểu hạng III theo Tiêu chuẩn quốc gia về Trung tâm dữ liệu - Yêu cầu hạ tầng kỹ thuật viễn thông và yêu cầu tối thiểu mức 3 theo tiêu chuẩn quốc tế phổ biến. Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành quy định về yêu cầu kỹ thuật và hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với Trung tâm dữ liệu quốc gia tại khoản 1 Điều này. - Trung tâm dữ liệu quốc gia cung cấp các loại dịch vụ sau: + Dịch vụ hạ tầng nhà trạm, chỗ đặt máy chủ, cung cấp không gian hạ tầng chỗ đặt, hệ thống điện, điều hòa và các thiết bị liên quan khác để triển khai hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia, cho phép chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ quan, tổ chức có nhu cầu chủ động sử dụng, kiểm soát hệ thống của mình, theo hình thức sử dụng không gian chung hoặc theo khu riêng, tuân thủ quy định về quản lý, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia; + Dịch vụ cung cấp máy chủ, thiết bị mạng, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng, bảo mật hoặc lưu trữ với cấu hình đa dạng, không gian chỗ đặt tương ứng tại các Trung tâm dữ liệu quốc gia, phù hợp với nhu cầu của chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ quan, tổ chức có nhu cầu; + Dịch vụ triển khai và vận hành hạ tầng kỹ thuật phục vụ cơ sở dữ liệu quốc gia và hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin khác. - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia lựa chọn sử dụng dịch vụ trung tâm dữ liệu cung cấp bởi Trung tâm dữ liệu quốc gia theo quy định tại khoản 3 Điều này, bảo đảm phù hợp với hiện trạng, yêu cầu nghiệp vụ, quy định về đầu tư dự án công nghệ thông tin sử dụng vốn ngân sách nhà nước. - Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, vận hành và khai thác Trung tâm dữ liệu quốc gia; quy định về các điều kiện bảo đảm nguồn lực phục vụ xây dựng, quản trị, vận hành, khai thác Trung tâm dữ liệu quốc gia. 2. Bảo đảm nhân lực hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia Căn cứ Điều 15 Nghị định 47/2024/NĐ-CP về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia: - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia có trách nhiệm bảo đảm nhân lực phục vụ quản lý, xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia. Trường hợp nhân lực tại chỗ không đáp ứng được, thì được thuê chuyên gia, tổ chức theo quy định của pháp luật. - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia được thuê chuyên gia từ ngân sách nhà nước hằng năm theo quy định của pháp luật để tư vấn xây dựng cơ sở dữ liệu; thực hiện các hoạt động chuyên môn kỹ thuật về quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia. 3. Bảo đảm kinh phí hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia Căn cứ Điều 16 Nghị định 47/2024/NĐ-CP về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia: - Kinh phí xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia thực hiện theo quy định pháp luật về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và kinh phí chi hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng kinh phí thường xuyên thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước và quy định pháp luật về các khoản thu hợp pháp khác. Kinh phí duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia gồm kinh phí duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia và kinh phí duy trì cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương là nguồn thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia. - Cơ quan quản lý, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia sử dụng kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu phí dịch vụ khai thác Trung tâm dữ liệu quốc gia theo quy định của Luật Phí và lệ phí và kinh phí khác theo quy định của pháp luật để phục vụ xây dựng, nâng cấp, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia và hạ tầng công nghệ thông tin dùng chung các cơ sở dữ liệu quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia. - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành sử dụng kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu phí dịch vụ khai thác cơ sở dữ liệu và lệ phí, kinh phí khác theo quy định của pháp luật để phục vụ xây dựng, cập nhật, quản lý và duy trì cơ sở dữ liệu, trừ kinh phí đã được cấp phục vụ hạ tầng công nghệ thông tin dùng chung tương ứng đã cấp tại khoản 2 Điều này. - Bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn thu hợp pháp khác để đầu tư xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia; phân bổ kinh phí thường xuyên bảo đảm hoạt động thu thập thông tin, cập nhật, duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và pháp luật về đầu tư công. Như vậy, việc bảo đảm hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia được quy định tại Chương IV Nghị định 47/2024/NĐ-CP bao gồm: bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm nhân lực, bảo đảm kinh phí.
