Đề xuất cơ cấu thời gian trả nợ đến hết 2025 cho khách hàng ảnh hưởng bởi bão số 3 Yagi
NHNN mới đây đã công bố Dự thảo Thông tư Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/30/dt-tt-co-cau-no.docx Dự thảo Thông tư Dự thảo Thông tư quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của bão số 3 có 03 Chương: Chương I về quy định chung; Chương II quy định cụ thể; Chương III Điều khoản thi hành, với 09 Điều, cụ thể như sau: (1) Đối tượng áp dụng Cụ thể, tại Điều 2 Dự thảo thông tư nêu rõ, các đối tượng áp dụng bao gồm: - Tổ chức tín dụng (không bao gồm ngân hàng chính sách), chi nhánh ngân hàng nước ngoài. - Khách hàng (bao gồm cả chi nhánh, văn phòng đại diện) của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (trừ khách hàng là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ninh, Thanh Hóa gặp khó khăn trong việc trả nợ do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. - Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. Bên cạnh đó, Dự thảo Tờ trình cũng có nêu rõ, hiện các ngân hàng chính sách (NHCSXH, VDB) đã có cơ chế xử lý nợ bị rủi ro riêng do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo đó, Dự thảo Thông tư không điều chỉnh hoạt động cơ cấu nợ lại thời hạn trả nợ của các ngân hàng chính sách. Thêm nữa, Dự thảo Thông tư chỉ quy định cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng trên địa bàn 26 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương bị ảnh hưởng bởi bão số 3 (theo Công điện 92/CĐ-TTg ngày 10/9/2024), không bao gồm các khách hàng là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (2) Đề xuất cơ cấu thời gian trả nợ đến hết 2025 cho khách hàng ảnh hưởng bởi bão số 3 Yagi Cụ thể, tại Điều 4 Dự thảo Thông tư có đề xuất tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xem xét quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với đối với số dư nợ gốc và/hoặc lãi của khoản nợ trên cơ sở đề nghị của khách hàng, khả năng tài chính của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và đáp ứng các nội dung sau đây: - Khách hàng quy định tại khoản 2 Điều 2 Dự thảo Thông tư có dư nợ gốc phát sinh trước ngày 07/9/2024 và từ hoạt động cho vay, cho thuê tài chính. - Phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ ngày 07/9/2024 đến hết ngày 31/12/2025. - Số dư nợ của khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ còn trong hạn hoặc quá hạn đến 10 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, thời hạn trả nợ theo hợp đồng, thỏa thuận. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với số dư nợ của khoản nợ đã quá hạn trên 10 ngày trong khoảng thời gian từ ngày 07/9/2024 đến ngày Dự thảo Thông tư có hiệu lực khi thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu tiên theo quy định. Giải thích cho đề xuất nêu trên, Dự thảo Tờ trình nêu rõ, bão, lũ lụt, sạt lở kéo dài nhiều ngày sau bão, gây ngập, lũ lụt trong nhiều ngày. Mặt khác, sau bão lụt công tác khắc phục thiên tai, tìm kiếm cứu nạn người mất tích cũng cần nhiều thời gian. Do vậy, có thể phát sinh khoản nợ quá hạn trên 10 ngày và không được cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định hiện hành. Theo đó, các TCTD kiến nghị có quy định để xử lý đối với tình huống này. Kiến nghị cho phép cơ cấu khoản nợ quá hạn trên 10 ngày trên của TCTD là có thể xảy ra trên thực tế và hợp lý. Do vậy, khoản 3 Điều 4 Dự thảo Thông tư đã có quy định để xử lý đối với vấn đề này. - Khách hàng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá gặp khó khăn không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Do khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3; + Do đối tác (đối tác có hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn bị ảnh hưởng của bão số 3 quy định tại khoản 2 Điều 2 Dự thảo Thông tư) của khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3 nên không thực hiện được đúng, đầy đủ các cam kết, thỏa thuận đã ký với khách hàng. - Khách hàng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá: + Có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại, trừ trường hợp dưới đây; + Khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3 và đang cần có thời gian để ổn định đời sống, xây dựng, tìm kiếm phương án khôi phục sản xuất kinh doanh. Việc xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với trường hợp này được thực hiện trong 03 tháng đầu tiên kể từ ngày Dự thảo Thông tư này có hiệu lực và thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ không quá 01 năm kể từ ngày được cơ cấu lại thời gian trả nợ. - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khoản nợ vi phạm quy định pháp luật. - Việc xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ được thực hiện từ ngày Dự thảo Thông tư này có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2025 và không giới hạn về số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ. - Thời điểm trả nợ cuối cùng của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (kể cả trường hợp gia hạn nợ) được xác định phù hợp với mức độ khó khăn của khách hàng nhưng không vượt quá ngày 31/12/2026.a
Thủ tục thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 34/2024/TT-NHNN, trong đó có quy định về hồ sơ, thủ tục thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện nước ngoài (1) Các trường hợp văn phòng đại diện nước ngoài phải sửa đổi, bổ sung Giấy phép Văn phòng đại diện nước ngoài trong phạm vi điều chỉnh của Thông tư 34/2024/TT-NHNN là Văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Theo quy định tại Điều 10 Thông tư 34/2024/TT-NHNN, các trường hợp mà văn phòng đại diện nước ngoài phải sửa đổi, bổ sung giấy phép bao gồm: - Thay đổi tên - Thay đổi địa bàn đặt trụ sở khác địa bàn tỉnh, thành phố nơi văn phòng đại diện nước ngoài đang đặt trụ sở - Gia hạn thời hạn hoạt động Ngoài ra, văn phòng đại diện nước ngoài phải nộp văn bản thông báo qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp đến trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi đặt trụ sở chậm nhất 07 ngày làm việc kể từ ngày có các nội dung thay đổi sau đây: - Thay đổi Trưởng văn phòng đại diện nước ngoài - Thay đổi địa điểm đặt trụ sở trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố - Thay đổi địa chỉ đặt trụ sở mà không làm thay đổi địa điểm đặt trụ sở Như vậy, khi văn phòng đại diện nước ngoài thay đổi địa chỉ sẽ có 02 trường hợp xảy ra phụ thuộc vào vị trí đặt trụ sở mới của văn phòng. Cụ thể, đối với trường hợp thay đổi địa chỉ đặt trụ sở văn phòng sang địa bàn tỉnh, thành phố khác, văn phòng đại diện nước ngoài phải thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy phép, gửi đến qua dịch vụ bưu chính hoặc nộp trực tiếp đến trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước chi nhánh và đảm bảo nguyên tắc lập hồ sơ theo quy định tại Điều 8 Thông tư 34/2024/TT-NHNN. Đối với trường hợp thay đổi địa chỉ trụ sở sang nơi khác nhưng cùng tỉnh, thành hoặc không làm thay đổi địa điểm đặt trụ sở thì văn phòng đại diện nước ngoài phải thực hiện việc thông báo bằng văn bản cho trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước chi nhánh trong vòng 07 ngày. (2) Thành phần hồ sơ Theo đó, khi văn phòng đại diện nước ngoài thực hiện việc thay đổi địa chỉ đặt trụ sở văn phòng sang địa bàn tỉnh, thành phố khác thì phải lập hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Căn cứ theo khoản 1 Điều 11 Thông tư 34/2024/TT-NHNN, hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép đối với trường hợp thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện nước ngoài bao gồm các thành phần sau đây: - Đơn đề nghị thay đổi, tối thiểu phải có các nội dung gồm: nội dung hiện tại, nội dung dự kiến thay đổi và lý do thay đổi - Tài liệu chứng minh văn phòng đại diện nước ngoài có quyền sử dụng hoặc sẽ có quyền sử dụng hợp pháp trụ sở tại địa bàn đặt trụ sở mới Theo đó, việc lập hồ sơ phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau: - Sử dụng ngôn ngữ là tiếng Việt - Thành phần hồ sơ của nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật về hợp pháp hóa lãnh sự và dịch ra tiếng Việt. Các bản dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt phải được công chứng bản dịch hoặc chứng thực chữ ký của người dịch theo quy định của pháp luật. - Trường hợp các giấy tờ là bản sao mà không phải là bản sao có chứng thực, bản sao được cấp từ sổ gốc thì phải xuất trình kèm theo bản chính để đối chiếu, người đối chiếu chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính. - Hồ sơ đề nghị phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền ký. - Trường hợp ký theo ủy quyền, hồ sơ phải có văn bản ủy quyền - Trong mỗi bộ hồ sơ phải có danh mục tài liệu. (Căn cứ Điều 8 Thông tư 34/2024/TT-NHNN) (3) Trình tự, thủ tục thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện nước ngoài Căn cứ theo khoản 3 Điều 10 và khoản 2 Điều 11 Thông tư 34/2024/TT-NHNN, trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy phép trong trường hợp thay đổi địa chỉ đặt trụ sở văn phòng sang địa bàn tỉnh, thành phố khác được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Nộp hồ sơ - Văn phòng đại diện nước ngoài hoàn thiện hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép và gửi về Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi dự kiến chuyển trụ sở đến - Phương thức nộp: trực tiếp hoặc thông qua dịch vụ bưu chính Bước 2: Tiếp nhận hồ sơ - Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh có văn bản yêu cầu văn phòng đại diện nước ngoài bổ sung, hoàn thiện hồ sơ - Trường hợp hồ sơ hợp lệ, đúng quy định pháp luật, thì trong thời hạn 30 ngày, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh có quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép đối với nội dung thay đổi của văn phòng đại diện nước ngoài. Đồng thời gửi văn bản thông tin đến Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi văn phòng đại diện nước ngoài đang đặt trụ sở. - Trường hợp từ chối sửa đổi, bổ sung, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi dự kiến chuyển trụ sở đến gửi văn bản trả lời và nêu rõ lý do cho văn phòng đại diện nước ngoài. Bước 3: Thực hiện thay đổi và công bố Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh sửa đổi, bổ sung Giấy phép văn phòng đại diện nước ngoài thực hiện các việc sau đây: - Tiến hành hoạt động tại địa điểm mới và chấm dứt hoạt động tại địa điểm cũ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh sửa đổi, bổ sung Giấy phép; đồng thời có văn bản thông báo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi văn phòng đại diện nước ngoài đang đặt trụ sở - Công bố các nội dung thay đổi trên 01 phương tiện truyền thông của Ngân hàng Nhà nước và trên 01 tờ báo in trong 03 số liên tiếp hoặc trên 01 báo điện tử của Việt Nam trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Trên đây là hồ sơ, thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép khi văn phòng đại diện nước ngoài có nhu cầu thay đổi địa chỉ văn phòng. Thông tư 34/2024/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
NHNN cảnh báo tội phạm mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên
Vừa qua NHNN đã có Công văn 4932/NHNN-TT ngày 13/6/2024 gửi UBND các tỉnh, TP đề nghị phối hợp ngăn chặn hoạt động mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên. NHNN cảnh báo tội phạm mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên Tại Công văn 4932/NHNN-TT ngày 13/6/2024, NHNN thông báo qua theo dõi, nắm bắt tình hình thực tế cùng với phản ánh từ Bộ Công an cho thấy thời gian qua trên địa bàn một số tỉnh, thành phố có xuất hiện tình trạng các đối tượng tội phạm dụ dỗ học sinh, sinh viên mở tài khoản thanh toán, sau đó chuyển lại cho các đối tượng này sử dụng. Qua đó, NHNN cảnh báo tội phạm mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên qua các phương thức thủ đoạn phạm tội như sau: - Đối tượng tội phạm lôi kéo, dụ dỗ học sinh, sinh viên đã được cấp Căn cước công dân mở tài khoản thanh toán và trả công cho người mở. - Đối tượng cung cấp cho học sinh điện thoại có sẵn sim để đăng ký mở tài khoản thanh toán và dịch vụ Internet Banking, SMS Banking. Sau đó, đối tượng yêu cầu học sinh trả lại điện thoại, cung cấp thông tin tên, mật khẩu đăng nhập, mật khẩu xác thực (OTP)... - Các đối tượng này cũng thu thập dữ liệu sinh trắc học (khuôn mặt) của các học sinh (Face ID) để phục vụ xác minh danh tính của khách hàng khi có yêu cầu. - Các tài khoản này sau đó thường được lợi dụng vào các mục đích vi phạm pháp luật như rửa tiền, trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tài trợ khủng bố… Qua đây, NHNN đã cảnh báo các thủ đoạn lừa đảo nhằm lấy thông tin cá nhân và mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên. Các bạn học sinh, sinh viên hết sức lưu ý và các bậc phụ huynh cũng nên nhắc nhở con em nâng cao tinh thần cảnh giác. Xem thêm: Cho thuê, cho mượn tài khoản thanh toán sẽ bị xử lý thế nào? NHNN đề nghị các đơn vị phối hợp ngăn chặn hoạt động mua bán tài khoản thanh toán Cũng tại Công văn 4932/NHNN-TT ngày 13/6/2024, NHNN đã nêu: Để góp phần giải quyết vấn đề nêu trên, đảm bảo việc mở, sử dụng tài khoản thanh toán đúng quy định pháp luật, NHNN kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố phối hợp: - Chỉ đạo Sở thông tin và Truyền thông, các cơ quan truyền thông, báo chí trên địa bàn tăng cường công tác tuyên truyền, cảnh báo tới người dân và các tổ chức, cá nhân trên địa bàn, đặc biệt là học sinh, sinh viên, người chưa thành niên về các phương thức thủ đoạn của đối tượng tội phạm, quy định pháp luật liên quan, nâng cao nhận thức về tuân thủ pháp luật và có biện pháp phòng, chống hiệu quả, không để bị lợi dụng cho các mục đích bất hợp pháp. - Chỉ đạo các trường học, cơ sở giáo dục đào tạo trên địa bàn triển khai quán triệt, thông tin kịp thời tới toàn bộ học sinh, sinh viên và phụ huynh về các phương thức thủ đoạn của đối tượng tội phạm, các hành vi bị cấm trong hoạt động mở, sử dụng tài khoản thanh toán và quy định xử phạt vi phạm hành chính nhằm nâng cao nhận thức về tuân thủ pháp luật và không để bị lợi dụng cho các mục đích bất hợp pháp. Theo đó, NHNN đã kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố phối hợp chỉ đạo các sở, ban, ngành tuyên truyền, cảnh báo tới người dân, triển khai quán triệt, thông tin kịp thời tới toàn bộ học sinh, sinh viên và phụ huynh về các phương thức thủ đoạn tội phạm và pháp luật về các hành vi liên quan đến tài khoản thanh toán. Các hành vi nào bị cấm trong mở và sử dụng tài khoản thanh toán? Theo Điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt gồm: - Làm giả, sửa chữa, tẩy xóa, thay thế phương tiện thanh toán, chứng từ thanh toán; lưu giữ, lưu hành, chuyển nhượng, sử dụng phương tiện thanh toán giả. - Xâm nhập hoặc tìm cách xâm nhập, phá hoại, làm thay đổi trái phép chương trình phần mềm, cơ sở dữ liệu điện tử sử dụng trong thanh toán; lợi dụng lỗi hệ thống mạng máy tính để trục lợi. - Cung cấp thông tin không trung thực trong quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán. - Tiết lộ, cung cấp thông tin có liên quan đến tiền gửi của chủ tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không đúng theo quy định của pháp luật. - Mở hoặc duy trì tài khoản thanh toán nặc danh, mạo danh. Như vậy, các hành vi bị cấm trong mở và sử dụng tài khoản thanh toán bao gồm cung cấp thông tin không trung thực trong quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán; Mở hoặc duy trì tài khoản thanh toán nặc danh, mạo danh.
