Một số rủi ro pháp lý từ quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật
LÊ THẢO NGUYÊN (Giảng viên Trường Đại học Luật - Đại học Huế) - Bài báo làm rõ thực trạng pháp luật và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Luật Doanh nghiệp năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014, thay thế Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đem đến những cải cách mạnh mẽ, sâu rộng và thông thoáng hơn cho doanh nghiệp. Trong đó, quy định về người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp mới có những thay đổi theo hướng tích cực. Đặc biệt là việc cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh và tiệm cận hơn với các chuẩn mực của quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vào thực tế, các quy định trên đã nảy sinh những hạn chế, bất cập dẫn đến một số rủi ro pháp lý cần phải được hoàn thiện. 1. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 1.1. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Ở một số nước trên thế giới, khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định không giống nhau. Chẳng hạn, Luật Doanh nghiệp của Úc quy định: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện”.[1] Trong khi đó, pháp luật Nhật Bản tiếp cận người đại diện theo pháp luật thông qua chức năng quản lý, đó là: “Người quản lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý và phi tư pháp nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”.[2] Riêng đối với Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn của Đức không đưa ra khái niệm một cách rõ ràng, mà theo hướng khẳng định: “Công ty sẽ do các Giám đốc làm đại diện. Nếu một công ty không có Giám đốc, công ty sẽ được đại diện bởi các cổ đông bất cứ khi nào có tuyên bố ý định hoặc các tài liệu được cung cấp trên đó”.[3] Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản là quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong các công ty trách nhiệm hữu hạn ở Đức được thể hiện thông qua quyền và nghĩa vụ của Giám đốc và các cổ đông (nếu công ty không có giám đốc). Thông qua việc khảo sát quy định về người đại diện theo pháp luật của một số nước trên thế giới, chúng ta có thể khẳng định thuật ngữ “người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” mang những nội dung khác nhau, tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nhìn chung pháp luật của các nước vẫn có điểm giao thoa nhau về khái niệm người đại diện theo pháp luật, đó là người được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nhân danh doanh nghiệp. Ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Doanh nghiệp năm 2014. Trước hết, khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.” Bên cạnh đó, nếu như trước đây Luật Doanh nghiệp năm 2005 không đưa ra khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp thì đến Luật Doanh nghiệp 2014 đã thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về người đại diện theo pháp luật. Theo đó, khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Qua đây, có thể thấy Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra một định nghĩa khá đầy đủ và thống nhất về người đại diện theo pháp luật dựa trên vai trò, chức năng của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp. Như vậy, “người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” là khái niệm dùng để chỉ cá nhân đóng vai trò là đại diện cho doanh nghiệp tham gia xác lập các giao dịch, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh đối với doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp; là đại diện của doanh nghiệp để tham gia tố tụng trước Tòa án, Trọng tài với tư cách là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bên cạnh đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng là người thay mặt doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.2. Số lượng người đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp Trước đây, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần (CTCP), Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH) hoặc có thể là hoặc Giám đốc, Tổng giám đốc trong công ty TNHH, CTCP. Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2005 chỉ cho phép công ty TNHH, CTCP có một người đại diện theo pháp luật và nếu người đại diện theo pháp luật này vắng mặt quá 30 ngày ở Việt Nam thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật theo quy định tại các Điều 46, 49, 67 và 95. Thực tế áp dụng cho thấy quy định doanh nghiệp chỉ có người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã dẫn tới tình trạng, khi người đại diện theo pháp vắng mặt ở Việt Nam nhưng không thực hiện ủy quyền hợp lệ hay khi người đại diện theo pháp luật bị tạm giữ,… thì toàn bộ các giao dịch sẽ có thể bị trì hoãn giao kết. Từ thực tế đó, khoản 2 Điều 13, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã điều chỉnh rằng: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này”. Như vậy, người đại diện theo pháp luật trong công ty TNHH và CTCP hiện nay có thể có hơn một người so với quy định cũ. Quy định này nhằm hướng tới việc tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật cho mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, khoản 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định, doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định số lượng tối đa người đại diện theo pháp luật nhưng quy định doanh nghiệp (bao gồm công ty TNHH và CTCP) phải đảm bảo tối thiểu 1 người đại diện theo pháp luật. 2. Một số rủi ro pháp lý từ quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật Mặc dù quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã giải quyết được vướng mắc của Luật Doanh nghiệp năm 2005, tuy nhiên quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật cũng tạo ra một số vấn đề và rủi ro pháp lý cho các bên trong quá trình giao dịch. 2.1. Rủi ro cho các bên tham gia giao dịch Một trong những vấn đề cần chú trọng trong trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật chính là sự phân công thẩm quyền đại diện giữa những người đại diện theo pháp luật này. Theo khoản 2 Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014, đối với công ty hợp danh, “trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty”. Trong khi đó, đối với công ty TNHH và CTCP, khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” nên khi doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật thì mỗi người sẽ có thẩm quyền giao kết giao dịch khác nhau. Bên cạnh đó, căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo Điều lệ của pháp nhân. Quy định trên dẫn đến khó khăn cho một bên trong việc xác định thẩm quyền người đại diện theo pháp luật của bên kia mà mình đang giao dịch. Mặc dù Điều lệ là văn bản ghi nhận rõ nhất các chức danh quản lý, cũng như quyền và nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật, nhưng đây cũng chỉ là văn bản mang tính nội bộ và không phải là nội dung bắt buộc phải thông báo công khai[4]. Ngoài ra, hiện nay, thông tin về doanh nghiệp đăng trên Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp quốc gia còn khá ít. Trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật, thông tin được đăng chỉ có tên của người đại diện, mà không chi tiết cụ thể về thẩm quyền, chức vụ của từng người dẫn đến việc bên thứ ba khó có thể kiểm chứng và xác định được tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật. Hơn thế nữa, điều này còn có thể gây ra những thiệt hại nhất định cho một trong hai bên bởi lẽ giao dịch sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với một bên khi giao dịch đó được xác lập