TP.HCM trả ngay 100 triệu đồng cho nhân lực chất lượng cao ở 14 vị trí công tác
Các chuyên gia, nhà khoa học đáp ứng yêu cầu sẽ nhận ngay 100 triệu đồng để giúp TP.HCM nghiên cứu, tư vấn chiến lược phát triển các lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn. UBND TP.HCM vừa ban hành kế hoạch thu hút chuyên gia, nhà khoa học đối với 14 vị trí thuộc 4 đơn vị gồm Sở Kế hoạch – Đầu tư, Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao và Viện Khoa học và Công nghệ tính toán (thuộc Sở Khoa học – Công nghệ TP.HCM). Kế hoạch này nhằm thu hút nhân lực chất lượng cao trong nước, đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài tham gia nghiên cứu, tư vấn cho thành phố trong các lĩnh vực trọng điểm, chiến lược, mũi nhọn của TP.HCM. Cụ thể, Sở Kế hoạch – Đầu tư TP.HCM cần thu hút 1 nhân sự tư vấn quy hoạch và kế hoạch phát triển. Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao tuyển 3 vị trí gồm: Tư vấn thiết kế hệ thống thiết bị máy lên men nhanh, tư vấn chọn lựa giống và quy trình canh tác theo hướng công nghệ cao, tư vấn kiểm soát chất lượng nguồn nước trong nuôi trồng thủy sản. Ban Quản lý Khu Công nghệ cao cần 5 nhân sự về tư vấn xây dựng và phát triển trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ, tư vấn quản lý và vận hành hiệu quả nhà thiết kế, phát triển công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi cơ điện tự - MEMS, tư vấn xây dựng đề án nâng cấp Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao trở thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo. Viện Khoa học và Công nghệ tính toán thu hút 5 trưởng phòng thí nghiệm: Khoa học sự sống, hóa tính toán và vật liệu nano, công nghệ tính toán và ứng dụng, khoa học môi trường, hạ tầng thông tin và tính toán. Về chế độ đãi ngộ, các chuyên gia, nhà khoa học đáp ứng các yêu cầu sẽ được hỗ trợ ban đầu 100 triệu đồng, mức lương hàng tháng theo Quyết định 17/2019 và hưởng phụ cấp khuyến khích 1% kinh phí cho mỗi công trình nghiên cứu. Theo Quyết định 17/2019, chuyên gia và nhà khoa học được chi trả lương hằng tháng theo mức lương cơ sở nhân với hệ số của bảng lương chuyên gia cao cấp, đối với giáo sư, phó giáo sư được hưởng hệ số 9,4, các trường hợp còn lại hưởng hệ số 8,8. Về nhà ở, TP.HCM hỗ trợ nhà ở công vụ hoặc tiền thuê nhà không quá 7 triệu đồng/tháng và phương tiện đi lại tùy theo khả năng của cơ quan, đơn vị tuyển dụng. Theo Báo Thanh niên
Nhân lực trong kỷ nguyên số “không cần bằng cấp, làm được là được”
Không nặng bằng cấp, thước đo cho người lao động ở kỷ nguyên số là sự đánh giá của doanh nghiệp, các diễn giả tham thảo luận về vấn đề này đều chung nhận định như vậy. Những thách thức cơ bản của Việt Nam sẽ gia tăng trong kỷ nguyên số đối với vấn đề về nguồn nhân lực như thế nào? Để tìm kiếm nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, các học giả, Giáo sư, Tiến sĩ đã có những ý kiến, suy nghĩ và những phương pháp đi khác nhau, cụ thể là: Theo ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch Công ty FPT Sofware đề xuất một số phương pháp và hiện nay đang thực hiện: “Chúng tôi thử nghiệm học nhanh và ra đi làm. Cụ thể là, chúng tôi vẫn có đào tạo đại học nhưng đổi quy trình, làm sao các sinh viên học 2 năm là có thể ra đi làm. Chúng tôi khẳng định chương trình đào tạo hiện nay là sau 2 năm, các bạn sinh viên có thể đi làm được, tất nhiên sẽ kèm theo một loạt điều kiện khác. Sau khi đi làm, các em sẽ có cân nhắc giữa đi làm luôn và không tốt nghiệp đại