Ngay trong ngày mai (17/5) phải công bố quyết định thanh tra thị trường vàng
Ngày 15/5/2024, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo 221/TB-VPCP Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tại cuộc họp với tập thể lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Ngày 14/5/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã chủ trì cuộc họp với tập thể lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Thông báo 221/TB-VPCP nêu rõ NHNN Việt Nam và các Bộ, cơ quan liên quan theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao tiếp tục thực hiện quyết liệt, nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp quản lý thị trường vàng cả trước mắt và lâu dài theo ý kiến chỉ đạo và các văn bản có liên quan, bảo đảm thị trường vàng hoạt động ổn định, hiệu quả, lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật, không để vàng hóa nền kinh tế và ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP và Điều 18 Nghị định 50/2014/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan, NHNN chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương có liên quan khẩn trương thực hiện ngay các nhiệm vụ sau: (1) Chậm nhất ngày 17/5/2024, phải công bố quyết định thanh tra thị trường vàng Cụ thể, các đơn vị nêu trên có nhiệm vụ chủ động triển khai ngay các công cụ, giải pháp quản lý, điều hành và bình ổn thị trường vàng phù hợp, kịp thời và hiệu quả hơn nữa. Đồng thời, khắc phục ngay tình trạng chênh lệch cao, bất hợp lý giữa giá vàng trong nước và thế giới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn, đúng quy định pháp luật và kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền trong trường hợp có các vấn đề vượt thẩm quyền phát sinh. Tiếp đến, khẩn trương hoàn thiện ban hành kế hoạch thanh tra, chậm nhất 17/5/2024 phải công bố quyết định thanh tra để thực hiện ngay các công tác thanh tra, kiểm tra đối với thị trường vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối, mua và bán vàng miếng và các chủ thể khác tham gia thị trường, không để chậm trễ hơn nữa. Trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật phải kịp thời chuyển ngay hồ sơ đến Bộ Công an và các cơ quan chức năng để xử lý nghiêm theo quy định. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thanh tra ngay trong tháng 5 năm 2024. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TT&TT và các cơ quan liên quan để thực hiện hiệu quả công tác thông tin truyền thông, kịp thời cung cấp các thông tin chính thức, chính thống về điều hành kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ và hoạt động của thị trường vàng để ổn định tâm lý người dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục rà soát kỹ lưỡng, đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP lấy ý kiến các đơn vị liên quan, chuyên gia và chịu tác động trực tiếp để đánh giá tác động và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy định nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả các công cụ quản lý nhà nước đối với thị trường vàng và bảo đảm các mục tiêu phát triển thị trường vàng. (2) Thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử theo từng lần trong hoạt động kinh doanh vàng Cụ thể, Thông báo 221/TB-VPCP nêu rõ, tại nội dung này, các đơn vị phải tập trung thực hiện những nhiệm vụ như sau: - Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN và các cơ quan liên quan kiểm tra, giám sát, kiên quyết thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử theo từng lần trong hoạt động kinh doanh vàng. Chậm nhất trong quý II năm 2024 phải hoàn thành và phải có chế tài xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. - Các Bộ, cơ quan gồm: Công an, Quốc phòng, Tài chính, Công Thương, Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan: + Quyết liệt chỉ đạo các đơn vị chức năng, lực lượng biên phòng, thuế, hải quan, quản lý thị trường. + Tăng cường thực hiện ngay các biện pháp kịp thời, hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ được giao để bình ổn thị trường vàng, đưa hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng được tổ chức, hoạt động theo quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan. + Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm theo quy định các hành vi vi phạm, nhất là buôn lậu, thẩm lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng, đẩy giá, cạnh tranh không đúng quy định. - UBND TP.HCM chỉ đạo Công ty TNHH một thành viên Vàng Bạc Đá Quý Sài Gòn - SJC thực hiện đúng quy định về hoạt động kinh doanh vàng và pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, chủ động thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường theo chỉ đạo. Cuối cùng, Văn phòng Chính phủ có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Bộ công an được đề nghị vào cuộc đấu thầu vàng miếng
Theo Báo Tiền Phong đưa tin, chiều ngày 16/4, NHNN đã có văn bản gửi các bộ, ngành chức năng đề nghị phối hợp triển khai chỉ đạo của Thủ tướng trong công tác quản lý thị trường vàng. Trong đó, nổi bật là đề nghị Bộ Công an phối hợp trong tổ chức hoạt động đấu thầu vàng miếng SJC để đảm bảo hoạt động đấu thầu được an toàn, hiệu quả. Bộ công an được đề nghị vào cuộc đấu thầu vàng miếng Tại văn bản gửi Bộ Công an, NHNN đề nghị phối hợp thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bình ổn và quản lý thị trường vàng được giao tại các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện nhiệm vụ tại Công điện 23/CĐ-TTg ngày 20/3/2024 về tăng cường các biện pháp quản lý thị trường vàng, theo đó Thủ tướng Chính phủ có ý kiến giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với NHNN và các cơ quan thanh tra, kiểm tra, bảo vệ pháp luật và cơ quan chức năng liên quan khẩn trương thực hiện ngay các biện pháp theo quy định để xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến thị trường vàng và hoạt động kinh doanh vàng, nhất là các hành vi buôn lậu, thao túng, đầu cơ trục lợi, đẩy giá vàng miếng... Bộ Công an phối hợp cùng NHNN trong tổ chức hoạt động đấu thầu vàng miếng SJC để đảm bảo hoạt động đấu thầu được an toàn, hiệu quả. Tại văn bản gửi Bộ Tài chính, NHNN đề nghị phối hợp quản lý hoạt động kinh doanh vàng; thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bình ổn và quản lý thị trường vàng được giao tại các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. NHNN đề nghị Bộ Tài chính yêu cầu các tổ chức kinh doanh mua, bán vàng, nhất là kinh doanh mua, bán vàng miếng thực hiện nghiêm việc áp dụng hóa đơn điện tử trong các giao dịch mua, bán vàng để nâng cao tính minh bạch, cải thiện hiệu quả giám sát, điều hành, bảo đảm thị trường vàng hoạt động an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch; xử lý nghiêm các doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định này. Bộ Tài chính tiếp tục cung cấp thông tin về các sự vụ, sự việc buôn lậu, vận chuyển trái phép vàng qua biên giới để NHNN kịp thời nắm bắt thông tin thị trường nhằm đưa ra phương án quản lý thị trường vàng hiệu quả. Các doanh nghiệp nào sẽ có tư cách dự thầu? Theo Điều 3 Quyết định 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 quy định về thông báo đấu thầu vàng miếng như sau: Chậm nhất trong ngày làm việc liền kề trước ngày Ngân hàng Nhà nước tổ chức đấu thầu, Sở Giao dịch gửi thông báo đấu thầu (theo mẫu tại Phụ lục 1) qua fax cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đã thiết lập quan hệ mua, bán vàng miếng với Ngân hàng Nhà nước theo số fax đã đăng ký. Theo Điều 5 Quyết định 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 quy định về kiểm tra và thông báo tư cách dự thầu của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp như sau: - Trong thời hạn 01 (một) giờ kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước bắt đầu tổ chức đấu thầu, Sở Giao dịch kiểm tra tiền đặt cọc của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp trên tài khoản theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước và kiểm tra giấy tờ tùy thân của người đại diện giao dịch của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp. - Tiền đặt cọc của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp là hợp lệ để tham gia đấu thầu khi tiền đặt cọc lớn hơn hoặc bằng giá trị đặt cọc tính theo công thức: Giá trị đặt cọc = Tỷ lệ đặt cọc x Giá tham chiếu x Khối lượng vàng miếng đặt thầu tối thiểu. - Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không đủ tư cách tham gia đấu thầu vàng miếng với Ngân hàng Nhà nước trong các trường hợp sau: + Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đang trong thời gian bị tạm ngừng quan hệ giao dịch hoặc bị hủy quan hệ giao dịch; + Người đại diện của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không xuất trình giấy tờ tùy thân theo quy định; + Giấy tờ tùy thân không hợp lệ; + Người tham dự không phải là người đại diện giao dịch do tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đã đăng ký; + Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không tuân thủ quy định về đặt cọc theo quy định. - Sở Giao dịch thông báo bằng văn bản cho tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không đủ tư cách tham gia đấu thầu vàng miếng với Ngân hàng Nhà nước, trong đó nêu rõ lý do. Như vậy, nếu tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không nằm trong nhóm không đủ tư cách và đã thiết lập quan hệ mua, bán vàng miếng với NHNN thì sẽ có tư cách tham gia dự thầu. Xem thêm: NHNN sẽ tổ chức đấu thầu vàng miếng sau 11 năm tạm ngưng
NHNN sẽ tổ chức đấu thầu vàng miếng sau 11 năm tạm ngưng
Sau 11 năm tạm ngưng, NHNN cho biết đang hoàn tất các công tác để chuẩn bị đấu thầu vàng trở lại nhằm tăng nguồn cung cho thị trường. (1) NHNN tổ chức đấu giá vàng miếng sau 11 năm tạm ngưng Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà vừa qua đã cho biết, trước diễn biến phức tạp của thị trường và thế giới và trong nước, giá vàng trong nước đã biến động mạnh, tăng nhanh, chênh lệch cao với giá quốc tế. Để ổn định thị trường, NHNN đã chuẩn bị sẵn sàng các phương án can thiệp, đồng thời thực hiện công tác kiểm tra hoạt động kinh doanh vàng của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trên toàn quốc. Theo đó, nhằm tăng nguồn cung vàng ra thị trường, ngày 15/04/2024, phía NHNN cho biết hiện khâu chuẩn bị cho việc đấu thầu vàng miếng đã sắp được hoàn tất. Như vậy, sau 11 năm tạm ngưng, NHNN sẽ quay trở lại tổ chức đấu thầu vàng miếng. (2) Phiên đấu thầu vàng miếng năm 2013 Phiên đấu thầu vàng miếng đầu tiên được diễn ra cách đây 11 năm vào ngày 28/03/2013. Tính riêng trong năm 2013, NHNN đã tổ chức 76 phiên đấu thầu vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.819.900 lượng trên tổng số 1.932.000 lượng chào thầu. Được biết, giá vàng SJC vào thời điểm đó vẫn đắt hơn giá vàng thế giới khoảng 4,2 triệu đồng. Qua 76 phiên đấu giá nêu trên, NHNN đã hạn chế được tình trạng mất cân đối cung - cầu, theo đó góp phần ổn định thị trường vàng trong nước. Đặc biệt, qua những phiên đấu thầu này, NHNN đã đáp ứng được nhu cầu tất toán trạng thái vàng của các ngân hàng, từ đó “bóc” được toàn bộ vàng ra khỏi hệ thống ngân hàng và chấm dứt hiện tượng vàng hóa gây nhiều rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Chính vì thế, hiện tượng đầu cơ vàng cũng đã được giảm thiểu rõ rệt (trước đây, ngân hàng là những nhà đầu cơ vàng chủ yếu trên thị trường). (3) Quy trình tổ chức đấu thầu vàng miếng 2024 Từ những thành công nêu trên, phiên đấu thầu vàng miếng 2024 được mong đợi được kỳ vọng sẽ dần kéo giảm chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới. Theo chia sẻ từ phía lãnh đạo NHNN, việc đấu thầu vàng miếng sẽ được thực hiện như sau: Về loại vàng đấu thầu: Vàng miếng SJC. Về thời gian: Theo lãnh đạo NHNN, Dự kiến trong ngày mai (16/04), NHNN sẽ gửi thông báo đấu thầu vàng miếng đến các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, ngày 17/04 sẽ thực hiện đấu thầu. Về quy trình đấu thầu: Sau khi công bố giá sàn, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp kinh doanh vàng sẽ bắt đầu điền vào đơn thầu. Các đơn vị nêu trên có 30 phút để quyết định, khối lượng và giá mua. Theo đó, sau một tiếng kể từ thời điểm đóng thầu, NHNN sẽ tiến hành công bố kết quả. Các doanh nghiệp sẽ phải đặt cọc để tham gia đấu thầu, muộn nhất là vào 17 giờ ngày nhận thông báo thầu. Theo ghi nhận từ phía NHNN, tính đến thời điểm hiện tại đã có 26 đơn vị bao gồm cả ngân hàng thương mại và doanh nghiệp kinh doanh vàng thiết lập quan hệ giao dịch vàng miếng với NHNN. Trong số đó, có khoảng 15 đơn vị đã đủ điều kiện tham gia đấu thầu. Đại diện một số ngân hàng cũng chia sẻ rằng việc NHNN lấy vàng trong kho dự trữ ngoại hối ra tăng cung để bình ổn thị trường mà chưa cấp phép nhập khẩu vàng là hợp lý trong bối cảnh tỷ giá tăng cao và dự trữ ngoại hối có hạn như hiện nay.
NHNN tăng cung vàng miếng để bình ổn thị trường vàng
Nhằm thực hiện chỉ đạo tại Thông báo 160/TB-VPCP của Thủ tướng Chính Phủ. Phó Thống đốc NHNN đã chuẩn bị sẵn sàng các phương án can thiệp để bình ổn thị trường vàng. Cụ thể như sau. Xem thêm bài viết liên quan: Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch, Thủ tướng chỉ đạo xử lý ngay và luôn (1) 03 phương pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng của NHNN Sáng ngày 12/04, Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, sau khi đã tiếp thu những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo 160/TB-VPCP, NHNN sẽ triển khai ngay 03 giải pháp như sau: - Đối với thị trường vàng miếng: NHNN sẽ thực hiện tăng cung để xử lý tình trạng chênh lệch cao giữa giá thành trong nước so với thị trường thế giới. - Đối với thị trường vàng, trang sức và mỹ nghệ: NHNN sẽ tiếp tục tạo điều kiện tối đa nhằm đảm bảo đủ nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất để xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ. - Triển khai sử dụng hóa đơn điện tử: NHNN sẽ phối hợp cùng các bộ, ngành và các cơ quan chức năng liên quan để yêu cầu các doanh nghiệp triển khai sử dụng hóa đơn điện tử đối với các giao dịch mua bán vàng nhằm nâng cao tính minh bạch cũng như hiệu quả của công tác quản lý. (2) Tiếp tục đẩy mạnh thanh tra các hoạt động kinh doanh vàng của doanh nghiệp Bên cạnh những phương pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng như đã nêu trên, Phó Thống Đốc NHNN Phạm Thanh Hà cũng nhấn mạnh yêu cầu các cơ quan quản lý thực hiện ngay công tác nắm tình hình, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Để từ đó xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu vàng qua biên giới, trục lợi đầu tư và thao túng giá vàng. Phó Thống đốc cũng cho biết thêm, NHNN và các bộ, ngành đã thành lập xong đoàn thanh tra và sẽ triển khai ngay trong tháng 04. (3) Đã có báo cáo tổng kết đánh giá thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP Cụ thể, theo nội dung chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 44/NQ-CP ngày 05/04/2024 về việc khẩn trương rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động thị trường vàng để phát triển thị trường vàng ổn định, lành mạnh, minh bạch, hiệu quả, bền vững, không để tình trạng vàng hóa nền kinh tế. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết đã có báo cáo tổng kết đánh giá quá trình thực hiện và sẽ có đề xuất một số phương hướng chỉnh sửa, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP trong thời gian sắp tới. Xem thêm bài viết liên quan: Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch, Thủ tướng chỉ đạo xử lý ngay và luôn
Sẽ xây dựng nghị định mới để bình ổn thị trường vàng?
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2024. Trong đó, nổi bật là yêu cầu xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP để bình ổn thị trường vàng. Sẽ xây dựng nghị định mới để bình ổn thị trường vàng? Hiện nay thị trường vàng đang hoạt động sôi nổi. Giá vàng thế giới tiếp đà tăng cao, giá vàng trong nước cũng tiếp tục lập kỷ lục mới trong thời gian gần đây. Thị trường vàng có nhiều biến động, diễn biến không ổn định, chứng tỏ Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã bộc lộ những bất cập cần kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Nắm được tình hình đó, tại Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2024, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả, kịp thời các nhiệm vụ, giải pháp bình ổn thị trường vàng, xử lý tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ yêu cầu khẩn trương rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động thị trường vàng để phát triển thị trường vàng ổn định, lành mạnh, minh bạch, hiệu quả, bền vững, không để tình trạng vàng hóa nền kinh tế. Giá vàng theo quy định pháp luật hiện hành Trách nhiệm của NHNN Theo Điều 16 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của NHNN như sau: - NHNN có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định. - NHNN được bổ sung vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng thông qua các biện pháp sau đây: + Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị định 24/2012/NĐ-CP. + Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. + Thực hiện mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. - Ngân hàng Nhà nước cấp, thu hồi: + Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. + Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. + Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu. + Giấy phép mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định. + Giấy phép đối với các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu và hoạt động kinh doanh vàng khác. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Nguyên tắc quản lý vàng Theo Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định như sau: - Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật. - Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này. - Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. - Quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và bền vững thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật. - Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh vàng phải tuân thủ các quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. - Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. - Hoạt động phái sinh về vàng của các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện theo Điều 105 Luật các tổ chức tín dụng. - Các hoạt động kinh doanh vàng khác, trừ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng, hoạt động mua, bán vàng nguyên liệu trong nước của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ và doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ và các hoạt động quy định là hoạt động kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh. Tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép. Như vậy, hiện nay giá vàng sẽ không được một cơ quan, đơn vị nào quy định mà sẽ được NHNN quản lý, can thiệp, bình ổn thông qua các phương pháp phù hợp. Vì thế, giá vàng trong nước sẽ phụ thuộc nhiều vào thị trường vàng thế giới và cung cầu trong nước.
Đề xuất: Mở ví điện tử phải thu thập sinh trắc học
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến về Dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Đáng chú ý, trong đó có đề xuất mở ví điện tử phải thu thập sinh trắc học của người chủ ví. Cụ thể như sau. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/09/du-thao-thong-tu.doc Dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (Lần 01) (1) Mở ví điện tử phải thu thập sinh trắc học của chủ ví Theo Dự thảo Thông tư, để được mở ví điện tử cá nhân cần chuẩn bị một bộ hồ sơ bao gồm những tài liệu, thông tin cùng dữ liệu như sau: - Thỏa thuận mở và sử dụng Ví điện tử theo quy định tại Điều 19 Dự thảo Thông tư. - Giấy tờ tùy thân của người mở ví: Cụ thể: + Trường hợp là người Việt Nam: Thẻ CCCD, Thẻ CC hoặc CC điện tử hoặc CMND còn thời hạn sử dụng. + Trường hợp là người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch: Giấy chứng nhận căn cước còn thời hạn. + Trường hợp là người nước ngoài: Hộ chiếu hoặc giấy tờ định danh do cơ quan nước ngoài cấp còn thời hạn sử dụng; thị thực nhập cảnh còn thời hạn hoặc giấy tờ chứng minh được miễn thị thực nhập cảnh (đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam). Đáng chú ý, ngoài những giấy tờ như đã nêu trên, người mở Ví điện tử còn phải cung cấp những thông tin sinh trắc học để nhận diện phân biệt người này với người khác như: khuôn mặt, vân tay, mống mắt, giọng nói hoặc các yếu tố sinh trắc học khác. Trường hợp Ví điện tử được mở thông qua người giám hộ hay người đai diện theo pháp luật (sau đây gọi chung là người đại diện) thì ngoài các tài liệu, thông tin, dữ liệu như đã nêu trên thì còn phải có thêm: - Trường hợp người đại diện là cá nhân: các tài liệu, thông tin, dữ liệu phục vụ việc nhận biết, xác minh thông tin nhận biết của người đại diện như đã nêu trên và giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của người đại diện đối với cá nhân mở Ví điện tử; - Trường hợp người đại diện là pháp nhân: tài liệu, thông tin, dữ liệu phục vụ việc nhận biết, xác minh thông tin nhận biết của pháp nhân theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Dự thảo Thông tư và giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp của pháp nhân đó. Dự thảo Thông tư cũng đề cập đến trường hợp mở ví bằng đồng Việt Nam thì ngoài những thông tin, dữ liệu nêu trên thì còn phải có thêm tài liệu dữ liệu chứng minh có nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt Nam. Theo đó, trường hợp Dự thảo Thông tư được thông qua thì trong thời gian sắp tới, khi thực hiện mở ví điện từ, ngoài việc cung cấp những giấy tờ, tài liệu liên quan thì sẽ thu thập thêm dữ liệu sinh trắc học của người chủ ví. (2) Quy định về đồng tiền trong giao dịch trực tuyến Theo Dự thảo Thông tư, đồng tiền sử dụng trong giao dịch trung gian thanh toán được quy định như sau: Trường hợp ở trên lãnh thổ Việt Nam: - Các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt thực hiện qua dịch vụ trung gian thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam. - Trường hợp tổ chức nước ngoài cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng là người không cư trú và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam để thực hiện giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam: + Đơn vị chấp nhận thanh toán tại Việt Nam chỉ được nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam từ ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hợp tác với tổ chức nước ngoài cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. + Đồng tiền thể hiện trong giao dịch là đồng Việt Nam. Trường hợp được sử dụng ngoại hối để giao dịch thì đồng tiền thể hiện trong giao dịch là đồng Việt Nam; hoặc cả đồng Việt Nam và ngoại tệ. Trường hợp ngoài lãnh thổ Việt Nam: Khi tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (trừ tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính) cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng để thực hiện giao dịch thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài, đồng tiền mà khách hàng sử dụng để thanh toán qua một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán là đồng Việt Nam. Dự thảo Thông tư cũng nêu rõ, việc quy đổi từ ngoại tệ ra đồng Việt Nam hoặc ngược lại thì tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ sẽ theo tỷ giá do các bên thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật. (3) Ví điện tử không liên kết với tài khoản chính chủ tại ngân hàng sẽ bị đóng Theo Dự thảo Thông tư, việc liên kết với tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của chính khách hàng tại ngân hàng (sau đây viết tắt là tài khoản ngân hàng) theo quy định như sau: - Trước khi khách hàng sử dụng Ví điện tử: tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử phải yêu cầu khách hàng hoàn thành việc liên kết Ví điện tử với tài khoản ngân hàng liên kết. - Trong suốt quá trình khách hàng sử dụng: Phải yêu cầu khách hàng duy trì việc liên kết Ví điện tử với tài khoản ngân hàng của chính khách hàng. Bên cạnh đó, tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử không được cho phép khách hàng sử dụng Ví điện tử trong trường hợp Ví chưa liên kết hoặc không còn liên kết với tài khoản ngân hàng của chính khách hàng. - Trong thời hạn tối đa 07 ngày làm việc kể từ ngày Ví điện tử không còn liên kết với tài khoản ngân hàng, tổ chức phải gửi thông báo tới khách hàng đề nghị thực hiện việc liên kết theo quy định. Trường hợp sau 01 tháng kể từ ngày tổ chức thông báo, nếu khách hàng vẫn không thực hiện liên kết thì tổ chức thực hiện đóng Ví điện tử và liên hệ với khách hàng để hoàn trả tiền trên Ví điện tử cho khách hàng. Trường hợp sau thời gian 01 tháng kể từ ngày đóng Ví điện tử mà tổ chức không thể thực hiện hoàn trả tiền do nguyên nhân từ phía khách hàng thì tổ chức thực hiện theo dõi số dư còn lại trên Ví điện tử của khách hàng và phải đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả khi chủ Ví điện tử có yêu cầu. - Ví điện tử phải được liên kết với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc thẻ ghi nợ (có gắn với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam) của chính khách hàng mở tại ngân hàng liên kết. - Tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử phải thỏa thuận với ngân hàng liên kết và/hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử về quy trình, cách thức liên kết Ví điện tử với tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của chính khách hàng. - Khách hàng được liên kết Ví điện tử với một hoặc nhiều tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của chính khách hàng mở tại các ngân hàng liên kết. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/09/du-thao-thong-tu.doc Dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (Lần 01)
Chính phủ: Yêu cầu tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024
Ngày 05/4/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện 32/CĐ-TTg gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu trong năm 2024, NHNN phải tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng. Yêu cầu tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024 Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 18/CĐ-TTg ngày 05/3/2024 về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng đến tháng 3 và Quý I năm 2024 mới đạt khoảng 0,9%. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 32/CĐ-TTg ngày 05/4/2024 gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Trong đó, Thủ tướng có những yêu cầu đối với NHNN như sau: 1) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan - Tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước, điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả hơn; - Thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay theo: + Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện 18/CĐ-TTg ngày 05/3/2024. + Các văn bản liên quan Nhằm ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng. - Khẩn trương thực hiện quyết liệt, hiệu quả, kịp thời các giải pháp tăng trưởng tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân; - Chỉ đạo các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế truyền thống như: + Tiêu dùng + Đầu tư + Xuất khẩu Và thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…; - Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; Tiếp tục có chính sách đột phá các gói tín dụng ưu đãi góp phần tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp, người dân. - Khẩn trương rà soát toàn diện, phân tích, đánh giá kỹ lưỡng: + Kết quả thực hiện hạn mức tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, từng ngành, từng lĩnh vực để theo thẩm quyền + Quy định của pháp luật Có biện pháp điều hành hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024 hiệu quả, khả thi, kịp thời hơn nữa, tuyệt đối không để ách tắc, chậm trễ, không đúng thời điểm, bảo đảm thực hiện được các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã đề ra trong năm 2024 và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; Trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền theo quy định. - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp phù hợp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay gắn với tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng, phục vụ, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện 18/CĐ-TTg ngày 05/3/2024. - Chỉ đạo, yêu cầu các tổ chức tín dụng: + Thực hiện công khai mặt bằng lãi suất cho vay, việc triển khai các gói tín dụng trước ngày 10 tháng 4 năm 2024 theo đúng chỉ đạo của Thường thực Chính phủ tại Thông báo 134/TB-VPCP ngày 02/4 2024; Tổ chức nào không thực hiện thì Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý nghiêm theo thẩm quyền và công khai theo quy định của pháp luật. - Tiếp tục tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số…, nỗ lực phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế cho người dân và không ngừng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. - Đẩy mạnh triển khai hiệu quả và bảo đảm công khai, minh bạch các gói tín dụng ưu đãi phù hợp với đặc thù của từng tổ chức tín dụng đối với các lĩnh vực quan trọng góp phần thúc đẩy các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; Phát huy vai trò, tăng cường trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong việc thấu hiểu, chia sẻ, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; Trên tinh thần cùng làm, cùng hưởng, cùng thắng, cùng phát triển bền vững, lâu dài. - Chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước nghiên cứu ngay việc xây dựng và cung cấp gói tín dụng cho người mua nhà ở xã hội có thời hạn đến 15 năm, lãi suất ưu đãi thấp hơn cho vay thương mại thông thường và cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư xây nhà ở xã hội vay với lãi suất ưu đãi hơn để các đối tượng có thu nhập thấp có cơ hội, động lực để mua nhà hoặc thuận lợi trong việc thuê hoặc thuê mua; Tiếp tục nghiên cứu, xem xét hạ mức lãi suất, đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho việc vay nguồn vốn hỗ trợ 120.000 tỷ đồng phù hợp tình hình thực tiễn theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 123/TB-VPCP ngày 27/3/2024. - Đẩy mạnh, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng và có giải pháp hiệu quả kịp thời xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng. 2) Phó Thủ tướng Lê Minh Khái tập trung chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan thực hiện quyết liệt, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra. 3) Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao Như vậy, theo Công điện 32/CĐ-TTg ngày 05/4/2024, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN phải có các giải pháp điều hành nhằm tăng trưởng tín dụng so với Quý I năm 2024. Tăng trưởng tín dụng là gì? Tăng trưởng tín dụng còn gọi là tốc độ tăng dư nợ tín dụng. Theo đó tăng trưởng tín dụng là phần trăm (%) hay số lần thay đổi của dư nợ tín dụng tại một thời điểm nhất định so với thời điểm trước đó. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng gồm: - Tốc độ tăng tín dụng bằng Đồng Việt Nam: loại ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. - Tốc độ tăng tín dụng bằng ngoại tệ: loại ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng bằng chỉ số phát triển dư nợ tín dụng trừ đi một hoặc một trăm. Quy định về hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024? Theo văn bản 10167/NHNN-CSTT NHNN gửi các tổ chức tín dụng về kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2024 là 15% được giao cho các ngân hàng ngay đầu năm 2024. Bám sát Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2024 khoảng 15% và linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng cung ứng nguồn vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, NHNN giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% và yêu cầu tổ chức tín dụng kiểm soát tăng trưởng tín dụng năm 2024. Như vậy, hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024 là 15%. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng đến tháng 3 và Quý I năm 2024 mới đạt khoảng 0,9%. Vì vậy, Chính phủ đặt ra yêu cầu tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024 tại Công điện 32/CĐ-TTg ngày 05/4/2024.