bởi người không có quyền đại diện, chỉ trừ một số trường hợp theo quy định tại Điều 142, 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Mặt khác, khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.” Như vậy, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm về giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện nếu doanh nghiệp đó: công nhận giao dịch; hoặc biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; hoặc có lỗi dẫn đến việc bên đối tác không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch với mình không có quyền đại diện. Do đó, có thể thấy bên cạnh việc gây rủi ro cho một trong hai bên, quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng có thể gây rủi ro cho chính doanh nghiệp trong việc phải chịu trách nhiệm với doanh nghiệp đối tác khi mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tiến hành ký kết không đúng thẩm quyền, hoặc vượt quá phạm vi thẩm quyền của họ. Từ đây, vấn đề được đặt ra là về trách nhiệm của các chủ thể tham gia giao dịch. Cụ thể, liệu một bên có phải thông báo cho bên kia biết về phạm vi thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật hoặc phải công bố điều lệ của mình, hay một bên phải có nghĩa vụ chủ động tìm hiểu điều lệ công ty của bên kia để xác định rõ thẩm quyền của người đại diện của bên mà mình đang giao dịch nhằm tránh rủi ro cho chính mình hay không. 2.2. Rủi ro trong trường hợp giao dịch với người không còn là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Trong doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, việc phân công quyền và nghĩa vụ của những người đại diện theo pháp luật được xác lập và ghi nhận trong Điều lệ của công ty. Trong một số trường hợp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã bị bãi nhiệm, tuy nhiên, họ vẫn xác lập các giao dịch đại diện nhân danh doanh nghiệp trong thời gian doanh nghiệp đang làm thủ tục đăng ký lại người đại diện với cơ quan đăng ký kinh doanh. Mặt khác, tại thời điểm đó, những người đại diện theo pháp luật còn lại trong doanh nghiệp theo quy định tại Điều lệ công ty lại không có thẩm quyền ký kết các giao dịch trên. Trong trường hợp này, đối tác ký kết hợp đồng cũng rất khó để biết được thẩm quyền đại diện theo pháp luật của người ký kết hợp đồng với mình đã bị bãi nhiệm. Khi đó, các giao dịch nhân danh doanh nghiệp do người đại diện theo pháp luật đã bị bãi nhiệm thực hiện với các chủ thể khác sẽ khó để chứng minh ý nghĩa và hiệu lực pháp lý đối với doanh nghiệp. Hơn nữa, một người thứ ba hợp lý rất khó có thể suy đoán rằng người đại diện theo pháp luật của công ty đã không còn tư cách đại diện nếu như không có những thông tin hay dấu hiệu nhất định nào đó. Trên thực tế thường xuyên xảy ra trường hợp người thứ ba và công ty có mối quan hệ làm ăn lâu dài, giữa người thứ ba và công ty đã có hàng loạt các giao dịch, hợp đồng trước đó mà người đại diện theo pháp luật nhân danh công ty xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt với người thứ ba. Tuy nhiên, đến giao dịch cuối cùng thì người thứ ba bị bất ngờ khi công ty tuyên bố giao dịch này vô hiệu, vì người đại diện công ty xác lập giao dịch không còn có tư cách đại diện tại thời điểm giao dịch cuối cùng này được xác lập. Trong trường hợp trên, có thể thấy nếu đây là những đối tác lần đầu tiên xác lập giao dịch với nhau thì việc người thứ ba kiểm tra tư cách đại diện của người nhân danh doanh nghiệp xác lập giao dịch đó là cần thiết. Thế nhưng, đối với quan hệ làm ăn lâu dài, người thứ ba thường sẽ không có lý do hay dấu hiệu gì để nghi ngờ tư cách đại diện theo pháp luật với người đã và đang giao dịch với mình từ trước đến nay. Chính vì vậy, việc tuyên bố giao dịch vô hiệu trong trường hợp này tỏ ra không thực sự công bằng với người thứ ba. 2.3. Rủi ro trong trường hợp có sự bất đồng giữa các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Đối với những doanh nghiệp có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật, việc xảy ra mâu thuẫn, bất đồng giữa những người đại diện theo pháp luật là điều khó tránh khỏi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Điều này đã dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp trên thực tế gặp phải những vướng mắc và lúng túng trong quá trình áp dụng khi xảy ra tình trạng trên. Cụ thể, trên thực tế thường xảy ra tình trạng một người đại diện theo pháp luật ký văn bản với nội dung A, gửi cho các bên có liên quan và cả cơ quan quản lý, tuy nhiên sau đó người đại diện theo pháp luật khác của doanh nghiệp gửi một văn bản với nội dung hoàn toàn trái ngược. Như vậy, có thể thấy trong trường hợp trên các bên sẽ khó xác định được văn bản nào mới có giá trị pháp lý. Với việc tồn tại song song từ 2 người đại diện theo pháp luật trở lên, sẽ là vướng mắc rất lớn cho doanh nghiệp nếu xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông, các người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.[5] Mặc dù, khoản 4 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định “người đại diện phải thông báo cho bên thứ ba biết về phạm vi đại diện của mình”, nhưng trong trường hợp người đại diện cố tình không thông báo thì lại không có chế tài để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với giao dịch trong trường hợp này. Như vậy, có thể thấy, trong nhiều trường hợp trên thực tế bên thứ ba không biết rõ về việc liệu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong giao dịch có xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền đại diện hay không. Điều này dẫn đến việc quyền lợi của bên thứ ba sẽ bị ảnh hưởng khi xác lập giao dịch với doanh nghiệp. Cho nên, theo tác giả, nếu không có cơ chế để bên thứ ba tiếp cận Điều lệ hay các văn bản nội bộ khác của doanh nghiệp thì nên áp dụng tương tự như quy định tại khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014, đó là: “Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó”. Cách tiếp cận này không quá mới, bởi không chỉ có quy định trên mà trong Điều 11.3 Luật Công ty Nhật Bản năm 2005 cũng đã quy định: “Có thể khẳng định quyền đại diện đầy đủ của người đại diện đối với người thứ ba mà họ không biết về những hạn chế đó”.[6] Pháp luật của Anh còn có quy định cụ thể hơn vì lợi ích của bên thứ ba giao dịch với công ty một cách ngay tình, quyền hạn của các giám đốc (người đại diện) nhân danh công ty (hoặc ủy quyền lại cho người khác hành động nhân danh công ty) không chịu bất cứ giới hạn nào theo các văn bản nội bộ của công ty.[7] Pháp luật của Úc còn cho phép người thứ ba ngay tình có quyền suy đoán (statutory assumptions)[8] về “thẩm quyền đương nhiên” (apparent authority) hoặc thẩm quyền mặc định (implied actual authority) của một đại diện công ty khi thực hiện các giao dịch với người đại diện.[9] Nghĩa là, về nguyên tắc, hợp đồng do người đại diện ký vượt quá phạm vi thẩm quyền đại điện (defective contracts) vẫn có hiệu lực, trừ khi công ty (người được đại diện) có thể chứng minh rằng người thứ ba không ngay tình. Nói cách khác, một bên giao dịch với công ty không có nghĩa vụ phải tìm hiểu việc giới hạn thẩm quyền của người đại diện và được coi là ngay tình, trừ khi công ty có thể chứng minh được điều ngược lại.[10] Trên thực tế, dù pháp luật không quy định cụ thể nhưng trong rất nhiều bản án, Tòa án đã theo hướng người đại diện theo pháp luật không có trách nhiệm đối với các giao dịch của doanh nghiệp mà họ đã xác lập một cách hợp lệ và khi có tranh chấp xảy ra thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tranh chấp đó.