học nữa, hoặc quay lại trường đại học để học thêm hai năm nữa để lấy bằng đại học. Ở đây quan điểm của các doanh nghiệp và tôi nghĩ kể cả các cơ quan nhà nước rất quan trọng là không cần bằng cấp. Bạn làm được việc là được, không cần bằng cấp. Nhưng điều này là rất khó vì nó trái với những gì chúng ta vẫn suy nghĩ, những truyền thống về học hành ở nước ta: đã học là phải có bằng cấp! Đề xuất thứ hai là của chúng tôi là đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp. Hiện nay xã hội thay đổi, nền kinh tế đòi hỏi những kỹ năng khác nhau. Có rất nhiều người học ngành điện, ngành cơ khí, học nghề chế tạo máy…, khi ra trường và đi làm một số năm, họ không được sử dụng một cách thích đáng. Chưa kể, thu nhập của họ cũng không được tốt, họ có nhu cầu để chuyển đổi ngành nghề. Chúng tôi đang đề nghị các trường đại học, đặc biệt là những trường đại học lớn như Đại học Bách khoa sẽ đưa ra chương trình đào tạo văn bằng 2 trong 12 đến 24 tháng và cung cấp những kỹ năng cập nhật nhất để học xong là số lao động này có thể tốt nghiệp là đi làm được. Đây là hai đề xuất hiện nay chúng tôi đang triển khai. Tôi tin rằng nếu thực hiện được thì chỉ trong vòng rất ngắn, khoảng 2 đến 4 năm tới, chúng ta sẽ có cả trăm ngàn người sẵn sàng cho những đòi hỏi của cuộc chuyển dịch mới này.” Theo quan điểm cá nhân mình thì việc áp dụng phương pháp này khá hay vì: Thứ nhất, mình có thể ra đi làm luôn sau 2 năm học trên trường, được đào tạo đủ để có thể đáp ứng công việc ban đầu tốt. Thứ hai, phương pháp này có thể rút ngắn được 1 khoảng thời gian dài (2 năm) để mình có thể đi làm và trải nghiệm luôn được công việc thực tế, học hỏi kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm nào bằng việc tự thực hành, làm việc và va vấp với thực tế cuộc sống, công việc. Thứ ba, sau hai năm học bạn có quyền lựa chọn: một là ra đi làm có kinh nghiệm sau đó quay lại trường học tiếp 2 năm và lấy bằng hoặc làm việc luôn mà không cần bằng nữa. Quyền lựa chọn nằm trong tay của bạn. Tuy nhiên, phương pháp này lại đòi hỏi sinh viên sau 2 năm ra đi làm phải làm được việc và kèm theo một số điều kiện khác. Mình nghĩ điều kiện khác này ít nhất là các bạn có thể làm được công việc Doanh nghiệp đưa ra và phải nắm trong tay vốn kiến thức nhất định, ít ra cũng phải thuộc những sinh viên khá giỏi trong trường và có năng lực thật sự… thì mới đáp ứng được công việc. Vì thời gian hai năm để học tập cũng không phải ngắn cũng ko phải quá dài để có thể biết hết mọi kiến thức có thể làm được việc. Ngoài ra khi bạn đi làm sau hai năm học lúc này bạn muốn quay lại trường để học tiếp lấy tấm bằng đại học, tuy nhiên việc này sẽ làm gián đoạn công việc bạn đang làm và chắc chắn không công ty nào muốn một nhân viên của mình nghỉ hai năm để học xong sau đó quay lại làm cả. Lúc này bạn phải đối mặt với sự lựa chọn: ở lại làm việc, không có bằng cấp hoặc nghỉ việc, học nốt lấy bằng và xin việc lại. Và nếu có một nội dung giáo dục đảm bảo tính thực tiễn, tính hiện đại cộng với hệ thống đánh giá khách quan khoa học thì "bằng cấp" xác nhận khả năng "làm được việc" của mỗi cá nhân ở những lĩnh vực xác định. Cái "quan trọng" là "Hệ thống đánh giá và cấp bằng", bước này OK thì đương nhiên "Bằng cấp là quan trọng và giá trị" Đây là quan điểm của mình, còn các bạn nghĩ sao về phương pháp này ?, hãy cho mình biết quan điểm của các bạn nhé!
Bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, nhân lực, kinh phí hoạt động của CSDLQG quy định thế nào?