“Cọc thì phải đứng im” - NHNN bác kiến nghị không phong tỏa tiền cho vay đặt cọc
Theo Báo An ninh Thủ đô đưa tin, vừa qua thực hiện góp ý đối với dự thảo Thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư 39/2016/TT-NHNN, nhiều tổ chức kiến nghị cân nhắc bỏ quy định về việc phong tỏa tiền cho vay đặt cọc. Tuy nhiên, NHNN bác kiến nghị trên vì “cọc thì phải đứng im”. Cụ thể thông tin qua bài viết dưới đây. NHNN bác kiến nghị không phong tỏa tiền cho vay đặt cọc Theo dự thảo Thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư 39/2016/TT-NHNN có quy định về sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39/2016/TT-NHNN như sau: Trường hợp cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tổ chức tín dụng cho vay thỏa thuận với khách hàng để phong tỏa số tiền cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Theo đó, việc cho vay để thanh toán đặt cọc mua thì chủ đầu tư dự án/bên nhận đặt cọc sẽ bị phong tỏa số tiền nhận cọc tại ngân hàng của bên vay (bên đặt cọc), không được sử dụng số tiền đó cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Về vấn đề này, đại diện Hiệp hội Ngân hàng cho rằng trong thực tế, do khách hàng vay khó thỏa thuận được với chủ đầu tư chấp thuận cho phong tỏa tiền tại ngân hàng của bên vay, nên quy định tại khoản này hạn chế việc vay vốn thực hiện giao dịch của khách hàng. Vì vậy, các ngân hàng đề nghị ban soạn thảo dự thảo rà soát và cân nhắc bỏ quy định này. Trả lời cho đề xuất, NHNN cho rằng “Bởi đặt cọc theo đúng nghĩa là “cọc thì phải đứng im”. Không phải cọc là dùng tiền đặt cọc để đi làm việc khác. Đại diện NHNN cũng nêu ví dụ: “Dự án 10.000 tỷ thì 95% đặt cọc là rất lớn và khi chủ đầu tư sử dụng tiền cọc đó để làm việc khác là không đúng mục đích sử dụng vốn. Hoặc khi không thu hồi được vốn do dự án không đủ điều kiện pháp lý thì việc hủy hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng vay vốn. Đồng thời, gây rủi ro cho tổ chức tín dụng, đặc biệt là tổ chức dụng cho vay trên cơ sở tiền gửi của khách hàng”. Như vậy, quan điểm của NHNN là không chấp nhận kiến nghị cân nhắc bỏ quy định phong tỏa tiền cho vay đặt cọc. Bởi quy định này đảm bảo chủ đầu tư sử dụng tiền cọc đúng mục đích, và bảo đảm quyền lợi cho khách hàng khi huỷ hợp đồng. Đồng thời, giảm thiểu rủi ro cho tổ chức tín dụng. Cho vay đặt cọc là gì? Các quy định hiện hành về thẩm định, giám sát cho vay đặt cọc? Đặt cọc là gì? Theo Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đặt cọc như sau:: - Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. - Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, đặt cọc là khi giao kết hợp đồng, bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc tài sản đặt cọc (thông thường là tiền) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết, thực hiện hợp đồng. Cho vay đặt cọc là gì? Theo như quy định về đặt cọc ở trên, đặt cọc là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, cho vay đặt cọc là việc ngân hàng cho tổ chức/cá nhân vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Các quy định hiện hành về thẩm định, giám sát cho vay đặt cọc Theo điểm b Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39/2016/NHNN sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 06/2023/TT-NHNN quy định về quy trình thẩm định, phê duyệt và quyết định cho vay, trong đó quy định cụ thể: - Thời hạn tối đa thẩm định, quyết định cho vay; phân cấp, ủy quyền và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thẩm định, phê duyệt, quyết định cho vay, bao gồm quy định đối với cho vay bằng phương tiện điện tử theo quy định tại Điều 32đ Thông tư Thông tư 39/2016/NHNN (nếu có); các công việc khác thuộc quy trình thẩm định, phê duyệt và quyết định cho vay; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, phải có biện pháp phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên tại thỏa thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm; Theo điểm c Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39/2016/NHNN sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 06/2023/TT-NHNN quy định về quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng, trong đó quy định cụ thể: - Phân cấp, ủy quyền và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án, có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo thu hồi được vốn cho vay trong trường hợp các bên không thực hiện đúng thỏa thuận nghĩa vụ bảo đảm; Đồng thời, theo Khoản 5 Điều 26 Thông tư 39/2016/NHNN bổ sung bởi Thông tư 06/2023/TT-NHNN quy định như sau: Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tổ chức tín dụng phải phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên tại thỏa thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Như vậy, hiện nay khi ngân hàng cho vay đặt cọc cần phải có biện pháp phong tỏa số tiền đặt cọc tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Trong quá trình kiểm tra, giám sát phải đảm bảo thu hồi được vốn cho vay trong trường hợp các bên không thực hiện đúng thỏa thuận nghĩa vụ bảo đảm.
14 ngân hàng quan trọng năm 2024 được NHNN phê duyệt
Theo Báo Nhân Dân điện tử đưa tin, vừa qua NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định 538/QĐ-NHNN, phê duyệt nhóm tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài quan trọng trong năm 2024 trong hệ thống. 14 ngân hàng quan trọng năm 2024 Trong nhóm các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tầm quan trọng trong hệ thống năm 2024 tại Quyết định 538/QĐ-NHNN có 14 ngân hàng thương mại. Các ngân hàng này bao gồm: - 04 ngân hàng trong nhóm Big4: + Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) + Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) + Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) + Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). - Còn lại gồm 10 ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân: + Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) + Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (LPBank) + Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) + Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) + Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) + Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) + Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB + Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) + Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) + Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank). Các ngân hàng trên được NHNN yêu cầu Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN các chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện theo dõi, giám sát chặt chẽ, cảnh báo kịp thời các nguy cơ rủi ro trong hoạt động để ngăn ngừa rủi ro có tính trọng yếu, rủi ro mang tính hệ thống. Hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Cơ quan thanh tra, Giám sát ngân hàng là gì? Theo Điều 49 Luật NHNN Việt Nam 2010 được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 64 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng. Theo Khoản 1 Điều 7 Nghị định 26/2014/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 43/2019/NĐ-CP cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị tương đương Tổng cục, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, thực hiện chức năng: - Tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, bảo hiểm tiền gửi; - Tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; - Thực hiện phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống tổ chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Theo Điều 6 Nghị định Nghị định 26/2014/NĐ-CP sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Nghị định 43/2019/NĐ-CP quy định thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng là cơ quan thanh tra nhà nước, được tổ chức thành hệ thống gồm: - Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. - Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng Theo Điều 8 Nghị định 26/2014/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Nghị định 43/2019/NĐ-CP chức danh của người đứng đầu của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng. Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn sau: - Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra, giám sát trong phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. - Chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; Phối hợp với Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Ra quyết định thanh tra, thành lập đoàn thanh tra đối với đối tượng thanh tra ngân hàng thuộc phạm vi quản lý của NHNN theo phân công của Thống đốc NHNN hoặc theo yêu cầu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, gồm: + Các cuộc thanh tra hành chính, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng + Các cuộc thanh tra chuyên ngành lớn, phức tạp, các cuộc thanh tra lại hoặc khi xét thấy cần thiết; + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra; + Đề nghị Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh cử thanh tra viên ngân hàng, công chức khác tham gia đoàn thanh tra; + Trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia đoàn thanh tra. - Quyết định việc thanh tra: + Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra ngân hàng + Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa đến sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài Chịu trách nhiệm trước Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quyết định của mình. - Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa đến sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, yêu cầu Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tiến hành thanh tra đối với đối tượng thanh tra ngân hàng đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phân công thực hiện; Trường hợp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quyết định của mình. - Xem xét xử lý hoặc đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xử lý những vấn đề mà Chánh Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh không nhất trí với Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ về thanh tra, giám sát được giao. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sai trái về thanh tra, giám sát của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giải quyết vấn đề liên quan đến công tác thanh tra, giám sát; trường hợp kiến nghị về thanh tra không được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ. - Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra, giám sát. - Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét trách nhiệm, xử lý: + Người thuộc quyền quản lý của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật được phát hiện qua thanh tra, giám sát . + Không thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, giám sát; Yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý: + Người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra, giám sát + Không thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, giám sát. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định theo thẩm quyền và tổ chức triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước. - Báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra trong phạm vi trách nhiệm được giao; Báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về các mặt công tác khác của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. - Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. - Quyết định việc thanh tra viên ngân hàng, công chức khác thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng tiến hành các cuộc làm việc, tiếp xúc trực tiếp đối tượng giám sát ngân hàng. - Quyết định mức độ giám sát đối với các đối tượng giám sát ngân hàng, trừ trường hợp do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định. - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật hoặc được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giao. Trên đây là toàn bộ thông tin về 14 ngân hàng quan trọng được NHNN phê duyệt tại Quyết định 538/QĐ-NHNN, yêu cầu kiểm tra, giám sát chặt chẽ năm 2024. Đồng thời, bài viết cũng cung cấp thông tin về cơ cấu tổ chức, hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Người đọc có thể theo dõi để có cho mình những cập nhật mới nhất. Nguồn: Báo Nhân Dân điện tử
Chuyển tiền trên 10 triệu phải có xác nhận vân tay, khuôn mặt từ 1/7
Sắp tới đây, các giao dịch chuyển khoản có giá trị trên 10 triệu sẽ phải có xác nhận vân tay hoặc khuôn mặt để thực hiện giao dịch. Nhà nước đưa ra quy định này nhắm đến nhiều mục tiêu, giảm thiểu rủi ro người dân bị lừa đảo trên không gian mạng. (1) Chuyển tiền dưới 10 triệu, nhưng tổng 1 ngày trên 20 triệu thì phải xác thực vân tay, khuôn mặt. Từ 1/7 các giao dịch chuyển khoản trên 10 triệu phải được xác thực sinh trắc học bằng vân tay hoặc khuôn mặt, cụ thể theo Quyết định 2345/QĐ-NHNN, các giao dịch chuyển tiền dưới 10 triệu, một ngày không quá 20 triệu thì xác thực bằng mã OTP, không cần xác thực bằng vân tay hoặc khuôn mặt. Nếu chuyển tiền dưới 10 triệu đồng/lần nhưng tổng số tiền các giao dịch trong ngày đã chạm mốc 20 triệu thì đến lần chuyển tiếp theo trong ngày đó phải xác thực bằng khuôn mặt, vân tay, dù lần tiếp theo đó có chuyển bao nhiêu đi nữa. Như vậy, đối với các giao dịch trên 10 triệu hoặc hạn mức trong ngày đã chạm mốc 20 triệu thì người dùng cần phải xác thực sinh trắc học mới có thể thực hiện được giao dịch. Theo Điều 2 của Quyết định 2345/QĐ-NHNN, khách hàng cá nhân trước khi giao dịch lần đầu bằng ứng dụng ngân hàng (mobile banking) hoặc trước khi giao dịch trên thiết bị khác với thiết bị đang giao dịch lần gần nhất, cũng phải được nhận dạng sinh trắc học. (2) Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ phải triển khai các giải pháp giảm thiểu rủi ro. Cụ thể tại Điều 3 Quyết định 2345/QĐ-NHNN, Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ phải triển khai các giải pháp giảm thiểu rủi ro như sau: - Thông báo giao dịch qua tin nhắn SMS hoặc thư điện tử. - Thiết lập hạn mức giao dịch trong ngày. - Thiết lập tính năng cho phép/ không cho phép thanh toán trực tuyến. - Thiết lập hạn mức thanh toán thẻ trực tuyến trong ngày. - Thiết lập tính năng cho phép/ không cho phép thanh toán ở nước ngoài (ngoại trừ các giao dịch trực tuyến). - Triển khai giải pháp xác thực 3D Secure (hoặc tương đương) cho việc thanh toán trực tuyến với thẻ quốc tế. Ngoài ra, phải thực hiện việc thông báo khi khách hàng đăng nhập lần đầu ứng dụng Internet Banking/ Mobile Banking hoặc khi đăng nhập ứng dụng Internet Banking/ Mobile Banking trên thiết bị khác với thiết bị thực hiện đăng nhập ứng dụng Internet Banking/ Mobile Banking lần gần nhất qua SMS hoặc các kênh khác do khách hàng đăng ký (email, điện thoại,…). (3) Ý nghĩa của việc xác thực bằng sinh trắc học Thời gian gần đây các vụ lừa đảo, lừa tiền trên mạng xảy ra rất nhiều, nạn nhân của các vụ bị lừa tiền trên mạng vẫn tăng dù cho Nhà nước đã có thông báo, cảnh báo gửi đến người dân thông qua nhiều phương tiện. Nhận dạng, xác thực qua sinh trắc học là biện pháp tối ưu nhất hiện nay để giảm hạn chế tối đa làm giả và có tính bảo mật rất cao. Người dùng cần phải soi khuôn mặt của mình vào điện thoại, nhìn lên xuống để hệ thống nhận diện và đảm bảo đây là hình ảnh sống, sau đó khuôn mặt của người chuyển tiền sẽ được đối chiếu với dữ liệu sinh trắc học từ CCCD gắm chip do Bộ Công an quản lý. Mục đích của việc phải xác thực khuôn mặt là đảm bảo chính chủ đang thực hiện giao dịch. Do đó, khách hàng lỡ chuyển tiền vào tài khoản của những đối tượng lừa đảo có thể lấy lại được tiền, hay trường hợp kẻ gian dùng tài khoản của mình để chuyển tiền thì công an sẽ nhanh chóng xác định được danh tính qua đối chiếu với thông tin trên căn cước gắn chip.
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Thông tư 02/2023/TT-NHNN liệu có được kéo dài thời hạn?
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Điều kiện để cơ cấu thời hạn trả nợ là gì? Thông tư 02/2023/TT-NHNN liệu có được kéo dài thời hạn? Bài viết sau sẽ giải đáp những thắc mắc nêu trên. (1) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Căn cứ theo Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ như sau: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, Cụ thể: Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Ngân hàng sẽ kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ cho một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay của bạn. Số kỳ hạn trả nợ có thể thay đổi hoặc giữ nguyên. Gia hạn nợ: Ngân hàng sẽ kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ cho nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay của khách hàng. Khoảng thời gian này sẽ vượt quá thời hạn cho vay đã thỏa thuận ban đầu. Như vậy, hiểu đơn giản thì cơ cấu lại thời hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng (ngân hàng) chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khoản vay của khách hàng. (2) Điều kiện để cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Cụ thể, theo Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-NHNN các tổ chức tài chính sẽ xem xét quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ dựa trên cơ sơ đề nghị của khách hàng, khả năng tài chính của tổ chức tín dụng và khả năng đáp ứng các điều kiện của khách hàng như sau: - Dư nợ gốc phát sinh trước ngày 24/04/2023 và từ hoạt động cho vay, cho thuê tài chính. - Phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ 24/04/2023 đến hết ngày 30/6/2024. - Số dư nợ của khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ còn trong hạn hoặc quá hạn đến 10 (mười) ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, thời hạn trả nợ theo hợp đồng, thỏa thuận. - Được đánh giá bởi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận do doanh thu, thu nhập sụt giảm so với doanh thu, thu nhập tại phương án trả nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận. - Được đánh giá là có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại. - Khoản nợ không vi phạm pháp luật - Thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ (kể cả trường hợp gia hạn nợ) được xác định phù hợp với mức độ khó khăn của khách hàng và không vượt quá 12 tháng kể từ ngày đến hạn của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. - Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng theo quy định tại Thông tư 02/2023/TT-NHNN được thực hiện kể từ ngày 24/04/2023 đến hết ngày 30/6/2024. (3) Kéo dài thời hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN? Từ giải thích từ mục (2), có thể thấy việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng chỉ được thực hiện đến hết ngày 30/06/2024. Tuy nhiên, kể từ khi được ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp giảm bớt áp lực trả nợ vay gặp khó khăn về dòng tiền, thu nhập và doanh thu sụt giảm do phát sinh từ thị trường, tiêu thụ sản phẩm và trong hoạt động sản xuất kinh doanh... Doanh nghiệp được gia hạn nợ, giãn nợ, mà không bị chuyển nhóm nợ, giúp doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ vay mà vẫn tiếp cận được nguồn vốn thuận lợi để vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất, phục hồi và phát triển. Chính vì thế, nhiều tổ chức tín dụng đã kiến nghị kéo dài thêm thời hạn của Thông tư 02/2023/TT-NHNN. Trả lời cho những kiến nghị này, Phó Thống đốc NHNN ông Đào Minh Tú trong năm 2024, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định của Thông tư 02/2023/TT-NHNN Tuy nhiên, việc kéo dài thời hạn thêm bao lâu cần phải được xem xét kỹ.