[11] 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Một là, đối với trường hợp có nhiều người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thì quyền hạn và nghĩa vụ của những người này được quy định trong Điều lệ của doanh nghiệp. Cho nên, nếu bên thứ ba không xem xét kỹ Điều lệ của doanh nghiệp trước khi xác lập giao dịch, thì có thể giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện hoặc khi thông tin về việc phân công trách nhiệm chỉ giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp.[12] Bên cạnh đó, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng không ghi nhận phạm vi được đại diện[13] và các thông tin về chức danh quản lý, quyền hạn, nghĩa vụ của từng người đại diện chỉ được thể hiện trong Điều lệ công ty, tuy nhiên Điều lệ công ty không phải là nội dung phải được thông báo công khai.[14] Vì vậy, theo tác giả nên có quy định theo hướng: “Mọi quy định hạn chế về việc phân công thẩm quyền giữa những người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó biết hoặc phải biết về hạn chế đó”. Quy định này sẽ tạo cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc công bố thông tin về người đại diện theo pháp luật với bên thứ ba, từ đó hạn chế được những rủi ro do những giao dịch vô hiệu mang lại và đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014[15]. Ngoài ra, trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, thì thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật phải được thông báo chi tiết với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn được xác định cụ thể kể từ ngày doanh nghiệp có quyết định cử người đại diện theo pháp luật. Nội dung này được cơ quan nhà nước công khai công bố theo hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trên Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Thực tế hiện nay, thông tin về doanh nghiệp đăng trên Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp quốc gia còn khá ít. Trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật thông tin được đăng chỉ có tên của người đại diện, mà không chi tiết cụ thể về thẩm quyền, chức vụ của từng người. Hai là, đối với những trường hợp bãi nhiệm người đại diện theo pháp luật, khi bên thứ ba xác lập giao dịch với người đã không còn là người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp nữa và người đại diện theo pháp luật còn lại trong doanh nghiệp không có thẩm quyền ký kết giao dịch nói trên. Trong trường hợp này, nếu giao dịch đó có phần bất lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể sẽ đề nghị tuyên bố giao dịch này vô hiệu nên sẽ dẫn đến rủi ro quá lớn cho bên thứ ba. Do vậy, theo tác giả cần có quy định: “Trong doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, nếu có người đại diện theo pháp luật bị chấm dứt tư cách đại diện, thì người đại diện theo pháp luật còn lại phải thực hiện việc công bố thông tin đó.”. Bên cạnh đó, để đảm bảo việc công bố thông tin được kịp thời thì trước hết cần phải công bố ngay trên Cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp sau khi quyết định về việc chấm dứt tư cách của người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp doanh nghiệp không công bố thông tin, thì có thể coi bên thứ ba là ngay tình, lỗi sẽ thuộc về doanh nghiệp và giao dịch này có hiệu lực đối với các bên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn thế nữa, án lệ cần thừa nhận một nguyên tắc trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch với người thứ ba, nếu doanh nghiệp không tuyên bố bằng văn bản cho người thứ ba rằng người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp xác lập giao dịch với bên thứ ba không có thẩm quyền đối với giao dịch này, thì bên thứ ba được quyền mặc nhiên suy đoán là người đại diện theo pháp luật này có thẩm quyền và giao dịch này có hiệu lực đối với doanh nghiệp và bên thứ ba. Ba là, đối với trường hợp trong cùng một doanh nghiệp, khi một người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã ra một quyết định, nhưng sau đó do quyết định đó gây bất lợi cho doanh nghiệp nên người đại diện theo pháp luật khác lại ra một quyết định phủ định lại quyết định này. Điều này không những làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp, mà còn mất niềm tin của bên thứ ba. Vì vậy, để tránh tình trạng này, cần có quy định trong Luật Doanh nghiệp theo hướng: “Khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã ra một quyết định đối với bên thứ ba mà quyết định này đã được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nội dung theo quy định của pháp luật và đã được công bố chính thức với bên thứ ba, thì có giá trị pháp lý đối với các bên, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. 4. Kết luận Quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quy định trên vẫn tạo ra một số rủi ro pháp lý, đặc biệt là ở vấn đề trách nhiệm của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật trong các giao dịch xác lập với bên thứ ba, dẫn đến thiệt hại có thể xảy ra cho các bên tham gia giao dịch. Chính vì vậy, các giải pháp hoàn thiện để khắc phục thực trạng hiện tại là hết sức cần thiết nhằm xây dựng một môi trường pháp lý an toàn, đảm bảo các quyền tự do kinh doanh, tự do ý chí của công dân. Theo Tạp chí Công Thương
Giấy phép lao động của người lao động nước ngoài giữ các vị trí quan trọng
Người đại diện theo pháp luật kiêm thành viên Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần là người lao động nước ngoài có cần phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam hay không? Thứ nhất, về việc xin giấy phép lao động của người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật Lao động 2012, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam nếu không thuộc các trường hợp không phải xin cấp giấy phép lao động tại Điều 172 Bộ luật Lao động 2012 thì phải có giấy phép lao động hợp pháp và thời hạn hiệu lực của giấy phép lao động tối đa là 02 năm (căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 169 Bộ luật Lao động 2012). Thứ hai, về việc xin giấy phép lao động của người lao động nước ngoài là thành viên Hội đồng quản trị của Công ty Cổ phần. Trường hợp người lao động nước ngoài giữ chức vụ thành viên Hội đồng quản trị tại Công ty Cổ phần thì không phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam (căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 172 Bộ luật Lao động 2012). Thứ ba, xét về trường hợp người lao động nước ngoài là người đại diện theo pháp luật kiêm thành viên Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần. Trong trường hợp người lao động nước ngoài vừa là thành viên Hội đồng quản trị vừa là người đại diện theo pháp luật của công ty thì là một vấn đề khác cần phải xem xét. Theo đó, tại khoản 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: "[..]Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam[..]". Như vậy, nếu người lao động này không thường xuyên có mặt tại Việt Nam thì cần thiết công ty nên bổ nhiệm thêm một người giữ chức danh người đại diện theo pháp luật để thỏa theo điều kiện của quy định này. Trong trường hợp Công ty Cổ phần chỉ do người lao động này giữ chức danh người đại diện theo pháp luật thì nếu người lao động này là người cư trú hợp pháp tại Việt Nam thì không cần phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam. Nhưng nếu người lao động luân chuyển qua lại giữa trụ sở chính tại nước ngoài hoặc một địa điểm khác và Việt Nam và thời gian làm việc cộng dồn quá 90 ngày trong 01 năm (đủ 12 tháng) thì người lao động cần phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 7 Nghị định 11/2016/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư 40/2016/TT-BLĐTBXH.