Cơ sở dữ liệu quốc gia là cơ sở dữ liệu của một hoặc một số lĩnh vực kinh tế - xã hội được xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng yêu cầu truy nhập và sử dụng thông tin của các ngành kinh tế và phục vụ lợi ích công cộng. 1. Bảo đảm hạ tầng kỹ thuật hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia Căn cứ Điều 14 Nghị định 47/2024/NĐ-CP về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia: - Trung tâm dữ liệu quốc gia do cơ quan nhà nước chủ trì xây dựng, quản lý, khai thác và vận hành để phục vụ cơ sở dữ liệu quốc gia; phục vụ cơ sở dữ liệu dùng chung khác theo quy định của pháp luật. Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia phù hợp với quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông; định hướng chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. - Trung tâm dữ liệu quốc gia đáp ứng yêu cầu tối thiểu hạng III theo Tiêu chuẩn quốc gia về Trung tâm dữ liệu - Yêu cầu hạ tầng kỹ thuật viễn thông và yêu cầu tối thiểu mức 3 theo tiêu chuẩn quốc tế phổ biến. Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành quy định về yêu cầu kỹ thuật và hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với Trung tâm dữ liệu quốc gia tại khoản 1 Điều này. - Trung tâm dữ liệu quốc gia cung cấp các loại dịch vụ sau: + Dịch vụ hạ tầng nhà trạm, chỗ đặt máy chủ, cung cấp không gian hạ tầng chỗ đặt, hệ thống điện, điều hòa và các thiết bị liên quan khác để triển khai hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia, cho phép chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ quan, tổ chức có nhu cầu chủ động sử dụng, kiểm soát hệ thống của mình, theo hình thức sử dụng không gian chung hoặc theo khu riêng, tuân thủ quy định về quản lý, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia; + Dịch vụ cung cấp máy chủ, thiết bị mạng, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng, bảo mật hoặc lưu trữ với cấu hình đa dạng, không gian chỗ đặt tương ứng tại các Trung tâm dữ liệu quốc gia, phù hợp với nhu cầu của chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ quan, tổ chức có nhu cầu; + Dịch vụ triển khai và vận hành hạ tầng kỹ thuật phục vụ cơ sở dữ liệu quốc gia và hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin khác. - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia lựa chọn sử dụng dịch vụ trung tâm dữ liệu cung cấp bởi Trung tâm dữ liệu quốc gia theo quy định tại khoản 3 Điều này, bảo đảm phù hợp với hiện trạng, yêu cầu nghiệp vụ, quy định về đầu tư dự án công nghệ thông tin sử dụng vốn ngân sách nhà nước. - Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, vận hành và khai thác Trung tâm dữ liệu quốc gia; quy định về các điều kiện bảo đảm nguồn lực phục vụ xây dựng, quản trị, vận hành, khai thác Trung tâm dữ liệu quốc gia. 2. Bảo đảm nhân lực hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia Căn cứ Điều 15 Nghị định 47/2024/NĐ-CP về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia: - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia có trách nhiệm bảo đảm nhân lực phục vụ quản lý, xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia. Trường hợp nhân lực tại chỗ không đáp ứng được, thì được thuê chuyên gia, tổ chức theo quy định của pháp luật. - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia được thuê chuyên gia từ ngân sách nhà nước hằng năm theo quy định của pháp luật để tư vấn xây dựng cơ sở dữ liệu; thực hiện các hoạt động chuyên môn kỹ thuật về quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia. 3. Bảo đảm kinh phí hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia Căn cứ Điều 16 Nghị định 47/2024/NĐ-CP về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia: - Kinh phí xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia thực hiện theo quy định pháp luật về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và kinh phí chi hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng kinh phí thường xuyên thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước và quy định pháp luật về các khoản thu hợp pháp khác. Kinh phí duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia gồm kinh phí duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia và kinh phí duy trì cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương là nguồn thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia. - Cơ quan quản lý, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia sử dụng kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu phí dịch vụ khai thác Trung tâm dữ liệu quốc gia theo quy định của Luật Phí và lệ phí và kinh phí khác theo quy định của pháp luật để phục vụ xây dựng, nâng cấp, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia và hạ tầng công nghệ thông tin dùng chung các cơ sở dữ liệu quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia. - Chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành sử dụng kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu phí dịch vụ khai thác cơ sở dữ liệu và lệ phí, kinh phí khác theo quy định của pháp luật để phục vụ xây dựng, cập nhật, quản lý và duy trì cơ sở dữ liệu, trừ kinh phí đã được cấp phục vụ hạ tầng công nghệ thông tin dùng chung tương ứng đã cấp tại khoản 2 Điều này. - Bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn thu hợp pháp khác để đầu tư xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia; phân bổ kinh phí thường xuyên bảo đảm hoạt động thu thập thông tin, cập nhật, duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và pháp luật về đầu tư công. Như vậy, việc bảo đảm hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia được quy định tại Chương IV Nghị định 47/2024/NĐ-CP bao gồm: bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm nhân lực, bảo đảm kinh phí.