NHNN yêu cầu Eximbank nộp báo cáo xử lý việc sau 11 năm lãi gộp lên 8,8 tỷ trước 21/03
Liên quan đến việc thẻ tín dụng nợ gốc 8,5 triệu, sau 11 năm lãi gộp lên 8,8 tỷ. Ngày 19/03/2024, NHNN đã có văn bản yêu cầu Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Eximbank bố trí lãnh đạo trả lời trực tiếp hoặc qua thông tin với các cơ quan báo chí, dư luận xã hội về trách nhiệm, quyền hạn và phương hướng xử lý. (1) Nguồn gốc sự việc Trước đó, Eximbank AMC đã gửi công văn cho khách hàng tên P.A.H thông báo về nghĩa vụ phải thanh toán của khách hàng tạm tính đến ngày 31/10/2023 là 8,8 tỷ đồng. Trong đó, bao gồm nợ gốc là 8.554.625 đồng và nợ lãi là 8.830.314.924 đồng. Vụ việc sau đó được anh P.A.H chia sẻ lên mạng xã hội và nhanh chóng lan truyền với tốc độ chóng mặt. Nhiều ý kiến bình luận đa chiều, gay gắt về vụ việc liên quan đến cách tính lãi của Eximbank như lãi suất ước tính khoảng gần 70%/năm hay kêu gọi tẩy chay, không tiếp tục sử dụng các sản phẩm dịch vụ của Eximbank và thẻ tín dụng của các ngân hàng khác. (2) NHNN yêu cầu Eximbank nộp báo cáo xử lý vụ việc trước ngày 21/03/2024 Để kịp thời giải quyết vấn đề đang được dư luận quan tâm, Thống đốc NHNN đã yêu cầu phía Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc Eximbank ngay trong ngày 19/03/2024 phải thực hiện bố trí lãnh đạo để trực tiếp trả lời hoặc thông tin với các cơ quan báo chí và dư luận xã hội về trách nhiệm, quyền hạn và phương hướng xử lý vụ việc với tinh thần cầu thị, lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý của người dân. Bên cạnh đó, đề nghị Eximbank triển khai các chương trình truyền thông cụ thể để hướng dẫn, giới thiệu cách thức sử dụng các dịch vụ tài chính ngân hàng nói chung, dịch vụ thẻ ngân hàng nói riêng tới công chúng, giúp người dân nắm rõ các quy định, sử dụng đúng, hiệu quả, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng. Cuối cùng, NHNN yêu cầu phía Eximbank phải khẩn trương xác minh vụ việc, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của khách hàng và ngân hàng. Văn bản báo cáo kết quả xử lý vụ việc phải được gửi đến Thống đốc NHNN qua Văn phòng NHNN, Vụ Truyền thông trước ngày 21/03/2024. Tiếp nhận yêu cầu nêu trên, đến cuối ngày 19/03/2024, đại diện Eximbank đã gặp gỡ khách hàng P.H.A tại Hà Nội. Hiện các thông tin chi tiết về các nội dung thỏa thuận hiện chưa được công bố cụ thể. Chỉ được biết qua chia sẻ của Luật sư Tạ Anh Tuấn (Giám đốc công ty Luật TNHH Emmelaw-Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) - người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho anh H.A rằng tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi thẳng thắn trên tinh thần hợp tác, thấu hiểu và chia sẻ. Các bên cùng thống nhất phối hợp giải quyết vụ việc, đảm bảo quyền lợi hợp lý hợp tình cho cả hai bên trong thời gian sớm nhất. Xem thêm các bài viết: Vụ nợ tín dụng 8,8 tỷ của Eximbank, liệu ngân hàng còn thời hiệu khởi kiện? Cách tính lãi của thẻ tín dụng? Có những lưu ý nào cần phải biết? Thẻ ngân hàng không dùng nữa có bị tính phí không? Khi nào thì bị xếp vào diện nợ xấu? Hướng dẫn kiểm tra nợ xấu Online bằng CIC năm 2024
NHNN đề xuất loại Tổ chức tín dụng khác khỏi đối tượng tham gia giao dịch môi giới tiền tệ
Vừa qua, NHNN công bố Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT-NHNN quy định hoạt động môi giới tiền tệ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể như sau. (1) Loại bỏ Tổ chức tài chính khác khỏi các đối tượng tham gia giao dịch môi giới tiền tệ Cụ thể, theo Dự thảo Thông tư, Ngân hàng Nhà nước đề xuất sửa đổi các đối tượng áp dụng được quy định tại Khoản 2 Điều 2 Thông tư 17/2016/TT-NHNN như sau: Thông tư 17/2016/TT-NHNN Dự thảo Thông tư Khách hàng được môi giới tiền tệ (sau đây gọi là khách hàng) là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính khác. Khách hàng được môi giới tiền tệ (sau đây gọi là khách hàng) là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, Dự thảo Thông tư đề xuất sửa đổi, bổ sung định nghĩa của môi giới tiền tệ, như sau: “Môi giới tiền tệ là việc làm trung gian có thu phí môi giới để thu xếp thực hiện các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định tại Điều 5 Thông tư này giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” Đồng thời, Dự thảo cũng đề xuất bãi bỏ Khoản 2 Điều 3 Thông tư 17/2016/TT-NHNN. Tức là các đối tượng tham gia vào việc môi giới tiền tệ theo Dự thảo chỉ bao gồm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng quy định về Tổ chức tài chính khác. Chính vì thế mà Khoản 3 Điều 4 Thông tư 17/2016/TT-NHNN là không còn cần thiết và sẽ được loại bỏ. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc điều chỉnh lại đối tượng áp dụng (bỏ tổ chức tài chính khác không phải là ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) và Môi giới tiền tệ như đã nêu trên để nhằm mục đích phù hợp với quy định về môi giới tiền tệ tại Khoản 20 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2024. (2) Điều chỉnh phương thức thực hiện môi giới tiền tệ Cụ thể, Dự thảo Thông tư đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 6 Thông tư 17/2016/TT-NHNN quy định về phương thức thực hiện môi giới tiền tệ như sau: Bên môi giới có thể thực hiện hoạt động môi giới tiền tệ với khách hàng thông qua giao dịch trực tiếp hoặc giao dịch điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử 2023. Theo lý giải của Ngân hàng Nhà nước, việc thay thế cụm từ “hoặc gián tiếp qua mạng máy vi tính và/hoặc điện thoại hoặc các phương thức khác do các bên thỏa thuận phù hợp với Điều kiện của các bên, tuân thủ quy định của pháp luật” bằng “hoặc giao dịch điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử” nhằm mục đích phù hợp với Luật Giao dịch điện tử và tình hình thực tiễn. Bởi theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định về Giao dịch điện tử và Phương tiện điện tử như sau: - Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử. - Phương tiện điện tử là phần cứng, phần mềm, hệ thống thông tin hoặc phương tiện khác hoạt động dựa trên công nghệ thông tin, công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ khác tương tự. Hiện tại, Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT-NHNN đã được Ngân hàng Nhà nước công bố tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ nhằm trưng cầu ý kiến đóng góp của các cá nhân, tổ chức và cơ quan trong và ngoài nước. Xem và tải về Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT-NHNN tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/12/du-thao-sua-doi-thong-tu-172016.doc
Đề xuất điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa mới của NHNN
NHNN đang lấy ý kiến về Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (1) Hồ sơ đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn Cụ thể, theo Dự thảo quyết định, để được chấp thuận khoản cấp tín dụng vượt giới hạn khách hàng và các tổ chức tín dụng cần đáp ứng những điều kiện như sau: Đối với khách hàng: - Đáp ứng đủ điều kiện cấp tín dụng theo quy định. Không có nợ xấu trong vòng 03 năm, tính từ năm đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn. Hệ số nợ phải trả không quá 03 lần vốn chủ sở hữu được ghi trên báo cáo tài chính quý/năm gần nhất. - Cần vốn để thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh góp phần thực hiện nhiệm vụ KT-XH của đất nước, bao gồm: + + Các chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. + Đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển KT-XH trong từng thời kỳ. - Tính khả thi: + Dự án, phương án đã được tổ chức tín dụng thẩm định. + Khách hàng có khả năng trả nợ và quyết định cấp tín dụng. + Đáp ứng các quy định hiện hành về đầu tư và xây dựng. + Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sản xuất kinh doanh và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đối với tổ chức tín dụng: - Trường hợp cấp tín dụng hợp vốn: + Đã đề xuất và thực hiện các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật về việc cấp tín dụng hợp vốn với dự án, phương án mà khả năng hợp vốn của các tổ chức tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng. + Đã phát hành thư mời hợp vốn tới ít nhất 5 tổ chức tín dụng khác hoặc đăng trên trang thông tin điện tử của tổ chức hoặc các phương tiện khác ít nhất 30 ngày nhưng không có tổ chức tín dụng nào tham gia hợp vốn. - Đáp ứng các yêu cầu về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 và các văn bản sửa đổi, bổ sung (nếu có). - Thực hiện đầy đủ các yêu cầu liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ được nêu tại hồ sơ đề nghị và các văn bản phê duyệt trước đó. - Đảm bảo tuân thủ quy định về giới hạn cấp tín dụng tại khoản 8 Điều 136 Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 (bao gồm cả khoản cấp tín dụng vượt giới hạn đang đề nghị). (2) Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn Hồ sơ báo cáo NHNN: bao gồm: - Văn bản của tổ chức tín dụng đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp tín dụng vượt giới hạn theo Mẫu đính kèm Dự thảo Quyết định. - Hồ sơ, tài liệu chứng minh đã đáp ứng các điều kiện nêu tại mục (1) - Văn bản thẩm định của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, dự án, phương án vay vốn của khách hàng. - Văn bản phê duyệt cấp tín dụng đối với khách hàng của cấp có thẩm quyền của tổ chức tín dụng đề nghị. - Văn bản đề nghị được cấp tín dụng tại tổ chức tín dụng của khách hàng. - Các hồ sơ pháp lý liên quan đến khách hàng gồm: + Giấy phép thành lập hoặc Giấy CNĐK doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương. + Báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong vòng 03 năm tính từ năm đề nghị và các tài liệu liên quan khác. - Hồ sơ pháp lý liên quan đến dự án, phương án gồm: Giấy CNĐK đầu tư hoặc văn bản phê duyệt, chấp thuận dự án, phương án của cấp có thẩm quyền và các tài liệu liên quan khác. - Báo cáo về tình hình quan hệ tín dụng và nhu cầu cấp tín dụng vượt giới hạn của một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan theo Mẫu biểu số 01 tại Phụ lục đính kèm Dự thảo Quyết định. Hồ sơ NHNN báo cáo Thủ tướng Chính phủ: gồm 01 tờ trình và các tài liệu như sau: - Văn bản của tổ chức tín dụng đề nghị NHNN báo cáo Chính phủ cho phép cấp tín dụng vượt giới hạn. - Văn bản tham gia ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương có liên quan. - Văn bản giải trình của tổ chức tín dụng, khách hàng (nếu có). - Các tài liệu liên quan khác (nếu có). (3) Thủ tục xem xét cấp tín dụng vượt thời hạn Gửi hồ sơ: Sau khi đã chuẩn bị 01 bộ hồ như đã nêu tại mục (2), tổ chức tín dụng gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp tại Bộ phận một cửa. Thời hạn giải quyết: - Trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN gửi văn bản xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương có liên quan đến Dự án, phương án và khách hàng đề nghị. - Các bộ, ngành, địa phương nêu trên trong vòng 10 ngày có ý kiến bằng văn bản về các nội dung thuộc lĩnh vực quản lý của đơn vị mình gửi lại cho NHNN. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu tổ chức tín dụng, khách hàng giải trình về các vấn đề có liên quan (nếu có). - Sau khi nhận ý kiến của bộ, ngành hoặc ý kiến giải trình của tổ chức tín dụng như đã nêu trên NHNN sẽ kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ của hồ sơ cấp tín dụng vượt giới hạn do tổ chức tín dụng cung cấp: + Trường hợp hồ sơ của tổ chức tín dụng không đáp ứng được các điều kiện tại Điều 3 Dự thảo Quyết định, NHNN có văn bản thông báo cho tổ chức tín dụng trong đó ghi rõ điều kiện mà tổ chức tín dụng chưa đáp ứng được. + Trường hợp hồ sơ của tổ chức tín dụng đã hợp lệ, đáp ứng điều kiện tại Điều 3 Dự thảo Quyết định, NHNN trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đối với đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn của tổ chức tín dụng. - Căn cứ đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn của tổ chức tín dụng, ý kiến của NHNN và các Bộ, ngành, địa phương, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến bằng văn bản đối với đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn của tổ chức tín dụng. Xem và tải về Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/08/du-thao-qdttg-tin-dung.doc
07 nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và vàng năm 2024
NHNN Việt Nam ngày 15/01/2024, đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN năm 2024 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2024. Theo đó, 07 nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và vàng của NHNN được đặt ra như sau: (1) Điều hành tỷ giá linh hoạt ổn định thị trường ngoại tệ Theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành các công cụ CSTT chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Chủ động đề xuất, xử lý các vấn đề phát sinh theo thẩm quyền của Thống đốc hoặc trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội, Trung ương những vấn đề vượt thẩm quyền. Trong đó: - Điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, bám sát mục tiêu CSTT. Tái cấp vốn đối với TCTD để hỗ trợ thanh khoản, cho vay các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu. - Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường, kinh tế vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT; khuyến khích các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục cho vay, tăng cường ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số vào quy trình cho vay, tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Chỉ đạo các TCTD công bố công khai và chịu trách nhiệm về lãi suất cho vay bình quân của từng TCTD và chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân trên website của từng TCTD. - Điều hành tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. (2) Tăng trưởng tín dụng của các TCTD đạt 15% trong năm 2024 Thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Giao hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% của năm 2024 ngay từ đầu năm cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng. (3) 05 chỉ đạo các tổ chức tín dụng NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng: (i) Tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế (tiêu dùng, xuất khẩu, đầu tư) theo chủ trương của Chính phủ; (ii) Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; (iii) Rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; (iv) Tháo gỡ và thúc đẩy mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu phục vụ đời sống, tiêu dùng, bảo đảm hoạt động cho vay an toàn, hiệu quả, góp phần hạn chế “tín dụng đen”; (v) Chấm dứt tình trạng cấp tín dụng tập trung vào một số doanh nghiệp, nhóm khách hàng lớn (đặc biệt là các khách hàng có liên quan đến lợi ích của chủ sở hữu ngân hàng). (4) Quyết liệt triển khai 120 nghìn tỷ đồng cho vay phát triển nhà ở xã hội Tiếp tục chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; phối hợp với các Bộ, ngành kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục thực hiện các giải pháp kịp thời, linh hoạt để triển khai quyết liệt chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho vay phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ; chương trình tín dụng 15 nghìn tỷ đồng cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản. (5) Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ được giao của ngành Ngân hàng tại các Chương trình mục tiêu quốc gia. Trong đó, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn trong việc triển khai Nghị định 28/2022/NĐ-CP về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia tại các địa phương được phân công theo chương trình công tác năm 2024. (6) Hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế Theo dõi sát thị trường vàng để có các giải pháp quản lý phù hợp nhằm hạn chế tác động của giá vàng đến sự ổn định của thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô, hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế. Trong tháng 1/2024, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo tổng kết Nghị định 24/2012/NĐ-CP, trong đó có đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định quản lý thị trường vàng để phù hợp với bối cảnh mới của thị trường. (7) Nâng cao chất lượng công tác thống kê, điều tra thống kê, phân tích, dự báo Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thống kê, điều tra thống kê, phân tích, dự báo phục vụ công tác hoạch định, chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tích cực và chủ động phối hợp hiệu quả với các Bộ, ngành, đơn vị liên quan trong việc cung cấp, trao đổi thông tin, số liệu để lập, phân tích và dự báo cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, phục vụ công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và điều hành vĩ mô của Chính phủ. Xem thêm Chỉ thị 01/CT-NHNN năm 2024 có hiệu lực từ ngày 15/01/2024.
NHNN điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với tổ chức tín dụng
NHNN đã có văn bản gửi các tổ chức tín dụng (TCTD) thông báo mức tăng trưởng tăng thêm cho các TCTD công khai, minh bạch theo các nguyên tắc và tiêu chí cụ thể. Theo đó, các TCTD có dư nợ tín dụng đến nay đạt đến 80% chỉ tiêu tín dụng đã được thông báo thì sẽ được chủ động bổ sung hạn mức tăng thêm dựa trên cơ sở xếp hạng năm 2022. Đến 22/11/2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống mới đạt 8,21% NHNN Việt Nam cho biết, bám sát Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm hỗ trợ thúc đẩy phục hồi tăng trưởng kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tại Chỉ thị ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước xác định mức tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14-15% và được linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng cung ứng nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế. Đến tháng 7/2023, Ngân hàng Nhà nước đã phân bổ hạn mức tín dụng cho toàn hệ thống tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với tổng mức tăng trưởng 14,5%. Tuy nhiên, 11 tháng qua cho thấy tăng trưởng kinh tế còn gặp khó khăn, sức hấp thụ vốn và cầu tín dụng của nền kinh tế còn yếu nên đến ngày 22/11/2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống mới đạt 8,21%, thấp hơn so với chỉ tiêu định hướng đầu năm. Bên cạnh đó, mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng không đồng đều, một số tổ chức tín dụng tăng trưởng khá cao, một số tổ chức tín dụng tăng trưởng thấp, thậm chí tăng trưởng âm. Đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng phục vụ nhu cầu vốn cho quá trình phục hồi, tăng trưởng kinh tế Do đó, để kịp thời linh hoạt điều hành, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng phục vụ nhu cầu vốn cho quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chủ động linh hoạt điều hòa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong toàn hệ thống từ tổ chức tín dụng không sử dụng hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sang các tổ chức tín dụng cần được tiếp tục mở rộng tăng trưởng tín dụng. Đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành để tăng trưởng tín dụng trong năm 2023 không vượt quá chỉ tiêu đã xác định song vẫn đảm bảo dư địa tăng trưởng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế và an toàn hệ thống tổ chức tín dụng. Ngày 29/11/2023, NHNN đã có văn bản gửi các tổ chức tín dụng thông báo mức tăng trưởng tăng thêm cho các tổ chức tín dụng công khai, minh bạch theo các nguyên tắc và tiêu chí cụ thể. Theo đó, các tổ chức tín dụng có dư nợ tín dụng đến nay đạt đến 80% chỉ tiêu tín dụng đã được thông báo thì sẽ được chủ động bổ sung hạn mức tăng thêm dựa trên cơ sở xếp hạng năm 2022. Đồng thời ưu tiên thêm cho những tổ chức tín dụng tập trung tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ và hạ lãi suất cho vay xuống mức thấp trong thời gian vừa qua. Việc bổ sung hạn mức này là sự chủ động của NHNN mà các tổ chức tín dụng không cần thiết phải đề nghị hoặc xin bổ sung. Yêu cầu các tổ chức tín dụng cấp tín dụng an toàn, lành mạnh Đồng thời, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng cấp tín dụng an toàn, lành mạnh, hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực quản lý rủi ro, khả năng huy động vốn, cũng như cân đối đủ nguồn vốn để cấp tín dụng. Tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất huy động và tích cực giảm lãi suất cho vay, hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân, doanh nghiệp. Tăng cường rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay, vừa đảm bảo tuân thủ quy định, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận tín dụng ngân hàng, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh. Từ nay đến hết năm, NHNN tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường để có các giải pháp điều hành kịp thời, phù hợp, chủ động bổ sung hạn mức, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp Liên quan đến công tác chỉ đạo về tín dụng, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã Công điện về điều hành tăng trưởng tín dụng những tháng cuối năm 2023. Công điện gửi Thống đốc NHNN Việt Nam nêu: Tại Nghị quyết 97/NQ-CP năm 2023, Thông báo 225/TB-VPCP năm 2023, Chính phủ, Thường trực Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xác định hạn mức tăng trưởng tín dụng cần thiết, hợp lý trong năm 2023, phân bổ hết hạn mức tín dụng và thông báo công khai ngay trong tháng 6 năm 2023 để các tổ chức tín dụng chủ động mở rộng tín dụng từ nay đến hết năm 2023; chú ý đến tín dụng bất động sản và tín dụng sản xuất kinh doanh nhằm hỗ trợ thị trường, góp phần khôi phục và khơi thông dòng vốn đầu tư và kinh doanh cho nền kinh tế. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành tín dụng và quyết liệt thực hiện các chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ về tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: NHNN chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành tăng trưởng tín dụng Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rút kinh nghiệm việc điều hành tăng trưởng tín dụng chậm năm 2022, khẩn trương rà soát toàn diện kết quả cấp tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, từng ngành, từng lĩnh vực; kết quả cấp tín dụng của từng tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại đến thời điểm hiện tại để theo thẩm quyền và quy định của pháp luật có biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2023 kịp thời, hiệu quả, khả thi, bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng phục vụ nền kinh tế và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, tuyệt đối không để tắc nghẽn, ách tắc, chậm trễ, không đúng thời điểm. Trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền theo quy định; chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành tăng trưởng tín dụng. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình, kết quả thực hiện trước ngày 01/12/2023. Thứ hai, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Phó Thủ tướng Lê Minh Khái theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc xử lý theo thẩm quyền. Thứ ba, Thủ tướng Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao; báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