Quy định thành viên HĐQT không cần ký HĐLĐ?
Theo luật thì Người đại diện pháp luật và thành viên HĐQT không cần ký HĐLĐ và không tham gia BHXH. Vui lòng cho em xin văn bản quy định?
4 vướng mắc thường gặp về người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp
1. Người đại diện theo pháp luật là ai? Theo khoản 1, Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp với vai trò: - Thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp. - Đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án. - Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Người đại diện theo pháp luật nắm chức vụ quản lý trong công ty. Thế nên, tiêu chuẩn và điều kiện của người đại diện theo pháp luật sẽ tuân theo tiêu chuẩn và điều kiện đối với từng chức danh quản lý theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. 2. Một công ty có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật hay không? Theo Khoản 2, Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014: Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty Cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Như vậy, pháp luật đã tạo điều kiện để các công ty lựa chọn số lượng người đại diện theo pháp luật phù hợp với mô hình công ty. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nên phân chia trách nhiệm và quyền hạn cụ thể cho mỗi người đại diện tránh trường hợp chồng chéo thẩm quyền dẫn đến khách hàng không biết phải làm việc hay ký kết hợp đồng với ai ảnh hưởng đến công việc của cả hai bên hoặc xảy ra tranh chấp không đáng có. 3. Người đại diện theo pháp luật không cư trú tại Việt Nam được không? Theo Khoản 3, 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014: - Doanh nghiệp phải bảo đảm có ít nhất 01 người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. - Nếu doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người đó đi nước ngoài thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đó khi xuất cảnh khỏi Việt Nam và vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. - Hết thời hạn ủy quyền, người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị (đối với Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, Công ty Hợp danh) quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 4. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật như thế nào? Người đại diện theo pháp luật các trách nhiệm được quy định tại Điều 14, Luật Doanh nghiệp 2014: - Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. - Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. - Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các doanh nghiệp khác. - Chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp nếu vi phạm các nghĩa vụ trên. Căn cứ pháp lý: Luật Doanh nghiệp 2014
Người ký Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH MTV?
Khi Doanh nghiệp muốn thay đổi người đại diện pháp luật cần làm Hồ sơ đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật gửi đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký đặt trụ sở chính. Một trong những giầy tờ cần có trong hồ sơ này là Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật. Đối với mỗi một loại hình công ty, người ký thông báo là khác nhau, cụ thể đối với công ty TNHH MTV sẽ được xác định: - Chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là cá nhân. - Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là tổ chức hoạt động theo mô hình Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; - Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là tổ chức có cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
Cùng một lúc làm người đại diện pháp luật của hai công ty?
Câu hỏi: Sếp em đang làm tổng giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng quản trị của một công ty cổ phần A, bây giờ mở thêm một công ty TNHH một thành viên sếp em góp vốn đầu tư 100% và đứng tên làm giám đốc đại diện của công ty này có được không ạ? Câu trả lời: Trước đây theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì cấm giám đốc, tổng giám đốc công ty cổ phần làm giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp khác. Nhưng nay, Luật Doanh nghiệp 2014 không cấm một người làm giám đốc, tổng giám đốc 2 doanh nghiệp. Vậy nên một người có thể làm tổng giám đốc cho 2 doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với Giám đốc, Tổng giám đốc Doanh nghiệp Nhà nước thì không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác (Theo Khoản 8 Điều 100 Luật Doanh nghiệp 2014). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014. Như vậy, pháp luật không cấm một người có thể làm giám đốc hai hoặc nhiều công ty; làm người đại diện hai hoặc nhiều công ty; cũng như không cấm một người được thành lập hai hoặc nhiều công ty (trừ các đối tượng được quy định tại Điều 18 của Luật Doanh nghiệp 2014)
Khác biệt về “Người đại diện theo pháp luật” giữa Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014
Trong nhiều trường hợp, pháp luật quy định một chủ thể nào đó không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà phải thông qua hành vi của người khác - người đại diện theo pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể được đại diện. Có thể thấy, đại diện được xem là một trong những chế định có vai trò vô cùng quan trọng, chính vì thế mà Bộ luật dân sự 2015 đã dành riêng một chương (Chương IX) để điều chỉnh. Bộ luật dân sự trước giờ vẫn thường được mọi người gọi với cái tên thân thuộc là “luật chung”, điều chỉnh các quan hệ dân sự trên hai vấn đề chính là: nhân thân và tài sản. Khi đi sâu vào chế định đại diện, do tính chất riêng biệt và đặc thù mà một số luật chuyên ngành sẽ có thể có sự khác biệt nhất định nào đó quy định đối với vấn đề này để đảm bảo phù hợp với phạm vi của từng lĩnh vực. Đặc biệt, chúng ta phải kể đến pháp luật doanh nghiệp, cụ thể là Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành. Khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật” Với quy định trên, chúng ta có thể thấy “người đại diện theo pháp luật” chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong doanh nghiệp, sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch với các chủ thể trong doanh nghiệp (các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên ngoài doanh nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Hay nói cách khác, người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp chính là là người giữ chức vụ lãnh đạo điều hành doanh nghiệp, nhân danh công ty trong việc xác lập các giao dịch dân sự, đại điện công ty. Chính vì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp giữ vị trí và vai trò vô cùng quan trọng như trên nên chế định về người đại diện giữa Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014 có một số điểm khác biệt dưới đây: TIÊU CHÍ BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 Nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật Không có quy định nào bắt buộc người đại diện theo pháp luật phải cư trú tại Việt Nam. Do đó, trên tinh thần công dân được làm những gì pháp luật không cấm thì không loại trừ việc có thể xảy ra trường hợp người đại diện theo pháp luật không cư trú tại Việt Nam. -Trường hợp nhiều người đại diện theo pháp luật: Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. -Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật: thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Phạm vi trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật khi ủy quyền cho chủ thể khác Người đại diện chỉ bị giới hạn trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong phạm vi được ủy quyền, trừ một số trường hợp sau đây: a) Người được đại diện (người ủy quyền) đồng ý; b) Người được đại diện biết (người ủy quyền) mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; c) Người được đại diện (người ủy quyền) có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. ->Quy định trên cho thấy, ngay cả khi ủy quyền người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền. Có sự khác biệt lớn giữa chế định ủy quyền trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014, bởi vì theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì không giới hạn trách nhiệm của người ủy quyền, điều đó đồng nghĩa với việc người đại diện theo pháp luật (người đã ủy quyền) vẫn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với những hành vi mà người được ủy quyền thực hiện với bên thứ ba mà không phân biệt trong hay ngoài phạm vi đại diện. Có thể lý giải, xuất phát từ lợi ích của bên thứ ba nên giao dịch dân sự do người được ủy quyền cho dù kể cả vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi trách nhiệm. Việc không giới hạn trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của bên tham gia giao dịch với doanh nghiệp. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì người ủy quyền chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi mà mình đã ủy quyền, còn trường hợp vượt ngoài phạm vi ủy quyền thì người ủy quyền không phải chịu trách nhiệm (trừ một số trường hợp ngoại lệ mình đã nêu ở trên). Thời hạn đại diện Quan hệ đại diện theo ủy quyền chấm dứt khi: - Khi cá nhân ủy quyền chết; - Khi hết thời hạn ủy quyền - Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam: Khi hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây: + TH1: Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp; + TH2: Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. -Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty. Đã tồn tại sự khác biệt về thời hạn ủy quyền, theo quy định tại Bộ Luật Dân sự 2015 thì việc ủy quyền sẽ chấm dứt khi thời hạn ủy quyền đã hết, người đại diện là cá nhân chết. Trong khi đó, chế định ủy quyền trong Luật doanh nghiệp 2014 cho phép người được ủy quyền đại diện làm người đại diện theo pháp luật vẫn tiếp tục thực hiện công việc được ủy quyền ngay cả khi hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của công ty chưa trở về hoặc người đại diện theo pháp luật của công ty chết, cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty. Như vậy, có thể thấy chế định đại diện giữa Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014 đã tồn tại một số điểm khác nhau cơ bản. Có thể lý giải được xuất phát điểm của sự khác biệt đó là bởi những đặc thù của người đại diện theo pháp luật tại doanh nghiệp: họ giữ vị trí then chốt, có quyền nhân danh doanh nghiệp thực hiện những công việc quan trọng, những công việc mang tính chất quyết định của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự tồn vong của doanh nghiệp. Do dó, cần có một người luôn hiện diện, sẵn sàng giải quyết những vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả. Ngoài ra, với một vai trò hết sức quan trọng như trên nên nếu trường hợp phải xuất cảnh thì buộc người ủy quyền phải cân nhắc hết sức thận trọng trọng việc lựa chọn người thay thế mình làm người đại diện theo ủy quyền.
Thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật?
Thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được quy định tại Điều 43 của Nghị định 78/2015/NĐ-CP: "Điều 43. Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần 1. Hồ sơ đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần bao gồm các giấy tờ sau: a) Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật; b) Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân của người bổ sung, thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty; c) Quyết định của chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật; Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật làm thay đổi nội dung Điều lệ công ty; Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật không làm thay đổi nội dung của Điều lệ công ty ngoài nội dung họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty quy định tại Điều 25 Luật Doanh nghiệp. Quyết định, biên bản họp phải ghi rõ những nội dung được sửa đổi trong Điều lệ công ty. 2. Nội dung Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật gồm: a) Tên, mã số doanh nghiệp, mã số thuế hoặc số Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (trường hợp doanh nghiệp chưa có mã số doanh nghiệp, mã số thuế); b) Họ, tên, số Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này, chức danh, địa chỉ thường trú của người đang là đại diện theo pháp luật của công ty và của người bổ sung, thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty; c) Họ, tên và chữ ký của một trong những cá nhân sau: Chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là cá nhân. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là tổ chức. Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật thi người ký thông báo là Chủ tịch Hội đồng thành viên mới được Hội đồng thành viên bầu. Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì người ký thông báo là Chủ tịch Hội đồng quản trị mới được Hội đồng quản trị bầu. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty bỏ trốn khỏi nơi cư trú, bị tạm giam, bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được bản thân hoặc từ chối ký tên vào thông báo của công ty thì phải có họ, tên và chữ ký của các thành viên Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các thành viên Hội đồng quản trị đã tham dự và biểu quyết nhất trí về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty. Khi nhận Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật, Phòng Đăng ký kinh doanh trao Giấy biên nhận, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp"
Thay đổi quy định về “người đại diện theo pháp luật” của Doanh nghiệp có ý nghĩa gì?
Luật Doanh nghiệp 2014 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 với những quy định mới về cơ cấu tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả những thay đổi trong quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Có 4 điểm quan trọng trong sự thay đổi quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cụ thể: Thứ nhất, so với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định một điều luật chung cho vấn đề về vai trò, vị trí, trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật, chứ không còn nằm rải rác như trong luật cũ. Quy định này giúp cho việc xác định quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được dễ dàng, chuẩn xác và đầy đủ hơn so với việc quy định một cách rải rác, không thống nhất. Thứ hai, Luật Doanh nghiệp cũng bỏ đi quy định về việc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp lớn ngày càng nhiều, việc xóa bỏ quy định này giúp cho các cá nhân có quyền tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực phù hợp với trình độ chuyên môn của mình, cũng như mở rộng quyền tự do kinh doanh của cá nhân mà không phải bó buộc trong 1 ngành, 1 lĩnh vực nào đó. Thứ ba, Luật doanh nghiệp cho phép công ty TNHH và Công ty cổ phần được quyền có hơn 1 người đại diện theo pháp luật tại khoản 2 Điều 13 Luật này. Đây được xem là quy định khá quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình. Khi phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng trong xu thế hội nhập, việc chỉ có một người đại diện theo pháp luật sẽ không đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện các hoạt động của công ty. Khi doanh nghiệp có hơn một người đại diện, doanh nghiệp sẽ có thể linh động trong việc chọn người đại diện phù hợp với từng công việc, tránh được tình trạng người đại diện vắng mặt hay bất hợp tác với doanh nghiệp. Số lượng người đại diện tăng lên, sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tranh thủ được nhiều cơ hội trong kinh doanh, không bỏ lỡ bất kỳ những thuận lợi nào. Đồng thời, Luật doanh nghiệp cũng quy định về việc doanh nghiệp phải luôn có ít nhất một người đại diện tại Việt Nam để đảm bảo hạn chế những rắc rối khi người đại diện thường xuyên vắng mặt tại Việt Nam. Những thay đổi trong quy định về “người đại diện theo pháp luật” của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 đã giúp cho doanh nghiệp có những điều kiện thuận lợi nhất, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. P.S: Nếu có những thắc mắc liên quan, các bạn có thể đặt câu hỏi tại đây để cùng giải đáp nhé!