TP.HCM trả ngay 100 triệu đồng cho nhân lực chất lượng cao ở 14 vị trí công tác
Các chuyên gia, nhà khoa học đáp ứng yêu cầu sẽ nhận ngay 100 triệu đồng để giúp TP.HCM nghiên cứu, tư vấn chiến lược phát triển các lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn. UBND TP.HCM vừa ban hành kế hoạch thu hút chuyên gia, nhà khoa học đối với 14 vị trí thuộc 4 đơn vị gồm Sở Kế hoạch – Đầu tư, Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao và Viện Khoa học và Công nghệ tính toán (thuộc Sở Khoa học – Công nghệ TP.HCM). Kế hoạch này nhằm thu hút nhân lực chất lượng cao trong nước, đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài tham gia nghiên cứu, tư vấn cho thành phố trong các lĩnh vực trọng điểm, chiến lược, mũi nhọn của TP.HCM. Cụ thể, Sở Kế hoạch – Đầu tư TP.HCM cần thu hút 1 nhân sự tư vấn quy hoạch và kế hoạch phát triển. Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao tuyển 3 vị trí gồm: Tư vấn thiết kế hệ thống thiết bị máy lên men nhanh, tư vấn chọn lựa giống và quy trình canh tác theo hướng công nghệ cao, tư vấn kiểm soát chất lượng nguồn nước trong nuôi trồng thủy sản. Ban Quản lý Khu Công nghệ cao cần 5 nhân sự về tư vấn xây dựng và phát triển trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ, tư vấn quản lý và vận hành hiệu quả nhà thiết kế, phát triển công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi cơ điện tự - MEMS, tư vấn xây dựng đề án nâng cấp Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao trở thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo. Viện Khoa học và Công nghệ tính toán thu hút 5 trưởng phòng thí nghiệm: Khoa học sự sống, hóa tính toán và vật liệu nano, công nghệ tính toán và ứng dụng, khoa học môi trường, hạ tầng thông tin và tính toán. Về chế độ đãi ngộ, các chuyên gia, nhà khoa học đáp ứng các yêu cầu sẽ được hỗ trợ ban đầu 100 triệu đồng, mức lương hàng tháng theo Quyết định 17/2019 và hưởng phụ cấp khuyến khích 1% kinh phí cho mỗi công trình nghiên cứu. Theo Quyết định 17/2019, chuyên gia và nhà khoa học được chi trả lương hằng tháng theo mức lương cơ sở nhân với hệ số của bảng lương chuyên gia cao cấp, đối với giáo sư, phó giáo sư được hưởng hệ số 9,4, các trường hợp còn lại hưởng hệ số 8,8. Về nhà ở, TP.HCM hỗ trợ nhà ở công vụ hoặc tiền thuê nhà không quá 7 triệu đồng/tháng và phương tiện đi lại tùy theo khả năng của cơ quan, đơn vị tuyển dụng. Theo Báo Thanh niên
Nhân lực trong kỷ nguyên số “không cần bằng cấp, làm được là được”
Không nặng bằng cấp, thước đo cho người lao động ở kỷ nguyên số là sự đánh giá của doanh nghiệp, các diễn giả tham thảo luận về vấn đề này đều chung nhận định như vậy. Những thách thức cơ bản của Việt Nam sẽ gia tăng trong kỷ nguyên số đối với vấn đề về nguồn nhân lực như thế nào? Để tìm kiếm nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, các học giả, Giáo sư, Tiến sĩ đã có những ý kiến, suy nghĩ và những phương pháp đi khác nhau, cụ thể là: Theo ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch Công ty FPT Sofware đề xuất một số phương pháp và hiện nay đang thực hiện: “Chúng tôi thử nghiệm học nhanh và ra đi làm. Cụ thể là, chúng tôi vẫn có đào tạo đại học nhưng đổi quy trình, làm sao các sinh viên học 2 năm là có thể ra đi làm. Chúng tôi khẳng định chương trình đào tạo hiện nay là sau 2 năm, các bạn sinh viên có thể đi làm được, tất nhiên sẽ kèm theo một loạt điều kiện khác. Sau khi đi làm, các