Thông tư 14/2023/TT-NHNN: Quy định mới quản lý nội bộ về rủi ro tín dụng
Ngày 20/11/2023 Thống đốc NHNNVN đã ban hành Thông tư 14/2023/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. (1) Yêu cầu, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng Tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải xây dựng chiến lược quản lý rủi ro tín dụng tối thiểu bao gồm các nội dung sau đây: - Tỷ lệ nợ xấu mục tiêu, tỷ lệ cấp tín dụng xấu mục tiêu. - Nguyên tắc xác định chi phí bù đắp rủi ro tín dụng trong phương pháp tính lãi suất, định giá sản phẩm tín dụng (pricing) theo mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. - Nguyên tắc áp dụng các biện pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng (bao gồm cả thẩm quyền phê duyệt các biện pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng). (2) Hạn mức rủi ro tín dụng - Tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải ban hành hạn mức rủi ro tín dụng đảm bảo tuân thủ các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng phi ngân hàng tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Hạn mức rủi ro tín dụng tối thiểu bao gồm các hạn mức sau đây: + Hạn mức cấp tín dụng đối với đối tượng khách hàng trên cơ sở khả năng trả nợ của khách hàng; + Hạn mức cấp tín dụng theo sản phẩm. - Hạn mức rủi ro tín dụng phải được rà soát, đánh giá lại (điều chỉnh nếu cần thiết) tối thiểu 01 năm một lần theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. (3) Theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng - Tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải theo dõi, kiểm soát rủi ro tín dụng đối với từng khoản cấp tín dụng và toàn bộ danh mục cấp tín dụng và có biện pháp xử lý khi chất lượng tín dụng bị suy giảm, tối thiểu đảm bảo các yêu cầu sau đây: + Theo dõi kết quả phân loại nợ của khoản cấp tín dụng; + Đánh giá mức độ đầy đủ của dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Việc theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng tối thiểu bao gồm các nội dung sau đây: + Vai trò và trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận thực hiện theo dõi, kiểm soát rủi ro tín dụng; + Thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng; + Kiểm soát rủi ro tín dụng theo hạn mức rủi ro tín dụng được phân bổ đối với danh mục các khoản cấp tín dụng theo đối tượng khách hàng và theo sản phẩm; + Tiêu chí đánh giá và phương pháp xác định mức độ suy giảm chất lượng tín dụng của từng danh mục cấp tín dụng; cơ chế cảnh báo sớm khi có nguy cơ chất lượng tín dụng của khách hàng bị suy giảm. (4) Phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng Tổ chức tín dụng phi ngân hàng thực hiện phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng đảm bảo: - Thẩm quyền phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng phải được xác định theo các tiêu chí định lượng, định tính. - Trường hợp phê duyệt theo cơ chế hội đồng, hội đồng phê duyệt phải có biên bản phê duyệt hoặc hình thức tương đương, trong đó nêu rõ lý do phê duyệt hoặc không phê duyệt và ghi nhận (hoặc đính kèm) ý kiến của các thành viên hội đồng. Thành viên hội đồng phê duyệt phải chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình. - Thông tin cung cấp để phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng phải đầy đủ, phù hợp với quy mô, loại hình cấp tín dụng và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Quy định về danh mục thông tin làm cơ sở để phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng phải được bộ phận quản lý rủi ro đánh giá đảm bảo thực hiện hiệu quả việc quản lý rủi ro tín dụng. Xem thêm Thông tư 14/2023/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/10/2023
Đề xuất cơ cấu thời gian trả nợ đến hết 2025 cho khách hàng ảnh hưởng bởi bão số 3 Yagi
NHNN mới đây đã công bố Dự thảo Thông tư Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/30/dt-tt-co-cau-no.docx Dự thảo Thông tư Dự thảo Thông tư quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của bão số 3 có 03 Chương: Chương I về quy định chung; Chương II quy định cụ thể; Chương III Điều khoản thi hành, với 09 Điều, cụ thể như sau: (1) Đối tượng áp dụng Cụ thể, tại Điều 2 Dự thảo thông tư nêu rõ, các đối tượng áp dụng bao gồm: - Tổ chức tín dụng (không bao gồm ngân hàng chính sách), chi nhánh ngân hàng nước ngoài. - Khách hàng (bao gồm cả chi nhánh, văn phòng đại diện) của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (trừ khách hàng là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ninh, Thanh Hóa gặp khó khăn trong việc trả nợ do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. - Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. Bên cạnh đó, Dự thảo Tờ trình cũng có nêu rõ, hiện các ngân hàng chính sách (NHCSXH, VDB) đã có cơ chế xử lý nợ bị rủi ro riêng do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo đó, Dự thảo Thông tư không điều chỉnh hoạt động cơ cấu nợ lại thời hạn trả nợ của các ngân hàng chính sách. Thêm nữa, Dự thảo Thông tư chỉ quy định cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng trên địa bàn 26 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương bị ảnh hưởng bởi bão số 3 (theo Công điện 92/CĐ-TTg ngày 10/9/2024), không bao gồm các khách hàng là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (2) Đề xuất cơ cấu thời gian trả nợ đến hết 2025 cho khách hàng ảnh hưởng bởi bão số 3 Yagi Cụ thể, tại Điều 4 Dự thảo Thông tư có đề xuất tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xem xét quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với đối với số dư nợ gốc và/hoặc lãi của khoản nợ trên cơ sở đề nghị của khách hàng, khả năng tài chính của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và đáp ứng các nội dung sau đây: - Khách hàng quy định tại khoản 2 Điều 2 Dự thảo Thông tư có dư nợ gốc phát sinh trước ngày 07/9/2024 và từ hoạt động cho vay, cho thuê tài chính. - Phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ ngày 07/9/2024 đến hết ngày 31/12/2025. - Số dư nợ của khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ còn trong hạn hoặc quá hạn đến 10 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, thời hạn trả nợ theo hợp đồng, thỏa thuận. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với số dư nợ của khoản nợ đã quá hạn trên 10 ngày trong khoảng thời gian từ ngày 07/9/2024 đến ngày Dự thảo Thông tư có hiệu lực khi thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu tiên theo quy định. Giải thích cho đề xuất nêu trên, Dự thảo Tờ trình nêu rõ, bão, lũ lụt, sạt lở kéo dài nhiều ngày sau bão, gây ngập, lũ lụt trong nhiều ngày. Mặt khác, sau bão lụt công tác khắc phục thiên tai, tìm kiếm cứu nạn người mất tích cũng cần nhiều thời gian. Do vậy, có thể phát sinh khoản nợ quá hạn trên 10 ngày và không được cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định hiện hành. Theo đó, các TCTD kiến nghị có quy định để xử lý đối với tình huống này. Kiến nghị cho phép cơ cấu khoản nợ quá hạn trên 10 ngày trên của TCTD là có thể xảy ra trên thực tế và hợp lý. Do vậy, khoản 3 Điều 4 Dự thảo Thông tư đã có quy định để xử lý đối với vấn đề này. - Khách hàng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá gặp khó khăn không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Do khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3; + Do đối tác (đối tác có hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn bị ảnh hưởng của bão số 3 quy định tại khoản 2 Điều 2 Dự thảo Thông tư) của khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3 nên không thực hiện được đúng, đầy đủ các cam kết, thỏa thuận đã ký với khách hàng. - Khách hàng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá: + Có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại, trừ trường hợp dưới đây; + Khách hàng bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3 và đang cần có thời gian để ổn định đời sống, xây dựng, tìm kiếm phương án khôi phục sản xuất kinh doanh. Việc xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với trường hợp này được thực hiện trong 03 tháng đầu tiên kể từ ngày Dự thảo Thông tư này có hiệu lực và thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ không quá 01 năm kể từ ngày được cơ cấu lại thời gian trả nợ. - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khoản nợ vi phạm quy định pháp luật. - Việc xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ được thực hiện từ ngày Dự thảo Thông tư này có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2025 và không giới hạn về số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ. - Thời điểm trả nợ cuối cùng của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (kể cả trường hợp gia hạn nợ) được xác định phù hợp với mức độ khó khăn của khách hàng nhưng không vượt quá ngày 31/12/2026.a
Thủ tục thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 34/2024/TT-NHNN, trong đó có quy định về hồ sơ, thủ tục thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện nước ngoài (1) Các trường hợp văn phòng đại diện nước ngoài phải sửa đổi, bổ sung Giấy phép Văn phòng đại diện nước ngoài trong phạm vi điều chỉnh của Thông tư 34/2024/TT-NHNN là Văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Theo quy định tại Điều 10 Thông tư 34/2024/TT-NHNN, các trường hợp mà văn phòng đại diện nước ngoài phải sửa đổi, bổ sung giấy phép bao gồm: - Thay đổi tên - Thay đổi địa bàn đặt trụ sở khác địa bàn tỉnh, thành phố nơi văn phòng đại diện nước ngoài đang đặt trụ sở - Gia hạn thời hạn hoạt động Ngoài ra, văn phòng đại diện nước ngoài phải nộp văn bản thông báo qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp đến trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi đặt trụ sở chậm nhất 07 ngày làm việc kể từ ngày có các nội dung thay đổi sau đây: - Thay đổi Trưởng văn phòng đại diện nước ngoài - Thay đổi địa điểm đặt trụ sở trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố - Thay đổi địa chỉ đặt trụ sở mà không làm thay đổi địa điểm đặt trụ sở Như vậy, khi văn phòng đại diện nước ngoài thay đổi địa chỉ sẽ có 02 trường hợp xảy ra phụ thuộc vào vị trí đặt trụ sở mới của văn phòng. Cụ thể, đối với trường hợp thay đổi địa chỉ đặt trụ sở văn phòng sang địa bàn tỉnh, thành phố khác, văn phòng đại diện nước ngoài phải thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy phép, gửi đến qua dịch vụ bưu chính hoặc nộp trực tiếp đến trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước chi nhánh và đảm bảo nguyên tắc lập hồ sơ theo quy định tại Điều 8 Thông tư 34/2024/TT-NHNN. Đối với trường hợp thay đổi địa chỉ trụ sở sang nơi khác nhưng cùng tỉnh, thành hoặc không làm thay đổi địa điểm đặt trụ sở thì văn phòng đại diện nước ngoài phải thực hiện việc thông báo bằng văn bản cho trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước chi nhánh trong vòng 07 ngày. (2) Thành phần hồ sơ Theo đó, khi văn phòng đại diện nước ngoài thực hiện việc thay đổi địa chỉ đặt trụ sở văn phòng sang địa bàn tỉnh, thành phố khác thì phải lập hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Căn cứ theo khoản 1 Điều 11 Thông tư 34/2024/TT-NHNN, hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép đối với trường hợp thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện nước ngoài bao gồm các thành phần sau đây: - Đơn đề nghị thay đổi, tối thiểu phải có các nội dung gồm: nội dung hiện tại, nội dung dự kiến thay đổi và lý do thay đổi - Tài liệu chứng minh văn phòng đại diện nước ngoài có quyền sử dụng hoặc sẽ có quyền sử dụng hợp pháp trụ sở tại địa bàn đặt trụ sở mới Theo đó, việc lập hồ sơ phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau: - Sử dụng ngôn ngữ là tiếng Việt - Thành phần hồ sơ của nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật về hợp pháp hóa lãnh sự và dịch ra tiếng Việt. Các bản dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt phải được công chứng bản dịch hoặc chứng thực chữ ký của người dịch theo quy định của pháp luật. - Trường hợp các giấy tờ là bản sao mà không phải là bản sao có chứng thực, bản sao được cấp từ sổ gốc thì phải xuất trình kèm theo bản chính để đối chiếu, người đối chiếu chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính. - Hồ sơ đề nghị phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền ký. - Trường hợp ký theo ủy quyền, hồ sơ phải có văn bản ủy quyền - Trong mỗi bộ hồ sơ phải có danh mục tài liệu. (Căn cứ Điều 8 Thông tư 34/2024/TT-NHNN) (3) Trình tự, thủ tục thay đổi địa chỉ văn phòng đại diện nước ngoài Căn cứ theo khoản 3 Điều 10 và khoản 2 Điều 11 Thông tư 34/2024/TT-NHNN, trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy phép trong trường hợp thay đổi địa chỉ đặt trụ sở văn phòng sang địa bàn tỉnh, thành phố khác được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Nộp hồ sơ - Văn phòng đại diện nước ngoài hoàn thiện hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép và gửi về Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi dự kiến chuyển trụ sở đến - Phương thức nộp: trực tiếp hoặc thông qua dịch vụ bưu chính Bước 2: Tiếp nhận hồ sơ - Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh có văn bản yêu cầu văn phòng đại diện nước ngoài bổ sung, hoàn thiện hồ sơ - Trường hợp hồ sơ hợp lệ, đúng quy định pháp luật, thì trong thời hạn 30 ngày, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh có quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép đối với nội dung thay đổi của văn phòng đại diện nước ngoài. Đồng thời gửi văn bản thông tin đến Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi văn phòng đại diện nước ngoài đang đặt trụ sở. - Trường hợp từ chối sửa đổi, bổ sung, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi dự kiến chuyển trụ sở đến gửi văn bản trả lời và nêu rõ lý do cho văn phòng đại diện nước ngoài. Bước 3: Thực hiện thay đổi và công bố Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh sửa đổi, bổ sung Giấy phép văn phòng đại diện nước ngoài thực hiện các việc sau đây: - Tiến hành hoạt động tại địa điểm mới và chấm dứt hoạt động tại địa điểm cũ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh sửa đổi, bổ sung Giấy phép; đồng thời có văn bản thông báo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh nơi văn phòng đại diện nước ngoài đang đặt trụ sở - Công bố các nội dung thay đổi trên 01 phương tiện truyền thông của Ngân hàng Nhà nước và trên 01 tờ báo in trong 03 số liên tiếp hoặc trên 01 báo điện tử của Việt Nam trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Trên đây là hồ sơ, thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy phép khi văn phòng đại diện nước ngoài có nhu cầu thay đổi địa chỉ văn phòng. Thông tư 34/2024/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
NHNN cảnh báo tội phạm mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên
Vừa qua NHNN đã có Công văn 4932/NHNN-TT ngày 13/6/2024 gửi UBND các tỉnh, TP đề nghị phối hợp ngăn chặn hoạt động mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên. NHNN cảnh báo tội phạm mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên Tại Công văn 4932/NHNN-TT ngày 13/6/2024, NHNN thông báo qua theo dõi, nắm bắt tình hình thực tế cùng với phản ánh từ Bộ Công an cho thấy thời gian qua trên địa bàn một số tỉnh, thành phố có xuất hiện tình trạng các đối tượng tội phạm dụ dỗ học sinh, sinh viên mở tài khoản thanh toán, sau đó chuyển lại cho các đối tượng này sử dụng. Qua đó, NHNN cảnh báo tội phạm mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên qua các phương thức thủ đoạn phạm tội như sau: - Đối tượng tội phạm lôi kéo, dụ dỗ học sinh, sinh viên đã được cấp Căn cước công dân mở tài khoản thanh toán và trả công cho người mở. - Đối tượng cung cấp cho học sinh điện thoại có sẵn sim để đăng ký mở tài khoản thanh toán và dịch vụ Internet Banking, SMS Banking. Sau đó, đối tượng yêu cầu học sinh trả lại điện thoại, cung cấp thông tin tên, mật khẩu đăng nhập, mật khẩu xác thực (OTP)... - Các đối tượng này cũng thu thập dữ liệu sinh trắc học (khuôn mặt) của các học sinh (Face ID) để phục vụ xác minh danh tính của khách hàng khi có yêu cầu. - Các tài khoản này sau đó thường được lợi dụng vào các mục đích vi phạm pháp luật như rửa tiền, trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tài trợ khủng bố… Qua đây, NHNN đã cảnh báo các thủ đoạn lừa đảo nhằm lấy thông tin cá nhân và mua bán tài khoản thanh toán của học sinh, sinh viên. Các bạn học sinh, sinh viên hết sức lưu ý và các bậc phụ huynh cũng nên nhắc nhở con em nâng cao tinh thần cảnh giác. Xem thêm: Cho thuê, cho mượn tài khoản thanh toán sẽ bị xử lý thế nào? NHNN đề nghị các đơn vị phối hợp ngăn chặn hoạt động mua bán tài khoản thanh toán Cũng tại Công văn 4932/NHNN-TT ngày 13/6/2024, NHNN đã nêu: Để góp phần giải quyết vấn đề nêu trên, đảm bảo việc mở, sử dụng tài khoản thanh toán đúng quy định pháp luật, NHNN kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố phối hợp: - Chỉ đạo Sở thông tin và Truyền thông, các cơ quan truyền thông, báo chí trên địa bàn tăng cường công tác tuyên truyền, cảnh báo tới người dân và các tổ chức, cá nhân trên địa bàn, đặc biệt là học sinh, sinh viên, người chưa thành niên về các phương thức thủ đoạn của đối tượng tội phạm, quy định pháp luật liên quan, nâng cao nhận thức về tuân thủ pháp luật và có biện pháp phòng, chống hiệu quả, không để bị lợi dụng cho các mục đích bất hợp pháp. - Chỉ đạo các trường học, cơ sở giáo dục đào tạo trên địa bàn triển khai quán triệt, thông tin kịp thời tới toàn bộ học sinh, sinh viên và phụ huynh về các phương thức thủ đoạn của đối tượng tội phạm, các hành vi bị cấm trong hoạt động mở, sử dụng tài khoản thanh toán và quy định xử phạt vi phạm hành chính nhằm nâng cao nhận thức về tuân thủ pháp luật và không để bị lợi dụng cho các mục đích bất hợp pháp. Theo đó, NHNN đã kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố phối hợp chỉ đạo các sở, ban, ngành tuyên truyền, cảnh báo tới người dân, triển khai quán triệt, thông tin kịp thời tới toàn bộ học sinh, sinh viên và phụ huynh về các phương thức thủ đoạn tội phạm và pháp luật về các hành vi liên quan đến tài khoản thanh toán. Các hành vi nào bị cấm trong mở và sử dụng tài khoản thanh toán? Theo Điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt gồm: - Làm giả, sửa chữa, tẩy xóa, thay thế phương tiện thanh toán, chứng từ thanh toán; lưu giữ, lưu hành, chuyển nhượng, sử dụng phương tiện thanh toán giả. - Xâm nhập hoặc tìm cách xâm nhập, phá hoại, làm thay đổi trái phép chương trình phần mềm, cơ sở dữ liệu điện tử sử dụng trong thanh toán; lợi dụng lỗi hệ thống mạng máy tính để trục lợi. - Cung cấp thông tin không trung thực trong quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán. - Tiết lộ, cung cấp thông tin có liên quan đến tiền gửi của chủ tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không đúng theo quy định của pháp luật. - Mở hoặc duy trì tài khoản thanh toán nặc danh, mạo danh. Như vậy, các hành vi bị cấm trong mở và sử dụng tài khoản thanh toán bao gồm cung cấp thông tin không trung thực trong quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán; Mở hoặc duy trì tài khoản thanh toán nặc danh, mạo danh.