Một người có được đồng thời làm người đại diện theo pháp luật của 2 Công ty TNHH hay không?
Điều 13, Điều 14 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh ngiệp. Theo đó, không có nội dung nào cấm việc một người không thể đồng thời làm người đại diện theo pháp luật của cả 2 công ty TNHH. Như vậy, một người có thể đồng thời là người đại diện theo pháp luật của 2 công ty TNHH. Cách hiểu của em như vậy không biết có đúng không. Mong các anh chị góp ý. Em cảm ơn ạ!
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 - Công ty có thể có nhiều Người đại diện theo pháp luật
Ngày 26/11/2014, Quốc Hội vừa thông qua Luật Doanh nghiệp 2014 thay thế Luật Doanh nghiệp 2005 với nhiều nội dung mới. Theo đó, ngoài việc doanh nghiệp được quyền tự quyết về hình thức, số lượng và nội dung con dấu, thì con dấu vẫn phải có đầy đủ 2 nội dung là tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp. Và doanh nghiệp phải thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải trên Cổng thông tin điện tử quốc gia trước khi sử dụng. Việc quản lý con dấu sẽ do Điều lệ công ty quy định. Công ty TNHH và công ty Cổ phần sẽ được phép có một hoặc nhiều Người đại diện theo pháp luật, nhưng phải đảm bảo luôn có ít nhất một người đại diện phải có mặt tại Việt Nam. Ngoài ra nếu doanh nghiệp chỉ có duy nhất một người đại diện theo pháp luật mà người này bắt buộc phải xuất cảnh khỏi Việt Nam, thì được phép ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩ vụ của mình. Đối với việc góp vốn thì Công ty TNHH phải hoàn thành việc góp gốn trong vòng 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đúng theo loại tài sản đã cam kết. Trường hợp muốn góp bằng loại tài sản khác thì phải được sự đồng ý của các thành viên còn lại. Riêng đối với Công ty TNHH được thành lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì được phép tiếp tục góp vốn theo như Điều lệ. Luật này có hiệu lực từ 1/7/2015
Một số rủi ro pháp lý từ quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật
LÊ THẢO NGUYÊN (Giảng viên Trường Đại học Luật - Đại học Huế) - Bài báo làm rõ thực trạng pháp luật và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Luật Doanh nghiệp năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014, thay thế Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đem đến những cải cách mạnh mẽ, sâu rộng và thông thoáng hơn cho doanh nghiệp. Trong đó, quy định về người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp mới có những thay đổi theo hướng tích cực. Đặc biệt là việc cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh và tiệm cận hơn với các chuẩn mực của quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vào thực tế, các quy định trên đã nảy sinh những hạn chế, bất cập dẫn đến một số rủi ro pháp lý cần phải được hoàn thiện. 1. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 1.1. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Ở một số nước trên thế giới, khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định không giống nhau. Chẳng hạn, Luật Doanh nghiệp của Úc quy định: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện”.[1] Trong khi đó, pháp luật Nhật Bản tiếp cận người đại diện theo pháp luật thông qua chức năng quản lý, đó là: “Người quản lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý và phi tư pháp nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”.[2] Riêng đối với Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn của Đức không đưa ra khái niệm một cách rõ ràng, mà theo hướng khẳng định: “Công ty sẽ do các Giám đốc làm đại diện. Nếu một công ty không có Giám đốc, công ty sẽ được đại diện bởi các cổ đông bất cứ khi nào có tuyên bố ý định hoặc các tài liệu được cung cấp trên đó”.[3] Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản là quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong các công ty trách nhiệm hữu hạn ở Đức được thể hiện thông qua quyền và nghĩa vụ của Giám đốc và các cổ đông (nếu công ty không có giám đốc). Thông qua việc khảo sát quy định về người đại diện theo pháp luật của một số nước trên thế giới, chúng ta có thể khẳng định thuật ngữ “người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” mang những nội dung khác nhau, tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nhìn chung pháp luật của các nước vẫn có điểm giao thoa nhau về khái niệm người đại diện theo pháp luật, đó là người được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nhân danh doanh nghiệp. Ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Doanh nghiệp năm 2014. Trước hết, khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.” Bên cạnh đó, nếu như trước đây Luật Doanh nghiệp năm 2005 không đưa ra khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp thì đến Luật Doanh nghiệp 2014 đã thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về người đại diện theo pháp luật. Theo đó, khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Qua đây, có thể thấy Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra một định nghĩa khá đầy đủ và thống nhất về người đại diện theo pháp luật dựa trên vai trò, chức năng của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp. Như vậy, “người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” là khái niệm dùng để chỉ cá nhân đóng vai trò là đại diện cho doanh nghiệp tham gia xác lập các giao dịch, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh đối với doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp; là đại diện của doanh nghiệp để tham gia tố tụng trước Tòa án, Trọng tài với tư cách là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bên cạnh đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng là người thay mặt doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.2. Số lượng người đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp Trước đây, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần (CTCP), Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH) hoặc có thể là hoặc Giám đốc, Tổng giám đốc trong công ty TNHH, CTCP. Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2005 chỉ cho phép công ty TNHH, CTCP có một người đại diện theo pháp luật và nếu người đại diện theo pháp luật này vắng mặt quá 30 ngày ở Việt Nam thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật theo quy định tại các Điều 46, 49, 67 và 95. Thực tế áp dụng cho thấy quy định doanh nghiệp chỉ có người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã dẫn tới tình trạng, khi người đại diện theo pháp vắng mặt ở Việt Nam nhưng không thực hiện ủy quyền hợp lệ hay khi người đại diện theo pháp luật bị tạm giữ,… thì toàn bộ các giao dịch sẽ có thể bị trì hoãn giao kết. Từ thực tế đó, khoản 2 Điều 13, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã điều chỉnh rằng: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này”. Như vậy, người đại diện theo pháp luật trong công ty TNHH và CTCP hiện nay có thể có hơn một người so với quy định cũ. Quy định này nhằm hướng tới việc tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật cho mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, khoản 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định, doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định số lượng tối đa người đại diện theo pháp luật nhưng quy định doanh nghiệp (bao gồm công ty TNHH và CTCP) phải đảm bảo tối thiểu 1 người đại diện theo pháp luật. 2. Một số rủi ro pháp lý từ quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật Mặc dù quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã giải quyết được vướng mắc của Luật Doanh nghiệp năm 2005, tuy nhiên quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật cũng tạo ra một số vấn đề và rủi ro pháp lý cho các bên trong quá trình giao dịch. 2.1. Rủi ro cho các bên tham gia giao dịch Một trong những vấn đề cần chú trọng trong trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật chính là sự phân công thẩm quyền đại diện giữa những người đại diện theo pháp luật này. Theo khoản 2 Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014, đối với công ty hợp danh, “trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty”. Trong khi đó, đối với công ty TNHH và CTCP, khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” nên khi doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật thì mỗi người sẽ có thẩm quyền giao kết giao dịch khác nhau. Bên cạnh đó, căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo Điều lệ của pháp nhân. Quy định trên dẫn đến khó khăn cho một bên trong việc xác định thẩm quyền người đại diện theo pháp luật của bên kia mà mình đang giao dịch. Mặc dù Điều lệ là văn bản ghi nhận rõ nhất các chức danh quản lý, cũng như quyền và nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật, nhưng đây cũng chỉ là văn bản mang tính nội bộ và không phải là nội dung bắt buộc phải thông báo công khai[4]. Ngoài ra, hiện nay, thông tin về doanh nghiệp đăng trên Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp quốc gia còn khá ít. Trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật, thông tin được đăng chỉ có tên của người đại diện, mà không chi tiết cụ thể về thẩm quyền, chức vụ của từng người dẫn đến việc bên thứ ba khó có thể kiểm chứng và xác định được tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật. Hơn thế nữa, điều này còn có thể gây ra những thiệt hại nhất định cho một trong hai bên bởi lẽ giao dịch sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với một bên khi giao dịch đó được xác lập bởi người không có quyền đại diện, chỉ trừ một số trường hợp theo quy định tại Điều 142, 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Mặt khác, khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.” Như vậy, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm về giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện nếu doanh nghiệp đó: công nhận giao dịch; hoặc biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; hoặc có lỗi dẫn đến việc bên đối tác không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch với mình không có quyền đại diện. Do đó, có thể thấy bên cạnh việc gây rủi ro cho một trong hai bên, quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng có thể gây rủi ro cho chính doanh nghiệp trong việc phải chịu trách nhiệm với doanh nghiệp đối tác khi mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tiến hành ký kết không đúng thẩm quyền, hoặc vượt quá phạm vi thẩm quyền của họ. Từ đây, vấn đề được đặt ra là về trách nhiệm của các chủ thể tham gia giao dịch. Cụ thể, liệu một bên có phải thông báo cho bên kia biết về phạm vi thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật hoặc phải công bố điều lệ của mình, hay một bên phải có nghĩa vụ chủ động tìm hiểu điều lệ công ty của bên kia để xác định rõ thẩm quyền của người đại diện của bên mà mình đang giao dịch nhằm tránh rủi ro cho chính mình hay không. 2.2. Rủi ro trong trường hợp giao dịch với người không còn là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Trong doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, việc phân công quyền và nghĩa vụ của những người đại diện theo pháp luật được xác lập và ghi nhận trong Điều lệ của công ty. Trong một số trường hợp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã bị bãi nhiệm, tuy nhiên, họ vẫn xác lập các giao dịch đại diện nhân danh doanh nghiệp trong thời gian doanh nghiệp đang làm thủ tục đăng ký lại người đại diện với cơ quan đăng ký kinh doanh. Mặt khác, tại thời điểm đó, những người đại diện theo pháp luật còn lại trong doanh nghiệp theo quy định tại Điều lệ công ty lại không có thẩm quyền ký kết các giao dịch trên. Trong trường hợp này, đối tác ký kết hợp đồng cũng rất khó để biết được thẩm quyền đại diện theo pháp luật của người ký kết hợp đồng với mình đã bị bãi nhiệm. Khi đó, các giao dịch nhân danh doanh nghiệp do người đại diện theo pháp luật đã bị bãi nhiệm thực hiện với các chủ thể khác sẽ khó để chứng minh ý nghĩa và hiệu lực pháp lý đối với doanh nghiệp. Hơn nữa, một người thứ ba hợp lý rất khó có thể suy đoán rằng người đại diện theo pháp luật của công ty đã không còn tư cách đại diện nếu như không có những thông tin hay dấu hiệu nhất định nào đó. Trên thực tế thường xuyên xảy ra trường hợp người thứ ba và công ty có mối quan hệ làm ăn lâu dài, giữa người thứ ba và công ty đã có hàng loạt các giao dịch, hợp đồng trước đó mà người đại diện theo pháp luật nhân danh công ty xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt với người thứ ba. Tuy nhiên, đến giao dịch cuối cùng thì người thứ ba bị bất ngờ khi công ty tuyên bố giao dịch này vô hiệu, vì người đại diện công ty xác lập giao dịch không còn có tư cách đại diện tại thời điểm giao dịch cuối cùng này được xác lập. Trong trường hợp trên, có thể thấy nếu đây là những đối tác lần đầu tiên xác lập giao dịch với nhau thì việc người thứ ba kiểm tra tư cách đại diện của người nhân danh doanh nghiệp xác lập giao dịch đó là cần thiết. Thế nhưng, đối với quan hệ làm ăn lâu dài, người thứ ba thường sẽ không có lý do hay dấu hiệu gì để nghi ngờ tư cách đại diện theo pháp luật với người đã và đang giao dịch với mình từ trước đến nay. Chính vì vậy, việc tuyên bố giao dịch vô hiệu trong trường hợp này tỏ ra không thực sự công bằng với người thứ ba. 2.3. Rủi ro trong trường hợp có sự bất đồng giữa các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Đối với những doanh nghiệp có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật, việc xảy ra mâu thuẫn, bất đồng giữa những người đại diện theo pháp luật là điều khó tránh khỏi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Điều này đã dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp trên thực tế gặp phải những vướng mắc và lúng túng trong quá trình áp dụng khi xảy ra tình trạng trên. Cụ thể, trên thực tế thường xảy ra tình trạng một người đại diện theo pháp luật ký văn bản với nội dung A, gửi cho các bên có liên quan và cả cơ quan quản lý, tuy nhiên sau đó người đại diện theo pháp luật khác của doanh nghiệp gửi một văn bản với nội dung hoàn toàn trái ngược. Như vậy, có thể thấy trong trường hợp trên các bên sẽ khó xác định được văn bản nào mới có giá trị pháp lý. Với việc tồn tại song song từ 2 người đại diện theo pháp luật trở lên, sẽ là vướng mắc rất lớn cho doanh nghiệp nếu xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông, các người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.