em sẽ có cân nhắc giữa đi làm luôn và không tốt nghiệp đại học nữa, hoặc quay lại trường đại học để học thêm hai năm nữa để lấy bằng đại học. Ở đây quan điểm của các doanh nghiệp và tôi nghĩ kể cả các cơ quan nhà nước rất quan trọng là không cần bằng cấp. Bạn làm được việc là được, không cần bằng cấp. Nhưng điều này là rất khó vì nó trái với những gì chúng ta vẫn suy nghĩ, những truyền thống về học hành ở nước ta: đã học là phải có bằng cấp! Đề xuất thứ hai là của chúng tôi là đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp. Hiện nay xã hội thay đổi, nền kinh tế đòi hỏi những kỹ năng khác nhau. Có rất nhiều người học ngành điện, ngành cơ khí, học nghề chế tạo máy…, khi ra trường và đi làm một số năm, họ không được sử dụng một cách thích đáng. Chưa kể, thu nhập của họ cũng không được tốt, họ có nhu cầu để chuyển đổi ngành nghề. Chúng tôi đang đề nghị các trường đại học, đặc biệt là những trường đại học lớn như Đại học Bách khoa sẽ đưa ra chương trình đào tạo văn bằng 2 trong 12 đến 24 tháng và cung cấp những kỹ năng cập nhật nhất để học xong là số lao động này có thể tốt nghiệp là đi làm được. Đây là hai đề xuất hiện nay chúng tôi đang triển khai. Tôi tin rằng nếu thực hiện được thì chỉ trong vòng rất ngắn, khoảng 2 đến 4 năm tới, chúng ta sẽ có cả trăm ngàn người sẵn sàng cho những đòi hỏi của cuộc chuyển dịch mới này.” Theo quan điểm cá nhân mình thì việc áp dụng phương pháp này khá hay vì: Thứ nhất, mình có thể ra đi làm luôn sau 2 năm học trên trường, được đào tạo đủ để có thể đáp ứng công việc ban đầu tốt. Thứ hai, phương pháp này có thể rút ngắn được 1 khoảng thời gian dài (2 năm) để mình có thể đi làm và trải nghiệm luôn được công việc thực tế, học hỏi kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm nào bằng việc tự thực hành, làm việc và va vấp với thực tế cuộc sống, công việc. Thứ ba, sau hai năm học bạn có quyền lựa chọn: một là ra đi làm có kinh nghiệm sau đó quay lại trường học tiếp 2 năm và lấy bằng hoặc làm việc luôn mà không cần bằng nữa. Quyền lựa chọn nằm trong tay của bạn. Tuy nhiên, phương pháp này lại đòi hỏi sinh viên sau 2 năm ra đi làm phải làm được việc và kèm theo một số điều kiện khác. Mình nghĩ điều kiện khác này ít nhất là các bạn có thể làm được công việc Doanh nghiệp đưa ra và phải nắm trong tay vốn kiến thức nhất định, ít ra cũng phải thuộc những sinh viên khá giỏi trong trường và có năng lực thật sự… thì mới đáp ứng được công việc. Vì thời gian hai năm để học tập cũng không phải ngắn cũng ko phải quá dài để có thể biết hết mọi kiến thức có thể làm được việc. Ngoài ra khi bạn đi làm sau hai năm học lúc này bạn muốn quay lại trường để học tiếp lấy tấm bằng đại học, tuy nhiên việc này sẽ làm gián đoạn công việc bạn đang làm và chắc chắn không công ty nào muốn một nhân viên của mình nghỉ hai năm để học xong sau đó quay lại làm cả. Lúc này bạn phải đối mặt với sự lựa chọn: ở lại làm việc, không có bằng cấp hoặc nghỉ việc, học nốt lấy bằng và xin việc lại. Và nếu có một nội dung giáo dục đảm bảo tính thực tiễn, tính hiện đại cộng với hệ thống đánh giá khách quan khoa học thì "bằng cấp" xác nhận khả năng "làm được việc" của mỗi cá nhân ở những lĩnh vực xác định. Cái "quan trọng" là "Hệ thống đánh giá và cấp bằng", bước này OK thì đương nhiên "Bằng cấp là quan trọng và giá trị" Đây là quan điểm của mình, còn các bạn nghĩ sao về phương pháp này ?, hãy cho mình biết quan điểm của các bạn nhé!