Ngay trong ngày mai (17/5) phải công bố quyết định thanh tra thị trường vàng
Ngày 15/5/2024, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo 221/TB-VPCP Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tại cuộc họp với tập thể lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Ngày 14/5/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã chủ trì cuộc họp với tập thể lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Thông báo 221/TB-VPCP nêu rõ NHNN Việt Nam và các Bộ, cơ quan liên quan theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao tiếp tục thực hiện quyết liệt, nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp quản lý thị trường vàng cả trước mắt và lâu dài theo ý kiến chỉ đạo và các văn bản có liên quan, bảo đảm thị trường vàng hoạt động ổn định, hiệu quả, lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật, không để vàng hóa nền kinh tế và ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP và Điều 18 Nghị định 50/2014/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan, NHNN chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương có liên quan khẩn trương thực hiện ngay các nhiệm vụ sau: (1) Chậm nhất ngày 17/5/2024, phải công bố quyết định thanh tra thị trường vàng Cụ thể, các đơn vị nêu trên có nhiệm vụ chủ động triển khai ngay các công cụ, giải pháp quản lý, điều hành và bình ổn thị trường vàng phù hợp, kịp thời và hiệu quả hơn nữa. Đồng thời, khắc phục ngay tình trạng chênh lệch cao, bất hợp lý giữa giá vàng trong nước và thế giới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn, đúng quy định pháp luật và kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền trong trường hợp có các vấn đề vượt thẩm quyền phát sinh. Tiếp đến, khẩn trương hoàn thiện ban hành kế hoạch thanh tra, chậm nhất 17/5/2024 phải công bố quyết định thanh tra để thực hiện ngay các công tác thanh tra, kiểm tra đối với thị trường vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối, mua và bán vàng miếng và các chủ thể khác tham gia thị trường, không để chậm trễ hơn nữa. Trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật phải kịp thời chuyển ngay hồ sơ đến Bộ Công an và các cơ quan chức năng để xử lý nghiêm theo quy định. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thanh tra ngay trong tháng 5 năm 2024. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TT&TT và các cơ quan liên quan để thực hiện hiệu quả công tác thông tin truyền thông, kịp thời cung cấp các thông tin chính thức, chính thống về điều hành kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ và hoạt động của thị trường vàng để ổn định tâm lý người dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục rà soát kỹ lưỡng, đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP lấy ý kiến các đơn vị liên quan, chuyên gia và chịu tác động trực tiếp để đánh giá tác động và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy định nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả các công cụ quản lý nhà nước đối với thị trường vàng và bảo đảm các mục tiêu phát triển thị trường vàng. (2) Thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử theo từng lần trong hoạt động kinh doanh vàng Cụ thể, Thông báo 221/TB-VPCP nêu rõ, tại nội dung này, các đơn vị phải tập trung thực hiện những nhiệm vụ như sau: - Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN và các cơ quan liên quan kiểm tra, giám sát, kiên quyết thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử theo từng lần trong hoạt động kinh doanh vàng. Chậm nhất trong quý II năm 2024 phải hoàn thành và phải có chế tài xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. - Các Bộ, cơ quan gồm: Công an, Quốc phòng, Tài chính, Công Thương, Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan: + Quyết liệt chỉ đạo các đơn vị chức năng, lực lượng biên phòng, thuế, hải quan, quản lý thị trường. + Tăng cường thực hiện ngay các biện pháp kịp thời, hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ được giao để bình ổn thị trường vàng, đưa hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng được tổ chức, hoạt động theo quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan. + Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm theo quy định các hành vi vi phạm, nhất là buôn lậu, thẩm lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng, đẩy giá, cạnh tranh không đúng quy định. - UBND TP.HCM chỉ đạo Công ty TNHH một thành viên Vàng Bạc Đá Quý Sài Gòn - SJC thực hiện đúng quy định về hoạt động kinh doanh vàng và pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, chủ động thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường theo chỉ đạo. Cuối cùng, Văn phòng Chính phủ có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Bộ công an được đề nghị vào cuộc đấu thầu vàng miếng
Theo Báo Tiền Phong đưa tin, chiều ngày 16/4, NHNN đã có văn bản gửi các bộ, ngành chức năng đề nghị phối hợp triển khai chỉ đạo của Thủ tướng trong công tác quản lý thị trường vàng. Trong đó, nổi bật là đề nghị Bộ Công an phối hợp trong tổ chức hoạt động đấu thầu vàng miếng SJC để đảm bảo hoạt động đấu thầu được an toàn, hiệu quả. Bộ công an được đề nghị vào cuộc đấu thầu vàng miếng Tại văn bản gửi Bộ Công an, NHNN đề nghị phối hợp thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bình ổn và quản lý thị trường vàng được giao tại các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện nhiệm vụ tại Công điện 23/CĐ-TTg ngày 20/3/2024 về tăng cường các biện pháp quản lý thị trường vàng, theo đó Thủ tướng Chính phủ có ý kiến giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với NHNN và các cơ quan thanh tra, kiểm tra, bảo vệ pháp luật và cơ quan chức năng liên quan khẩn trương thực hiện ngay các biện pháp theo quy định để xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến thị trường vàng và hoạt động kinh doanh vàng, nhất là các hành vi buôn lậu, thao túng, đầu cơ trục lợi, đẩy giá vàng miếng... Bộ Công an phối hợp cùng NHNN trong tổ chức hoạt động đấu thầu vàng miếng SJC để đảm bảo hoạt động đấu thầu được an toàn, hiệu quả. Tại văn bản gửi Bộ Tài chính, NHNN đề nghị phối hợp quản lý hoạt động kinh doanh vàng; thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bình ổn và quản lý thị trường vàng được giao tại các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. NHNN đề nghị Bộ Tài chính yêu cầu các tổ chức kinh doanh mua, bán vàng, nhất là kinh doanh mua, bán vàng miếng thực hiện nghiêm việc áp dụng hóa đơn điện tử trong các giao dịch mua, bán vàng để nâng cao tính minh bạch, cải thiện hiệu quả giám sát, điều hành, bảo đảm thị trường vàng hoạt động an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch; xử lý nghiêm các doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định này. Bộ Tài chính tiếp tục cung cấp thông tin về các sự vụ, sự việc buôn lậu, vận chuyển trái phép vàng qua biên giới để NHNN kịp thời nắm bắt thông tin thị trường nhằm đưa ra phương án quản lý thị trường vàng hiệu quả. Các doanh nghiệp nào sẽ có tư cách dự thầu? Theo Điều 3 Quyết định 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 quy định về thông báo đấu thầu vàng miếng như sau: Chậm nhất trong ngày làm việc liền kề trước ngày Ngân hàng Nhà nước tổ chức đấu thầu, Sở Giao dịch gửi thông báo đấu thầu (theo mẫu tại Phụ lục 1) qua fax cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đã thiết lập quan hệ mua, bán vàng miếng với Ngân hàng Nhà nước theo số fax đã đăng ký. Theo Điều 5 Quyết định 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 quy định về kiểm tra và thông báo tư cách dự thầu của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp như sau: - Trong thời hạn 01 (một) giờ kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước bắt đầu tổ chức đấu thầu, Sở Giao dịch kiểm tra tiền đặt cọc của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp trên tài khoản theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước và kiểm tra giấy tờ tùy thân của người đại diện giao dịch của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp. - Tiền đặt cọc của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp là hợp lệ để tham gia đấu thầu khi tiền đặt cọc lớn hơn hoặc bằng giá trị đặt cọc tính theo công thức: Giá trị đặt cọc = Tỷ lệ đặt cọc x Giá tham chiếu x Khối lượng vàng miếng đặt thầu tối thiểu. - Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không đủ tư cách tham gia đấu thầu vàng miếng với Ngân hàng Nhà nước trong các trường hợp sau: + Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đang trong thời gian bị tạm ngừng quan hệ giao dịch hoặc bị hủy quan hệ giao dịch; + Người đại diện của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không xuất trình giấy tờ tùy thân theo quy định; + Giấy tờ tùy thân không hợp lệ; + Người tham dự không phải là người đại diện giao dịch do tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đã đăng ký; + Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không tuân thủ quy định về đặt cọc theo quy định. - Sở Giao dịch thông báo bằng văn bản cho tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không đủ tư cách tham gia đấu thầu vàng miếng với Ngân hàng Nhà nước, trong đó nêu rõ lý do. Như vậy, nếu tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không nằm trong nhóm không đủ tư cách và đã thiết lập quan hệ mua, bán vàng miếng với NHNN thì sẽ có tư cách tham gia dự thầu. Xem thêm: NHNN sẽ tổ chức đấu thầu vàng miếng sau 11 năm tạm ngưng
NHNN sẽ tổ chức đấu thầu vàng miếng sau 11 năm tạm ngưng
Sau 11 năm tạm ngưng, NHNN cho biết đang hoàn tất các công tác để chuẩn bị đấu thầu vàng trở lại nhằm tăng nguồn cung cho thị trường. (1) NHNN tổ chức đấu giá vàng miếng sau 11 năm tạm ngưng Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà vừa qua đã cho biết, trước diễn biến phức tạp của thị trường và thế giới và trong nước, giá vàng trong nước đã biến động mạnh, tăng nhanh, chênh lệch cao với giá quốc tế. Để ổn định thị trường, NHNN đã chuẩn bị sẵn sàng các phương án can thiệp, đồng thời thực hiện công tác kiểm tra hoạt động kinh doanh vàng của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trên toàn quốc. Theo đó, nhằm tăng nguồn cung vàng ra thị trường, ngày 15/04/2024, phía NHNN cho biết hiện khâu chuẩn bị cho việc đấu thầu vàng miếng đã sắp được hoàn tất. Như vậy, sau 11 năm tạm ngưng, NHNN sẽ quay trở lại tổ chức đấu thầu vàng miếng. (2) Phiên đấu thầu vàng miếng năm 2013 Phiên đấu thầu vàng miếng đầu tiên được diễn ra cách đây 11 năm vào ngày 28/03/2013. Tính riêng trong năm 2013, NHNN đã tổ chức 76 phiên đấu thầu vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.819.900 lượng trên tổng số 1.932.000 lượng chào thầu. Được biết, giá vàng SJC vào thời điểm đó vẫn đắt hơn giá vàng thế giới khoảng 4,2 triệu đồng. Qua 76 phiên đấu giá nêu trên, NHNN đã hạn chế được tình trạng mất cân đối cung - cầu, theo đó góp phần ổn định thị trường vàng trong nước. Đặc biệt, qua những phiên đấu thầu này, NHNN đã đáp ứng được nhu cầu tất toán trạng thái vàng của các ngân hàng, từ đó “bóc” được toàn bộ vàng ra khỏi hệ thống ngân hàng và chấm dứt hiện tượng vàng hóa gây nhiều rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Chính vì thế, hiện tượng đầu cơ vàng cũng đã được giảm thiểu rõ rệt (trước đây, ngân hàng là những nhà đầu cơ vàng chủ yếu trên thị trường). (3) Quy trình tổ chức đấu thầu vàng miếng 2024 Từ những thành công nêu trên, phiên đấu thầu vàng miếng 2024 được mong đợi được kỳ vọng sẽ dần kéo giảm chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới. Theo chia sẻ từ phía lãnh đạo NHNN, việc đấu thầu vàng miếng sẽ được thực hiện như sau: Về loại vàng đấu thầu: Vàng miếng SJC. Về thời gian: Theo lãnh đạo NHNN, Dự kiến trong ngày mai (16/04), NHNN sẽ gửi thông báo đấu thầu vàng miếng đến các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, ngày 17/04 sẽ thực hiện đấu thầu. Về quy trình đấu thầu: Sau khi công bố giá sàn, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp kinh doanh vàng sẽ bắt đầu điền vào đơn thầu. Các đơn vị nêu trên có 30 phút để quyết định, khối lượng và giá mua. Theo đó, sau một tiếng kể từ thời điểm đóng thầu, NHNN sẽ tiến hành công bố kết quả. Các doanh nghiệp sẽ phải đặt cọc để tham gia đấu thầu, muộn nhất là vào 17 giờ ngày nhận thông báo thầu. Theo ghi nhận từ phía NHNN, tính đến thời điểm hiện tại đã có 26 đơn vị bao gồm cả ngân hàng thương mại và doanh nghiệp kinh doanh vàng thiết lập quan hệ giao dịch vàng miếng với NHNN. Trong số đó, có khoảng 15 đơn vị đã đủ điều kiện tham gia đấu thầu. Đại diện một số ngân hàng cũng chia sẻ rằng việc NHNN lấy vàng trong kho dự trữ ngoại hối ra tăng cung để bình ổn thị trường mà chưa cấp phép nhập khẩu vàng là hợp lý trong bối cảnh tỷ giá tăng cao và dự trữ ngoại hối có hạn như hiện nay.
NHNN tăng cung vàng miếng để bình ổn thị trường vàng
Nhằm thực hiện chỉ đạo tại Thông báo 160/TB-VPCP của Thủ tướng Chính Phủ. Phó Thống đốc NHNN đã chuẩn bị sẵn sàng các phương án can thiệp để bình ổn thị trường vàng. Cụ thể như sau. Xem thêm bài viết liên quan: Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch, Thủ tướng chỉ đạo xử lý ngay và luôn (1) 03 phương pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng của NHNN Sáng ngày 12/04, Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, sau khi đã tiếp thu những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo 160/TB-VPCP, NHNN sẽ triển khai ngay 03 giải pháp như sau: - Đối với thị trường vàng miếng: NHNN sẽ thực hiện tăng cung để xử lý tình trạng chênh lệch cao giữa giá thành trong nước so với thị trường thế giới. - Đối với thị trường vàng, trang sức và mỹ nghệ: NHNN sẽ tiếp tục tạo điều kiện tối đa nhằm đảm bảo đủ nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất để xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ. - Triển khai sử dụng hóa đơn điện tử: NHNN sẽ phối hợp cùng các bộ, ngành và các cơ quan chức năng liên quan để yêu cầu các doanh nghiệp triển khai sử dụng hóa đơn điện tử đối với các giao dịch mua bán vàng nhằm nâng cao tính minh bạch cũng như hiệu quả của công tác quản lý. (2) Tiếp tục đẩy mạnh thanh tra các hoạt động kinh doanh vàng của doanh nghiệp Bên cạnh những phương pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng như đã nêu trên, Phó Thống Đốc NHNN Phạm Thanh Hà cũng nhấn mạnh yêu cầu các cơ quan quản lý thực hiện ngay công tác nắm tình hình, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Để từ đó xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu vàng qua biên giới, trục lợi đầu tư và thao túng giá vàng. Phó Thống đốc cũng cho biết thêm, NHNN và các bộ, ngành đã thành lập xong đoàn thanh tra và sẽ triển khai ngay trong tháng 04. (3) Đã có báo cáo tổng kết đánh giá thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP Cụ thể, theo nội dung chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 44/NQ-CP ngày 05/04/2024 về việc khẩn trương rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động thị trường vàng để phát triển thị trường vàng ổn định, lành mạnh, minh bạch, hiệu quả, bền vững, không để tình trạng vàng hóa nền kinh tế. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết đã có báo cáo tổng kết đánh giá quá trình thực hiện và sẽ có đề xuất một số phương hướng chỉnh sửa, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP trong thời gian sắp tới. Xem thêm bài viết liên quan: Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch, Thủ tướng chỉ đạo xử lý ngay và luôn
Sẽ xây dựng nghị định mới để bình ổn thị trường vàng?
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2024. Trong đó, nổi bật là yêu cầu xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP để bình ổn thị trường vàng. Sẽ xây dựng nghị định mới để bình ổn thị trường vàng? Hiện nay thị trường vàng đang hoạt động sôi nổi. Giá vàng thế giới tiếp đà tăng cao, giá vàng trong nước cũng tiếp tục lập kỷ lục mới trong thời gian gần đây. Thị trường vàng có nhiều biến động, diễn biến không ổn định, chứng tỏ Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã bộc lộ những bất cập cần kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Nắm được tình hình đó, tại Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2024, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả, kịp thời các nhiệm vụ, giải pháp bình ổn thị trường vàng, xử lý tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ yêu cầu khẩn trương rà soát, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động thị trường vàng để phát triển thị trường vàng ổn định, lành mạnh, minh bạch, hiệu quả, bền vững, không để tình trạng vàng hóa nền kinh tế. Giá vàng theo quy định pháp luật hiện hành Trách nhiệm của NHNN Theo Điều 16 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của NHNN như sau: - NHNN có trách nhiệm xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quy định. - NHNN được bổ sung vàng miếng vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng thông qua các biện pháp sau đây: + Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị định 24/2012/NĐ-CP. + Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ. Chi phí tổ chức sản xuất vàng miếng được hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. + Thực hiện mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. - Ngân hàng Nhà nước cấp, thu hồi: + Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. + Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. + Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu. + Giấy phép mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định. + Giấy phép đối với các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu và hoạt động kinh doanh vàng khác. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Nguyên tắc quản lý vàng Theo Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định như sau: - Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật. - Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này. - Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. - Quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và bền vững thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu theo quy định của pháp luật. - Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh vàng phải tuân thủ các quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. - Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. - Hoạt động phái sinh về vàng của các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện theo Điều 105 Luật các tổ chức tín dụng. - Các hoạt động kinh doanh vàng khác, trừ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng, hoạt động mua, bán vàng nguyên liệu trong nước của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ và doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ và các hoạt động quy định là hoạt động kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh. Tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép. Như vậy, hiện nay giá vàng sẽ không được một cơ quan, đơn vị nào quy định mà sẽ được NHNN quản lý, can thiệp, bình ổn thông qua các phương pháp phù hợp. Vì thế, giá vàng trong nước sẽ phụ thuộc nhiều vào thị trường vàng thế giới và cung cầu trong nước.
Đề xuất: Mở ví điện tử phải thu thập sinh trắc học
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến về Dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Đáng chú ý, trong đó có đề xuất mở ví điện tử phải thu thập sinh trắc học của người chủ ví. Cụ thể như sau. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/09/du-thao-thong-tu.doc Dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (Lần 01) (1) Mở ví điện tử phải thu thập sinh trắc học của chủ ví Theo Dự thảo Thông tư, để được mở ví điện tử cá nhân cần chuẩn bị một bộ hồ sơ bao gồm những tài liệu, thông tin cùng dữ liệu như sau: - Thỏa thuận mở và sử dụng Ví điện tử theo quy định tại Điều 19 Dự thảo Thông tư. - Giấy tờ tùy thân của người mở ví: Cụ thể: + Trường hợp là người Việt Nam: Thẻ CCCD, Thẻ CC hoặc CC điện tử hoặc CMND còn thời hạn sử dụng. + Trường hợp là người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch: Giấy chứng nhận căn cước còn thời hạn. + Trường hợp là người nước ngoài: Hộ chiếu hoặc giấy tờ định danh do cơ quan nước ngoài cấp còn thời hạn sử dụng; thị thực nhập cảnh còn thời hạn hoặc giấy tờ chứng minh được miễn thị thực nhập cảnh (đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam). Đáng chú ý, ngoài những giấy tờ như đã nêu trên, người mở Ví điện tử còn phải cung cấp những thông tin sinh trắc học để nhận diện phân biệt người này với người khác như: khuôn mặt, vân tay, mống mắt, giọng nói hoặc các yếu tố sinh trắc học khác. Trường hợp Ví điện tử được mở thông qua người giám hộ hay người đai diện theo pháp luật (sau đây gọi chung là người đại diện) thì ngoài các tài liệu, thông tin, dữ liệu như đã nêu trên thì còn phải có thêm: - Trường hợp người đại diện là cá nhân: các tài liệu, thông tin, dữ liệu phục vụ việc nhận biết, xác minh thông tin nhận biết của người đại diện như đã nêu trên và giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của người đại diện đối với cá nhân mở Ví điện tử; - Trường hợp người đại diện là pháp nhân: tài liệu, thông tin, dữ liệu phục vụ việc nhận biết, xác minh thông tin nhận biết của pháp nhân theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Dự thảo Thông tư và giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp của pháp nhân đó. Dự thảo Thông tư cũng đề cập đến trường hợp mở ví bằng đồng Việt Nam thì ngoài những thông tin, dữ liệu nêu trên thì còn phải có thêm tài liệu dữ liệu chứng minh có nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt Nam. Theo đó, trường hợp Dự thảo Thông tư được thông qua thì trong thời gian sắp tới, khi thực hiện mở ví điện từ, ngoài việc cung cấp những giấy tờ, tài liệu liên quan thì sẽ thu thập thêm dữ liệu sinh trắc học của người chủ ví. (2) Quy định về đồng tiền trong giao dịch trực tuyến Theo Dự thảo Thông tư, đồng tiền sử dụng trong giao dịch trung gian thanh toán được quy định như sau: Trường hợp ở trên lãnh thổ Việt Nam: - Các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt thực hiện qua dịch vụ trung gian thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam. - Trường hợp tổ chức nước ngoài cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng là người không cư trú và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam để thực hiện giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam: + Đơn vị chấp nhận thanh toán tại Việt Nam chỉ được nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam từ ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hợp tác với tổ chức nước ngoài cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. + Đồng tiền thể hiện trong giao dịch là đồng Việt Nam. Trường hợp được sử dụng ngoại hối để giao dịch thì đồng tiền thể hiện trong giao dịch là đồng Việt Nam; hoặc cả đồng Việt Nam và ngoại tệ. Trường hợp ngoài lãnh thổ Việt Nam: Khi tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (trừ tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính) cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng để thực hiện giao dịch thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài, đồng tiền mà khách hàng sử dụng để thanh toán qua một hoặc một số dịch vụ trung gian thanh toán là đồng Việt Nam. Dự thảo Thông tư cũng nêu rõ, việc quy đổi từ ngoại tệ ra đồng Việt Nam hoặc ngược lại thì tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ sẽ theo tỷ giá do các bên thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật. (3) Ví điện tử không liên kết với tài khoản chính chủ tại ngân hàng sẽ bị đóng Theo Dự thảo Thông tư, việc liên kết với tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của chính khách hàng tại ngân hàng (sau đây viết tắt là tài khoản ngân hàng) theo quy định như sau: - Trước khi khách hàng sử dụng Ví điện tử: tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử phải yêu cầu khách hàng hoàn thành việc liên kết Ví điện tử với tài khoản ngân hàng liên kết. - Trong suốt quá trình khách hàng sử dụng: Phải yêu cầu khách hàng duy trì việc liên kết Ví điện tử với tài khoản ngân hàng của chính khách hàng. Bên cạnh đó, tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử không được cho phép khách hàng sử dụng Ví điện tử trong trường hợp Ví chưa liên kết hoặc không còn liên kết với tài khoản ngân hàng của chính khách hàng. - Trong thời hạn tối đa 07 ngày làm việc kể từ ngày Ví điện tử không còn liên kết với tài khoản ngân hàng, tổ chức phải gửi thông báo tới khách hàng đề nghị thực hiện việc liên kết theo quy định. Trường hợp sau 01 tháng kể từ ngày tổ chức thông báo, nếu khách hàng vẫn không thực hiện liên kết thì tổ chức thực hiện đóng Ví điện tử và liên hệ với khách hàng để hoàn trả tiền trên Ví điện tử cho khách hàng. Trường hợp sau thời gian 01 tháng kể từ ngày đóng Ví điện tử mà tổ chức không thể thực hiện hoàn trả tiền do nguyên nhân từ phía khách hàng thì tổ chức thực hiện theo dõi số dư còn lại trên Ví điện tử của khách hàng và phải đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả khi chủ Ví điện tử có yêu cầu. - Ví điện tử phải được liên kết với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc thẻ ghi nợ (có gắn với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam) của chính khách hàng mở tại ngân hàng liên kết. - Tổ chức cung ứng dịch vụ Ví điện tử phải thỏa thuận với ngân hàng liên kết và/hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử về quy trình, cách thức liên kết Ví điện tử với tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của chính khách hàng. - Khách hàng được liên kết Ví điện tử với một hoặc nhiều tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của chính khách hàng mở tại các ngân hàng liên kết. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/09/du-thao-thong-tu.doc Dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (Lần 01)
Chính phủ: Yêu cầu tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024
Ngày 05/4/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện 32/CĐ-TTg gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu trong năm 2024, NHNN phải tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng. Yêu cầu tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024 Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 18/CĐ-TTg ngày 05/3/2024 về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024, tuy nhiên tăng trưởng tín dụng đến tháng 3 và Quý I năm 2024 mới đạt khoảng 0,9%. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện 32/CĐ-TTg ngày 05/4/2024 gửi Thống đốc NHNN Việt Nam về các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024. Trong đó, Thủ tướng có những yêu cầu đối với NHNN như sau: 1) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan - Tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước, điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả hơn; - Thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay theo: + Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện 18/CĐ-TTg ngày 05/3/2024. + Các văn bản liên quan Nhằm ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng. - Khẩn trương thực hiện quyết liệt, hiệu quả, kịp thời các giải pháp tăng trưởng tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân; - Chỉ đạo các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế truyền thống như: + Tiêu dùng + Đầu tư + Xuất khẩu Và thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…; - Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; Tiếp tục có chính sách đột phá các gói tín dụng ưu đãi góp phần tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp, người dân. - Khẩn trương rà soát toàn diện, phân tích, đánh giá kỹ lưỡng: + Kết quả thực hiện hạn mức tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, từng ngành, từng lĩnh vực để theo thẩm quyền + Quy định của pháp luật Có biện pháp điều hành hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024 hiệu quả, khả thi, kịp thời hơn nữa, tuyệt đối không để ách tắc, chậm trễ, không đúng thời điểm, bảo đảm thực hiện được các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã đề ra trong năm 2024 và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; Trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền theo quy định. - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp phù hợp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay gắn với tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng, phục vụ, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện 18/CĐ-TTg ngày 05/3/2024. - Chỉ đạo, yêu cầu các tổ chức tín dụng: + Thực hiện công khai mặt bằng lãi suất cho vay, việc triển khai các gói tín dụng trước ngày 10 tháng 4 năm 2024 theo đúng chỉ đạo của Thường thực Chính phủ tại Thông báo 134/TB-VPCP ngày 02/4 2024; Tổ chức nào không thực hiện thì Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý nghiêm theo thẩm quyền và công khai theo quy định của pháp luật. - Tiếp tục tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số…, nỗ lực phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế cho người dân và không ngừng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. - Đẩy mạnh triển khai hiệu quả và bảo đảm công khai, minh bạch các gói tín dụng ưu đãi phù hợp với đặc thù của từng tổ chức tín dụng đối với các lĩnh vực quan trọng góp phần thúc đẩy các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; Phát huy vai trò, tăng cường trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong việc thấu hiểu, chia sẻ, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; Trên tinh thần cùng làm, cùng hưởng, cùng thắng, cùng phát triển bền vững, lâu dài. - Chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước nghiên cứu ngay việc xây dựng và cung cấp gói tín dụng cho người mua nhà ở xã hội có thời hạn đến 15 năm, lãi suất ưu đãi thấp hơn cho vay thương mại thông thường và cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư xây nhà ở xã hội vay với lãi suất ưu đãi hơn để các đối tượng có thu nhập thấp có cơ hội, động lực để mua nhà hoặc thuận lợi trong việc thuê hoặc thuê mua; Tiếp tục nghiên cứu, xem xét hạ mức lãi suất, đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho việc vay nguồn vốn hỗ trợ 120.000 tỷ đồng phù hợp tình hình thực tiễn theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 123/TB-VPCP ngày 27/3/2024. - Đẩy mạnh, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng và có giải pháp hiệu quả kịp thời xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng. 2) Phó Thủ tướng Lê Minh Khái tập trung chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan thực hiện quyết liệt, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra. 3) Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao Như vậy, theo Công điện 32/CĐ-TTg ngày 05/4/2024, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN phải có các giải pháp điều hành nhằm tăng trưởng tín dụng so với Quý I năm 2024. Tăng trưởng tín dụng là gì? Tăng trưởng tín dụng còn gọi là tốc độ tăng dư nợ tín dụng. Theo đó tăng trưởng tín dụng là phần trăm (%) hay số lần thay đổi của dư nợ tín dụng tại một thời điểm nhất định so với thời điểm trước đó. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng gồm: - Tốc độ tăng tín dụng bằng Đồng Việt Nam: loại ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. - Tốc độ tăng tín dụng bằng ngoại tệ: loại ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng bằng chỉ số phát triển dư nợ tín dụng trừ đi một hoặc một trăm. Quy định về hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024? Theo văn bản 10167/NHNN-CSTT NHNN gửi các tổ chức tín dụng về kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2024 là 15% được giao cho các ngân hàng ngay đầu năm 2024. Bám sát Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2024 khoảng 15% và linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng cung ứng nguồn vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, NHNN giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% và yêu cầu tổ chức tín dụng kiểm soát tăng trưởng tín dụng năm 2024. Như vậy, hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2024 là 15%. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng đến tháng 3 và Quý I năm 2024 mới đạt khoảng 0,9%. Vì vậy, Chính phủ đặt ra yêu cầu tăng cường các giải pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024 tại Công điện 32/CĐ-TTg ngày 05/4/2024.
“Cọc thì phải đứng im” - NHNN bác kiến nghị không phong tỏa tiền cho vay đặt cọc
Theo Báo An ninh Thủ đô đưa tin, vừa qua thực hiện góp ý đối với dự thảo Thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư 39/2016/TT-NHNN, nhiều tổ chức kiến nghị cân nhắc bỏ quy định về việc phong tỏa tiền cho vay đặt cọc. Tuy nhiên, NHNN bác kiến nghị trên vì “cọc thì phải đứng im”. Cụ thể thông tin qua bài viết dưới đây. NHNN bác kiến nghị không phong tỏa tiền cho vay đặt cọc Theo dự thảo Thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư 39/2016/TT-NHNN có quy định về sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39/2016/TT-NHNN như sau: Trường hợp cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tổ chức tín dụng cho vay thỏa thuận với khách hàng để phong tỏa số tiền cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Theo đó, việc cho vay để thanh toán đặt cọc mua thì chủ đầu tư dự án/bên nhận đặt cọc sẽ bị phong tỏa số tiền nhận cọc tại ngân hàng của bên vay (bên đặt cọc), không được sử dụng số tiền đó cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Về vấn đề này, đại diện Hiệp hội Ngân hàng cho rằng trong thực tế, do khách hàng vay khó thỏa thuận được với chủ đầu tư chấp thuận cho phong tỏa tiền tại ngân hàng của bên vay, nên quy định tại khoản này hạn chế việc vay vốn thực hiện giao dịch của khách hàng. Vì vậy, các ngân hàng đề nghị ban soạn thảo dự thảo rà soát và cân nhắc bỏ quy định này. Trả lời cho đề xuất, NHNN cho rằng “Bởi đặt cọc theo đúng nghĩa là “cọc thì phải đứng im”. Không phải cọc là dùng tiền đặt cọc để đi làm việc khác. Đại diện NHNN cũng nêu ví dụ: “Dự án 10.000 tỷ thì 95% đặt cọc là rất lớn và khi chủ đầu tư sử dụng tiền cọc đó để làm việc khác là không đúng mục đích sử dụng vốn. Hoặc khi không thu hồi được vốn do dự án không đủ điều kiện pháp lý thì việc hủy hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng vay vốn. Đồng thời, gây rủi ro cho tổ chức tín dụng, đặc biệt là tổ chức dụng cho vay trên cơ sở tiền gửi của khách hàng”. Như vậy, quan điểm của NHNN là không chấp nhận kiến nghị cân nhắc bỏ quy định phong tỏa tiền cho vay đặt cọc. Bởi quy định này đảm bảo chủ đầu tư sử dụng tiền cọc đúng mục đích, và bảo đảm quyền lợi cho khách hàng khi huỷ hợp đồng. Đồng thời, giảm thiểu rủi ro cho tổ chức tín dụng. Cho vay đặt cọc là gì? Các quy định hiện hành về thẩm định, giám sát cho vay đặt cọc? Đặt cọc là gì? Theo Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đặt cọc như sau:: - Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. - Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, đặt cọc là khi giao kết hợp đồng, bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc tài sản đặt cọc (thông thường là tiền) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết, thực hiện hợp đồng. Cho vay đặt cọc là gì? Theo như quy định về đặt cọc ở trên, đặt cọc là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, cho vay đặt cọc là việc ngân hàng cho tổ chức/cá nhân vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Các quy định hiện hành về thẩm định, giám sát cho vay đặt cọc Theo điểm b Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39/2016/NHNN sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 06/2023/TT-NHNN quy định về quy trình thẩm định, phê duyệt và quyết định cho vay, trong đó quy định cụ thể: - Thời hạn tối đa thẩm định, quyết định cho vay; phân cấp, ủy quyền và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thẩm định, phê duyệt, quyết định cho vay, bao gồm quy định đối với cho vay bằng phương tiện điện tử theo quy định tại Điều 32đ Thông tư Thông tư 39/2016/NHNN (nếu có); các công việc khác thuộc quy trình thẩm định, phê duyệt và quyết định cho vay; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, phải có biện pháp phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên tại thỏa thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm; Theo điểm c Khoản 2 Điều 22 Thông tư 39/2016/NHNN sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 06/2023/TT-NHNN quy định về quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng, trong đó quy định cụ thể: - Phân cấp, ủy quyền và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án, có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích; - Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo thu hồi được vốn cho vay trong trường hợp các bên không thực hiện đúng thỏa thuận nghĩa vụ bảo đảm; Đồng thời, theo Khoản 5 Điều 26 Thông tư 39/2016/NHNN bổ sung bởi Thông tư 06/2023/TT-NHNN quy định như sau: Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tổ chức tín dụng phải phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên tại thỏa thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Như vậy, hiện nay khi ngân hàng cho vay đặt cọc cần phải có biện pháp phong tỏa số tiền đặt cọc tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Trong quá trình kiểm tra, giám sát phải đảm bảo thu hồi được vốn cho vay trong trường hợp các bên không thực hiện đúng thỏa thuận nghĩa vụ bảo đảm.
14 ngân hàng quan trọng năm 2024 được NHNN phê duyệt
Theo Báo Nhân Dân điện tử đưa tin, vừa qua NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định 538/QĐ-NHNN, phê duyệt nhóm tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài quan trọng trong năm 2024 trong hệ thống. 14 ngân hàng quan trọng năm 2024 Trong nhóm các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tầm quan trọng trong hệ thống năm 2024 tại Quyết định 538/QĐ-NHNN có 14 ngân hàng thương mại. Các ngân hàng này bao gồm: - 04 ngân hàng trong nhóm Big4: + Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) + Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) + Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) + Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). - Còn lại gồm 10 ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân: + Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) + Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (LPBank) + Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) + Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) + Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) + Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) + Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB + Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) + Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) + Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank). Các ngân hàng trên được NHNN yêu cầu Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN các chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện theo dõi, giám sát chặt chẽ, cảnh báo kịp thời các nguy cơ rủi ro trong hoạt động để ngăn ngừa rủi ro có tính trọng yếu, rủi ro mang tính hệ thống. Hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Cơ quan thanh tra, Giám sát ngân hàng là gì? Theo Điều 49 Luật NHNN Việt Nam 2010 được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 64 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng. Theo Khoản 1 Điều 7 Nghị định 26/2014/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 43/2019/NĐ-CP cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị tương đương Tổng cục, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, thực hiện chức năng: - Tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, bảo hiểm tiền gửi; - Tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; - Thực hiện phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống tổ chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng Theo Điều 6 Nghị định Nghị định 26/2014/NĐ-CP sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Nghị định 43/2019/NĐ-CP quy định thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng là cơ quan thanh tra nhà nước, được tổ chức thành hệ thống gồm: - Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. - Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng Theo Điều 8 Nghị định 26/2014/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Nghị định 43/2019/NĐ-CP chức danh của người đứng đầu của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng. Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn sau: - Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra, giám sát trong phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. - Chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; Phối hợp với Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Ra quyết định thanh tra, thành lập đoàn thanh tra đối với đối tượng thanh tra ngân hàng thuộc phạm vi quản lý của NHNN theo phân công của Thống đốc NHNN hoặc theo yêu cầu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, gồm: + Các cuộc thanh tra hành chính, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng + Các cuộc thanh tra chuyên ngành lớn, phức tạp, các cuộc thanh tra lại hoặc khi xét thấy cần thiết; + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra; + Đề nghị Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh cử thanh tra viên ngân hàng, công chức khác tham gia đoàn thanh tra; + Trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia đoàn thanh tra. - Quyết định việc thanh tra: + Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra ngân hàng + Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa đến sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài Chịu trách nhiệm trước Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quyết định của mình. - Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa đến sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, yêu cầu Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tiến hành thanh tra đối với đối tượng thanh tra ngân hàng đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phân công thực hiện; Trường hợp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quyết định của mình. - Xem xét xử lý hoặc đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xử lý những vấn đề mà Chánh Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh không nhất trí với Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ về thanh tra, giám sát được giao. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sai trái về thanh tra, giám sát của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giải quyết vấn đề liên quan đến công tác thanh tra, giám sát; trường hợp kiến nghị về thanh tra không được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ. - Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra, giám sát. - Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét trách nhiệm, xử lý: + Người thuộc quyền quản lý của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật được phát hiện qua thanh tra, giám sát . + Không thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, giám sát; Yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý: + Người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra, giám sát + Không thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, giám sát. - Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định theo thẩm quyền và tổ chức triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước. - Báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra trong phạm vi trách nhiệm được giao; Báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về các mặt công tác khác của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. - Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. - Quyết định việc thanh tra viên ngân hàng, công chức khác thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng tiến hành các cuộc làm việc, tiếp xúc trực tiếp đối tượng giám sát ngân hàng. - Quyết định mức độ giám sát đối với các đối tượng giám sát ngân hàng, trừ trường hợp do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định. - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật hoặc được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giao. Trên đây là toàn bộ thông tin về 14 ngân hàng quan trọng được NHNN phê duyệt tại Quyết định 538/QĐ-NHNN, yêu cầu kiểm tra, giám sát chặt chẽ năm 2024. Đồng thời, bài viết cũng cung cấp thông tin về cơ cấu tổ chức, hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Người đọc có thể theo dõi để có cho mình những cập nhật mới nhất. Nguồn: Báo Nhân Dân điện tử
Chuyển tiền trên 10 triệu phải có xác nhận vân tay, khuôn mặt từ 1/7
Sắp tới đây, các giao dịch chuyển khoản có giá trị trên 10 triệu sẽ phải có xác nhận vân tay hoặc khuôn mặt để thực hiện giao dịch. Nhà nước đưa ra quy định này nhắm đến nhiều mục tiêu, giảm thiểu rủi ro người dân bị lừa đảo trên không gian mạng. (1) Chuyển tiền dưới 10 triệu, nhưng tổng 1 ngày trên 20 triệu thì phải xác thực vân tay, khuôn mặt. Từ 1/7 các giao dịch chuyển khoản trên 10 triệu phải được xác thực sinh trắc học bằng vân tay hoặc khuôn mặt, cụ thể theo Quyết định 2345/QĐ-NHNN, các giao dịch chuyển tiền dưới 10 triệu, một ngày không quá 20 triệu thì xác thực bằng mã OTP, không cần xác thực bằng vân tay hoặc khuôn mặt. Nếu chuyển tiền dưới 10 triệu đồng/lần nhưng tổng số tiền các giao dịch trong ngày đã chạm mốc 20 triệu thì đến lần chuyển tiếp theo trong ngày đó phải xác thực bằng khuôn mặt, vân tay, dù lần tiếp theo đó có chuyển bao nhiêu đi nữa. Như vậy, đối với các giao dịch trên 10 triệu hoặc hạn mức trong ngày đã chạm mốc 20 triệu thì người dùng cần phải xác thực sinh trắc học mới có thể thực hiện được giao dịch. Theo Điều 2 của Quyết định 2345/QĐ-NHNN, khách hàng cá nhân trước khi giao dịch lần đầu bằng ứng dụng ngân hàng (mobile banking) hoặc trước khi giao dịch trên thiết bị khác với thiết bị đang giao dịch lần gần nhất, cũng phải được nhận dạng sinh trắc học. (2) Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ phải triển khai các giải pháp giảm thiểu rủi ro. Cụ thể tại Điều 3 Quyết định 2345/QĐ-NHNN, Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ phải triển khai các giải pháp giảm thiểu rủi ro như sau: - Thông báo giao dịch qua tin nhắn SMS hoặc thư điện tử. - Thiết lập hạn mức giao dịch trong ngày. - Thiết lập tính năng cho phép/ không cho phép thanh toán trực tuyến. - Thiết lập hạn mức thanh toán thẻ trực tuyến trong ngày. - Thiết lập tính năng cho phép/ không cho phép thanh toán ở nước ngoài (ngoại trừ các giao dịch trực tuyến). - Triển khai giải pháp xác thực 3D Secure (hoặc tương đương) cho việc thanh toán trực tuyến với thẻ quốc tế. Ngoài ra, phải thực hiện việc thông báo khi khách hàng đăng nhập lần đầu ứng dụng Internet Banking/ Mobile Banking hoặc khi đăng nhập ứng dụng Internet Banking/ Mobile Banking trên thiết bị khác với thiết bị thực hiện đăng nhập ứng dụng Internet Banking/ Mobile Banking lần gần nhất qua SMS hoặc các kênh khác do khách hàng đăng ký (email, điện thoại,…). (3) Ý nghĩa của việc xác thực bằng sinh trắc học Thời gian gần đây các vụ lừa đảo, lừa tiền trên mạng xảy ra rất nhiều, nạn nhân của các vụ bị lừa tiền trên mạng vẫn tăng dù cho Nhà nước đã có thông báo, cảnh báo gửi đến người dân thông qua nhiều phương tiện. Nhận dạng, xác thực qua sinh trắc học là biện pháp tối ưu nhất hiện nay để giảm hạn chế tối đa làm giả và có tính bảo mật rất cao. Người dùng cần phải soi khuôn mặt của mình vào điện thoại, nhìn lên xuống để hệ thống nhận diện và đảm bảo đây là hình ảnh sống, sau đó khuôn mặt của người chuyển tiền sẽ được đối chiếu với dữ liệu sinh trắc học từ CCCD gắm chip do Bộ Công an quản lý. Mục đích của việc phải xác thực khuôn mặt là đảm bảo chính chủ đang thực hiện giao dịch. Do đó, khách hàng lỡ chuyển tiền vào tài khoản của những đối tượng lừa đảo có thể lấy lại được tiền, hay trường hợp kẻ gian dùng tài khoản của mình để chuyển tiền thì công an sẽ nhanh chóng xác định được danh tính qua đối chiếu với thông tin trên căn cước gắn chip.
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Thông tư 02/2023/TT-NHNN liệu có được kéo dài thời hạn?
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Điều kiện để cơ cấu thời hạn trả nợ là gì? Thông tư 02/2023/TT-NHNN liệu có được kéo dài thời hạn? Bài viết sau sẽ giải đáp những thắc mắc nêu trên. (1) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Căn cứ theo Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ như sau: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, Cụ thể: Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Ngân hàng sẽ kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ cho một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay của bạn. Số kỳ hạn trả nợ có thể thay đổi hoặc giữ nguyên. Gia hạn nợ: Ngân hàng sẽ kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ cho nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay của khách hàng. Khoảng thời gian này sẽ vượt quá thời hạn cho vay đã thỏa thuận ban đầu. Như vậy, hiểu đơn giản thì cơ cấu lại thời hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng (ngân hàng) chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khoản vay của khách hàng. (2) Điều kiện để cơ cấu lại thời hạn trả nợ là gì? Cụ thể, theo Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-NHNN các tổ chức tài chính sẽ xem xét quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ dựa trên cơ sơ đề nghị của khách hàng, khả năng tài chính của tổ chức tín dụng và khả năng đáp ứng các điều kiện của khách hàng như sau: - Dư nợ gốc phát sinh trước ngày 24/04/2023 và từ hoạt động cho vay, cho thuê tài chính. - Phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ 24/04/2023 đến hết ngày 30/6/2024. - Số dư nợ của khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ còn trong hạn hoặc quá hạn đến 10 (mười) ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, thời hạn trả nợ theo hợp đồng, thỏa thuận. - Được đánh giá bởi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận do doanh thu, thu nhập sụt giảm so với doanh thu, thu nhập tại phương án trả nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận. - Được đánh giá là có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại. - Khoản nợ không vi phạm pháp luật - Thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ (kể cả trường hợp gia hạn nợ) được xác định phù hợp với mức độ khó khăn của khách hàng và không vượt quá 12 tháng kể từ ngày đến hạn của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. - Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng theo quy định tại Thông tư 02/2023/TT-NHNN được thực hiện kể từ ngày 24/04/2023 đến hết ngày 30/6/2024. (3) Kéo dài thời hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN? Từ giải thích từ mục (2), có thể thấy việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng chỉ được thực hiện đến hết ngày 30/06/2024. Tuy nhiên, kể từ khi được ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp giảm bớt áp lực trả nợ vay gặp khó khăn về dòng tiền, thu nhập và doanh thu sụt giảm do phát sinh từ thị trường, tiêu thụ sản phẩm và trong hoạt động sản xuất kinh doanh... Doanh nghiệp được gia hạn nợ, giãn nợ, mà không bị chuyển nhóm nợ, giúp doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ vay mà vẫn tiếp cận được nguồn vốn thuận lợi để vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất, phục hồi và phát triển. Chính vì thế, nhiều tổ chức tín dụng đã kiến nghị kéo dài thêm thời hạn của Thông tư 02/2023/TT-NHNN. Trả lời cho những kiến nghị này, Phó Thống đốc NHNN ông Đào Minh Tú trong năm 2024, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định của Thông tư 02/2023/TT-NHNN Tuy nhiên, việc kéo dài thời hạn thêm bao lâu cần phải được xem xét kỹ.
NHNN yêu cầu Eximbank nộp báo cáo xử lý việc sau 11 năm lãi gộp lên 8,8 tỷ trước 21/03
Liên quan đến việc thẻ tín dụng nợ gốc 8,5 triệu, sau 11 năm lãi gộp lên 8,8 tỷ. Ngày 19/03/2024, NHNN đã có văn bản yêu cầu Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Eximbank bố trí lãnh đạo trả lời trực tiếp hoặc qua thông tin với các cơ quan báo chí, dư luận xã hội về trách nhiệm, quyền hạn và phương hướng xử lý. (1) Nguồn gốc sự việc Trước đó, Eximbank AMC đã gửi công văn cho khách hàng tên P.A.H thông báo về nghĩa vụ phải thanh toán của khách hàng tạm tính đến ngày 31/10/2023 là 8,8 tỷ đồng. Trong đó, bao gồm nợ gốc là 8.554.625 đồng và nợ lãi là 8.830.314.924 đồng. Vụ việc sau đó được anh P.A.H chia sẻ lên mạng xã hội và nhanh chóng lan truyền với tốc độ chóng mặt. Nhiều ý kiến bình luận đa chiều, gay gắt về vụ việc liên quan đến cách tính lãi của Eximbank như lãi suất ước tính khoảng gần 70%/năm hay kêu gọi tẩy chay, không tiếp tục sử dụng các sản phẩm dịch vụ của Eximbank và thẻ tín dụng của các ngân hàng khác. (2) NHNN yêu cầu Eximbank nộp báo cáo xử lý vụ việc trước ngày 21/03/2024 Để kịp thời giải quyết vấn đề đang được dư luận quan tâm, Thống đốc NHNN đã yêu cầu phía Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc Eximbank ngay trong ngày 19/03/2024 phải thực hiện bố trí lãnh đạo để trực tiếp trả lời hoặc thông tin với các cơ quan báo chí và dư luận xã hội về trách nhiệm, quyền hạn và phương hướng xử lý vụ việc với tinh thần cầu thị, lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý của người dân. Bên cạnh đó, đề nghị Eximbank triển khai các chương trình truyền thông cụ thể để hướng dẫn, giới thiệu cách thức sử dụng các dịch vụ tài chính ngân hàng nói chung, dịch vụ thẻ ngân hàng nói riêng tới công chúng, giúp người dân nắm rõ các quy định, sử dụng đúng, hiệu quả, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng. Cuối cùng, NHNN yêu cầu phía Eximbank phải khẩn trương xác minh vụ việc, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của khách hàng và ngân hàng. Văn bản báo cáo kết quả xử lý vụ việc phải được gửi đến Thống đốc NHNN qua Văn phòng NHNN, Vụ Truyền thông trước ngày 21/03/2024. Tiếp nhận yêu cầu nêu trên, đến cuối ngày 19/03/2024, đại diện Eximbank đã gặp gỡ khách hàng P.H.A tại Hà Nội. Hiện các thông tin chi tiết về các nội dung thỏa thuận hiện chưa được công bố cụ thể. Chỉ được biết qua chia sẻ của Luật sư Tạ Anh Tuấn (Giám đốc công ty Luật TNHH Emmelaw-Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) - người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho anh H.A rằng tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi thẳng thắn trên tinh thần hợp tác, thấu hiểu và chia sẻ. Các bên cùng thống nhất phối hợp giải quyết vụ việc, đảm bảo quyền lợi hợp lý hợp tình cho cả hai bên trong thời gian sớm nhất. Xem thêm các bài viết: Vụ nợ tín dụng 8,8 tỷ của Eximbank, liệu ngân hàng còn thời hiệu khởi kiện? Cách tính lãi của thẻ tín dụng? Có những lưu ý nào cần phải biết? Thẻ ngân hàng không dùng nữa có bị tính phí không? Khi nào thì bị xếp vào diện nợ xấu? Hướng dẫn kiểm tra nợ xấu Online bằng CIC năm 2024
NHNN đề xuất loại Tổ chức tín dụng khác khỏi đối tượng tham gia giao dịch môi giới tiền tệ
Vừa qua, NHNN công bố Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT-NHNN quy định hoạt động môi giới tiền tệ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể như sau. (1) Loại bỏ Tổ chức tài chính khác khỏi các đối tượng tham gia giao dịch môi giới tiền tệ Cụ thể, theo Dự thảo Thông tư, Ngân hàng Nhà nước đề xuất sửa đổi các đối tượng áp dụng được quy định tại Khoản 2 Điều 2 Thông tư 17/2016/TT-NHNN như sau: Thông tư 17/2016/TT-NHNN Dự thảo Thông tư Khách hàng được môi giới tiền tệ (sau đây gọi là khách hàng) là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính khác. Khách hàng được môi giới tiền tệ (sau đây gọi là khách hàng) là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, Dự thảo Thông tư đề xuất sửa đổi, bổ sung định nghĩa của môi giới tiền tệ, như sau: “Môi giới tiền tệ là việc làm trung gian có thu phí môi giới để thu xếp thực hiện các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định tại Điều 5 Thông tư này giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” Đồng thời, Dự thảo cũng đề xuất bãi bỏ Khoản 2 Điều 3 Thông tư 17/2016/TT-NHNN. Tức là các đối tượng tham gia vào việc môi giới tiền tệ theo Dự thảo chỉ bao gồm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng quy định về Tổ chức tài chính khác. Chính vì thế mà Khoản 3 Điều 4 Thông tư 17/2016/TT-NHNN là không còn cần thiết và sẽ được loại bỏ. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc điều chỉnh lại đối tượng áp dụng (bỏ tổ chức tài chính khác không phải là ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) và Môi giới tiền tệ như đã nêu trên để nhằm mục đích phù hợp với quy định về môi giới tiền tệ tại Khoản 20 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2024. (2) Điều chỉnh phương thức thực hiện môi giới tiền tệ Cụ thể, Dự thảo Thông tư đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 6 Thông tư 17/2016/TT-NHNN quy định về phương thức thực hiện môi giới tiền tệ như sau: Bên môi giới có thể thực hiện hoạt động môi giới tiền tệ với khách hàng thông qua giao dịch trực tiếp hoặc giao dịch điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử 2023. Theo lý giải của Ngân hàng Nhà nước, việc thay thế cụm từ “hoặc gián tiếp qua mạng máy vi tính và/hoặc điện thoại hoặc các phương thức khác do các bên thỏa thuận phù hợp với Điều kiện của các bên, tuân thủ quy định của pháp luật” bằng “hoặc giao dịch điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử” nhằm mục đích phù hợp với Luật Giao dịch điện tử và tình hình thực tiễn. Bởi theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định về Giao dịch điện tử và Phương tiện điện tử như sau: - Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử. - Phương tiện điện tử là phần cứng, phần mềm, hệ thống thông tin hoặc phương tiện khác hoạt động dựa trên công nghệ thông tin, công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ khác tương tự. Hiện tại, Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT-NHNN đã được Ngân hàng Nhà nước công bố tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ nhằm trưng cầu ý kiến đóng góp của các cá nhân, tổ chức và cơ quan trong và ngoài nước. Xem và tải về Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT-NHNN tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/12/du-thao-sua-doi-thong-tu-172016.doc
Đề xuất điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa mới của NHNN
NHNN đang lấy ý kiến về Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (1) Hồ sơ đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn Cụ thể, theo Dự thảo quyết định, để được chấp thuận khoản cấp tín dụng vượt giới hạn khách hàng và các tổ chức tín dụng cần đáp ứng những điều kiện như sau: Đối với khách hàng: - Đáp ứng đủ điều kiện cấp tín dụng theo quy định. Không có nợ xấu trong vòng 03 năm, tính từ năm đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn. Hệ số nợ phải trả không quá 03 lần vốn chủ sở hữu được ghi trên báo cáo tài chính quý/năm gần nhất. - Cần vốn để thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh góp phần thực hiện nhiệm vụ KT-XH của đất nước, bao gồm: + + Các chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. + Đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển KT-XH trong từng thời kỳ. - Tính khả thi: + Dự án, phương án đã được tổ chức tín dụng thẩm định. + Khách hàng có khả năng trả nợ và quyết định cấp tín dụng. + Đáp ứng các quy định hiện hành về đầu tư và xây dựng. + Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sản xuất kinh doanh và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đối với tổ chức tín dụng: - Trường hợp cấp tín dụng hợp vốn: + Đã đề xuất và thực hiện các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật về việc cấp tín dụng hợp vốn với dự án, phương án mà khả năng hợp vốn của các tổ chức tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng. + Đã phát hành thư mời hợp vốn tới ít nhất 5 tổ chức tín dụng khác hoặc đăng trên trang thông tin điện tử của tổ chức hoặc các phương tiện khác ít nhất 30 ngày nhưng không có tổ chức tín dụng nào tham gia hợp vốn. - Đáp ứng các yêu cầu về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 và các văn bản sửa đổi, bổ sung (nếu có). - Thực hiện đầy đủ các yêu cầu liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ được nêu tại hồ sơ đề nghị và các văn bản phê duyệt trước đó. - Đảm bảo tuân thủ quy định về giới hạn cấp tín dụng tại khoản 8 Điều 136 Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 (bao gồm cả khoản cấp tín dụng vượt giới hạn đang đề nghị). (2) Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn Hồ sơ báo cáo NHNN: bao gồm: - Văn bản của tổ chức tín dụng đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp tín dụng vượt giới hạn theo Mẫu đính kèm Dự thảo Quyết định. - Hồ sơ, tài liệu chứng minh đã đáp ứng các điều kiện nêu tại mục (1) - Văn bản thẩm định của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, dự án, phương án vay vốn của khách hàng. - Văn bản phê duyệt cấp tín dụng đối với khách hàng của cấp có thẩm quyền của tổ chức tín dụng đề nghị. - Văn bản đề nghị được cấp tín dụng tại tổ chức tín dụng của khách hàng. - Các hồ sơ pháp lý liên quan đến khách hàng gồm: + Giấy phép thành lập hoặc Giấy CNĐK doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương. + Báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong vòng 03 năm tính từ năm đề nghị và các tài liệu liên quan khác. - Hồ sơ pháp lý liên quan đến dự án, phương án gồm: Giấy CNĐK đầu tư hoặc văn bản phê duyệt, chấp thuận dự án, phương án của cấp có thẩm quyền và các tài liệu liên quan khác. - Báo cáo về tình hình quan hệ tín dụng và nhu cầu cấp tín dụng vượt giới hạn của một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan theo Mẫu biểu số 01 tại Phụ lục đính kèm Dự thảo Quyết định. Hồ sơ NHNN báo cáo Thủ tướng Chính phủ: gồm 01 tờ trình và các tài liệu như sau: - Văn bản của tổ chức tín dụng đề nghị NHNN báo cáo Chính phủ cho phép cấp tín dụng vượt giới hạn. - Văn bản tham gia ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương có liên quan. - Văn bản giải trình của tổ chức tín dụng, khách hàng (nếu có). - Các tài liệu liên quan khác (nếu có). (3) Thủ tục xem xét cấp tín dụng vượt thời hạn Gửi hồ sơ: Sau khi đã chuẩn bị 01 bộ hồ như đã nêu tại mục (2), tổ chức tín dụng gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp tại Bộ phận một cửa. Thời hạn giải quyết: - Trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, NHNN gửi văn bản xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương có liên quan đến Dự án, phương án và khách hàng đề nghị. - Các bộ, ngành, địa phương nêu trên trong vòng 10 ngày có ý kiến bằng văn bản về các nội dung thuộc lĩnh vực quản lý của đơn vị mình gửi lại cho NHNN. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu tổ chức tín dụng, khách hàng giải trình về các vấn đề có liên quan (nếu có). - Sau khi nhận ý kiến của bộ, ngành hoặc ý kiến giải trình của tổ chức tín dụng như đã nêu trên NHNN sẽ kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ của hồ sơ cấp tín dụng vượt giới hạn do tổ chức tín dụng cung cấp: + Trường hợp hồ sơ của tổ chức tín dụng không đáp ứng được các điều kiện tại Điều 3 Dự thảo Quyết định, NHNN có văn bản thông báo cho tổ chức tín dụng trong đó ghi rõ điều kiện mà tổ chức tín dụng chưa đáp ứng được. + Trường hợp hồ sơ của tổ chức tín dụng đã hợp lệ, đáp ứng điều kiện tại Điều 3 Dự thảo Quyết định, NHNN trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đối với đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn của tổ chức tín dụng. - Căn cứ đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn của tổ chức tín dụng, ý kiến của NHNN và các Bộ, ngành, địa phương, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến bằng văn bản đối với đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn của tổ chức tín dụng. Xem và tải về Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/08/du-thao-qdttg-tin-dung.doc
07 nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và vàng năm 2024
NHNN Việt Nam ngày 15/01/2024, đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN năm 2024 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2024. Theo đó, 07 nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và vàng của NHNN được đặt ra như sau: (1) Điều hành tỷ giá linh hoạt ổn định thị trường ngoại tệ Theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành các công cụ CSTT chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Chủ động đề xuất, xử lý các vấn đề phát sinh theo thẩm quyền của Thống đốc hoặc trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội, Trung ương những vấn đề vượt thẩm quyền. Trong đó: - Điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, bám sát mục tiêu CSTT. Tái cấp vốn đối với TCTD để hỗ trợ thanh khoản, cho vay các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu. - Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường, kinh tế vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT; khuyến khích các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục cho vay, tăng cường ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số vào quy trình cho vay, tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Chỉ đạo các TCTD công bố công khai và chịu trách nhiệm về lãi suất cho vay bình quân của từng TCTD và chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân trên website của từng TCTD. - Điều hành tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. (2) Tăng trưởng tín dụng của các TCTD đạt 15% trong năm 2024 Thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Giao hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% của năm 2024 ngay từ đầu năm cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng. (3) 05 chỉ đạo các tổ chức tín dụng NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng: (i) Tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế (tiêu dùng, xuất khẩu, đầu tư) theo chủ trương của Chính phủ; (ii) Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; (iii) Rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; (iv) Tháo gỡ và thúc đẩy mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu phục vụ đời sống, tiêu dùng, bảo đảm hoạt động cho vay an toàn, hiệu quả, góp phần hạn chế “tín dụng đen”; (v) Chấm dứt tình trạng cấp tín dụng tập trung vào một số doanh nghiệp, nhóm khách hàng lớn (đặc biệt là các khách hàng có liên quan đến lợi ích của chủ sở hữu ngân hàng). (4) Quyết liệt triển khai 120 nghìn tỷ đồng cho vay phát triển nhà ở xã hội Tiếp tục chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; phối hợp với các Bộ, ngành kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục thực hiện các giải pháp kịp thời, linh hoạt để triển khai quyết liệt chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho vay phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ; chương trình tín dụng 15 nghìn tỷ đồng cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản. (5) Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ được giao của ngành Ngân hàng tại các Chương trình mục tiêu quốc gia. Trong đó, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn trong việc triển khai Nghị định 28/2022/NĐ-CP về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia tại các địa phương được phân công theo chương trình công tác năm 2024. (6) Hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế Theo dõi sát thị trường vàng để có các giải pháp quản lý phù hợp nhằm hạn chế tác động của giá vàng đến sự ổn định của thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô, hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế. Trong tháng 1/2024, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo tổng kết Nghị định 24/2012/NĐ-CP, trong đó có đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định quản lý thị trường vàng để phù hợp với bối cảnh mới của thị trường. (7) Nâng cao chất lượng công tác thống kê, điều tra thống kê, phân tích, dự báo Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thống kê, điều tra thống kê, phân tích, dự báo phục vụ công tác hoạch định, chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tích cực và chủ động phối hợp hiệu quả với các Bộ, ngành, đơn vị liên quan trong việc cung cấp, trao đổi thông tin, số liệu để lập, phân tích và dự báo cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, phục vụ công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và điều hành vĩ mô của Chính phủ. Xem thêm Chỉ thị 01/CT-NHNN năm 2024 có hiệu lực từ ngày 15/01/2024.
NHNN điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với tổ chức tín dụng
NHNN đã có văn bản gửi các tổ chức tín dụng (TCTD) thông báo mức tăng trưởng tăng thêm cho các TCTD công khai, minh bạch theo các nguyên tắc và tiêu chí cụ thể. Theo đó, các TCTD có dư nợ tín dụng đến nay đạt đến 80% chỉ tiêu tín dụng đã được thông báo thì sẽ được chủ động bổ sung hạn mức tăng thêm dựa trên cơ sở xếp hạng năm 2022. Đến 22/11/2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống mới đạt 8,21% NHNN Việt Nam cho biết, bám sát Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm hỗ trợ thúc đẩy phục hồi tăng trưởng kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tại Chỉ thị ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước xác định mức tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14-15% và được linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng cung ứng nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế. Đến tháng 7/2023, Ngân hàng Nhà nước đã phân bổ hạn mức tín dụng cho toàn hệ thống tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với tổng mức tăng trưởng 14,5%. Tuy nhiên, 11 tháng qua cho thấy tăng trưởng kinh tế còn gặp khó khăn, sức hấp thụ vốn và cầu tín dụng của nền kinh tế còn yếu nên đến ngày 22/11/2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống mới đạt 8,21%, thấp hơn so với chỉ tiêu định hướng đầu năm. Bên cạnh đó, mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng không đồng đều, một số tổ chức tín dụng tăng trưởng khá cao, một số tổ chức tín dụng tăng trưởng thấp, thậm chí tăng trưởng âm. Đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng phục vụ nhu cầu vốn cho quá trình phục hồi, tăng trưởng kinh tế Do đó, để kịp thời linh hoạt điều hành, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng phục vụ nhu cầu vốn cho quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chủ động linh hoạt điều hòa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong toàn hệ thống từ tổ chức tín dụng không sử dụng hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sang các tổ chức tín dụng cần được tiếp tục mở rộng tăng trưởng tín dụng. Đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành để tăng trưởng tín dụng trong năm 2023 không vượt quá chỉ tiêu đã xác định song vẫn đảm bảo dư địa tăng trưởng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế và an toàn hệ thống tổ chức tín dụng. Ngày 29/11/2023, NHNN đã có văn bản gửi các tổ chức tín dụng thông báo mức tăng trưởng tăng thêm cho các tổ chức tín dụng công khai, minh bạch theo các nguyên tắc và tiêu chí cụ thể. Theo đó, các tổ chức tín dụng có dư nợ tín dụng đến nay đạt đến 80% chỉ tiêu tín dụng đã được thông báo thì sẽ được chủ động bổ sung hạn mức tăng thêm dựa trên cơ sở xếp hạng năm 2022. Đồng thời ưu tiên thêm cho những tổ chức tín dụng tập trung tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ và hạ lãi suất cho vay xuống mức thấp trong thời gian vừa qua. Việc bổ sung hạn mức này là sự chủ động của NHNN mà các tổ chức tín dụng không cần thiết phải đề nghị hoặc xin bổ sung. Yêu cầu các tổ chức tín dụng cấp tín dụng an toàn, lành mạnh Đồng thời, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng cấp tín dụng an toàn, lành mạnh, hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực quản lý rủi ro, khả năng huy động vốn, cũng như cân đối đủ nguồn vốn để cấp tín dụng. Tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất huy động và tích cực giảm lãi suất cho vay, hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân, doanh nghiệp. Tăng cường rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay, vừa đảm bảo tuân thủ quy định, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận tín dụng ngân hàng, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh. Từ nay đến hết năm, NHNN tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường để có các giải pháp điều hành kịp thời, phù hợp, chủ động bổ sung hạn mức, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp Liên quan đến công tác chỉ đạo về tín dụng, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã Công điện về điều hành tăng trưởng tín dụng những tháng cuối năm 2023. Công điện gửi Thống đốc NHNN Việt Nam nêu: Tại Nghị quyết 97/NQ-CP năm 2023, Thông báo 225/TB-VPCP năm 2023, Chính phủ, Thường trực Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xác định hạn mức tăng trưởng tín dụng cần thiết, hợp lý trong năm 2023, phân bổ hết hạn mức tín dụng và thông báo công khai ngay trong tháng 6 năm 2023 để các tổ chức tín dụng chủ động mở rộng tín dụng từ nay đến hết năm 2023; chú ý đến tín dụng bất động sản và tín dụng sản xuất kinh doanh nhằm hỗ trợ thị trường, góp phần khôi phục và khơi thông dòng vốn đầu tư và kinh doanh cho nền kinh tế. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành tín dụng và quyết liệt thực hiện các chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ về tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: NHNN chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành tăng trưởng tín dụng Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rút kinh nghiệm việc điều hành tăng trưởng tín dụng chậm năm 2022, khẩn trương rà soát toàn diện kết quả cấp tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, từng ngành, từng lĩnh vực; kết quả cấp tín dụng của từng tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại đến thời điểm hiện tại để theo thẩm quyền và quy định của pháp luật có biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2023 kịp thời, hiệu quả, khả thi, bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng phục vụ nền kinh tế và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, tuyệt đối không để tắc nghẽn, ách tắc, chậm trễ, không đúng thời điểm. Trường hợp có nội dung vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền theo quy định; chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành tăng trưởng tín dụng. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình, kết quả thực hiện trước ngày 01/12/2023. Thứ hai, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Phó Thủ tướng Lê Minh Khái theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc xử lý theo thẩm quyền. Thứ ba, Thủ tướng Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao; báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
Thông tư 14/2023/TT-NHNN: Quy định mới quản lý nội bộ về rủi ro tín dụng
Ngày 20/11/2023 Thống đốc NHNNVN đã ban hành Thông tư 14/2023/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. (1) Yêu cầu, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng Tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải xây dựng chiến lược quản lý rủi ro tín dụng tối thiểu bao gồm các nội dung sau đây: - Tỷ lệ nợ xấu mục tiêu, tỷ lệ cấp tín dụng xấu mục tiêu. - Nguyên tắc xác định chi phí bù đắp rủi ro tín dụng trong phương pháp tính lãi suất, định giá sản phẩm tín dụng (pricing) theo mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. - Nguyên tắc áp dụng các biện pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng (bao gồm cả thẩm quyền phê duyệt các biện pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng). (2) Hạn mức rủi ro tín dụng - Tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải ban hành hạn mức rủi ro tín dụng đảm bảo tuân thủ các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng phi ngân hàng tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Hạn mức rủi ro tín dụng tối thiểu bao gồm các hạn mức sau đây: + Hạn mức cấp tín dụng đối với đối tượng khách hàng trên cơ sở khả năng trả nợ của khách hàng; + Hạn mức cấp tín dụng theo sản phẩm. - Hạn mức rủi ro tín dụng phải được rà soát, đánh giá lại (điều chỉnh nếu cần thiết) tối thiểu 01 năm một lần theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. (3) Theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng - Tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải theo dõi, kiểm soát rủi ro tín dụng đối với từng khoản cấp tín dụng và toàn bộ danh mục cấp tín dụng và có biện pháp xử lý khi chất lượng tín dụng bị suy giảm, tối thiểu đảm bảo các yêu cầu sau đây: + Theo dõi kết quả phân loại nợ của khoản cấp tín dụng; + Đánh giá mức độ đầy đủ của dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Việc theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng tối thiểu bao gồm các nội dung sau đây: + Vai trò và trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận thực hiện theo dõi, kiểm soát rủi ro tín dụng; + Thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng; + Kiểm soát rủi ro tín dụng theo hạn mức rủi ro tín dụng được phân bổ đối với danh mục các khoản cấp tín dụng theo đối tượng khách hàng và theo sản phẩm; + Tiêu chí đánh giá và phương pháp xác định mức độ suy giảm chất lượng tín dụng của từng danh mục cấp tín dụng; cơ chế cảnh báo sớm khi có nguy cơ chất lượng tín dụng của khách hàng bị suy giảm. (4) Phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng Tổ chức tín dụng phi ngân hàng thực hiện phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng đảm bảo: - Thẩm quyền phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng phải được xác định theo các tiêu chí định lượng, định tính. - Trường hợp phê duyệt theo cơ chế hội đồng, hội đồng phê duyệt phải có biên bản phê duyệt hoặc hình thức tương đương, trong đó nêu rõ lý do phê duyệt hoặc không phê duyệt và ghi nhận (hoặc đính kèm) ý kiến của các thành viên hội đồng. Thành viên hội đồng phê duyệt phải chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình. - Thông tin cung cấp để phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng phải đầy đủ, phù hợp với quy mô, loại hình cấp tín dụng và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Quy định về danh mục thông tin làm cơ sở để phê duyệt quyết định có rủi ro tín dụng phải được bộ phận quản lý rủi ro đánh giá đảm bảo thực hiện hiệu quả việc quản lý rủi ro tín dụng. Xem thêm Thông tư 14/2023/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/10/2023