[5] Mặc dù, khoản 4 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định “người đại diện phải thông báo cho bên thứ ba biết về phạm vi đại diện của mình”, nhưng trong trường hợp người đại diện cố tình không thông báo thì lại không có chế tài để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với giao dịch trong trường hợp này. Như vậy, có thể thấy, trong nhiều trường hợp trên thực tế bên thứ ba không biết rõ về việc liệu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong giao dịch có xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền đại diện hay không. Điều này dẫn đến việc quyền lợi của bên thứ ba sẽ bị ảnh hưởng khi xác lập giao dịch với doanh nghiệp. Cho nên, theo tác giả, nếu không có cơ chế để bên thứ ba tiếp cận Điều lệ hay các văn bản nội bộ khác của doanh nghiệp thì nên áp dụng tương tự như quy định tại khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014, đó là: “Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó”. Cách tiếp cận này không quá mới, bởi không chỉ có quy định trên mà trong Điều 11.3 Luật Công ty Nhật Bản năm 2005 cũng đã quy định: “Có thể khẳng định quyền đại diện đầy đủ của người đại diện đối với người thứ ba mà họ không biết về những hạn chế đó”.[6] Pháp luật của Anh còn có quy định cụ thể hơn vì lợi ích của bên thứ ba giao dịch với công ty một cách ngay tình, quyền hạn của các giám đốc (người đại diện) nhân danh công ty (hoặc ủy quyền lại cho người khác hành động nhân danh công ty) không chịu bất cứ giới hạn nào theo các văn bản nội bộ của công ty.[7] Pháp luật của Úc còn cho phép người thứ ba ngay tình có quyền suy đoán (statutory assumptions)[8] về “thẩm quyền đương nhiên” (apparent authority) hoặc thẩm quyền mặc định (implied actual authority) của một đại diện công ty khi thực hiện các giao dịch với người đại diện.[9] Nghĩa là, về nguyên tắc, hợp đồng do người đại diện ký vượt quá phạm vi thẩm quyền đại điện (defective contracts) vẫn có hiệu lực, trừ khi công ty (người được đại diện) có thể chứng minh rằng người thứ ba không ngay tình. Nói cách khác, một bên giao dịch với công ty không có nghĩa vụ phải tìm hiểu việc giới hạn thẩm quyền của người đại diện và được coi là ngay tình, trừ khi công ty có thể chứng minh được điều ngược lại.[10] Trên thực tế, dù pháp luật không quy định cụ thể nhưng trong rất nhiều bản án, Tòa án đã theo hướng người đại diện theo pháp luật không có trách nhiệm đối với các giao dịch của doanh nghiệp mà họ đã xác lập một cách hợp lệ và khi có tranh chấp xảy ra thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tranh chấp đó.[11] 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Một là, đối với trường hợp có nhiều người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thì quyền hạn và nghĩa vụ của những người này được quy định trong Điều lệ của doanh nghiệp. Cho nên, nếu bên thứ ba không xem xét kỹ Điều lệ của doanh nghiệp trước khi xác lập giao dịch, thì có thể giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện hoặc khi thông tin về việc phân công trách nhiệm chỉ giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp.[12] Bên cạnh đó, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng không ghi nhận phạm vi được đại diện[13] và các thông tin về chức danh quản lý, quyền hạn, nghĩa vụ của từng người đại diện chỉ được thể hiện trong Điều lệ công ty, tuy nhiên Điều lệ công ty không phải là nội dung phải được thông báo công khai.[14] Vì vậy, theo tác giả nên có quy định theo hướng: “Mọi quy định hạn chế về việc phân công thẩm quyền giữa những người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó biết hoặc phải biết về hạn chế đó”. Quy định này sẽ tạo cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc công bố thông tin về người đại diện theo pháp luật với bên thứ ba, từ đó hạn chế được những rủi ro do những giao dịch vô hiệu mang lại và đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014[15]. Ngoài ra, trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, thì thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật phải được thông báo chi tiết với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn được xác định cụ thể kể từ ngày doanh nghiệp có quyết định cử người đại diện theo pháp luật. Nội dung này được cơ quan nhà nước công khai công bố theo hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trên Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Thực tế hiện nay, thông tin về doanh nghiệp đăng trên Cổng thông tin Đăng ký doanh nghiệp quốc gia còn khá ít. Trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật thông tin được đăng chỉ có tên của người đại diện, mà không chi tiết cụ thể về thẩm quyền, chức vụ của từng người. Hai là, đối với những trường hợp bãi nhiệm người đại diện theo pháp luật, khi bên thứ ba xác lập giao dịch với người đã không còn là người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp nữa và người đại diện theo pháp luật còn lại trong doanh nghiệp không có thẩm quyền ký kết giao dịch nói trên. Trong trường hợp này, nếu giao dịch đó có phần bất lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể sẽ đề nghị tuyên bố giao dịch này vô hiệu nên sẽ dẫn đến rủi ro quá lớn cho bên thứ ba. Do vậy, theo tác giả cần có quy định: “Trong doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, nếu có người đại diện theo pháp luật bị chấm dứt tư cách đại diện, thì người đại diện theo pháp luật còn lại phải thực hiện việc công bố thông tin đó.”. Bên cạnh đó, để đảm bảo việc công bố thông tin được kịp thời thì trước hết cần phải công bố ngay trên Cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp sau khi quyết định về việc chấm dứt tư cách của người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp doanh nghiệp không công bố thông tin, thì có thể coi bên thứ ba là ngay tình, lỗi sẽ thuộc về doanh nghiệp và giao dịch này có hiệu lực đối với các bên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn thế nữa, án lệ cần thừa nhận một nguyên tắc trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch với người thứ ba, nếu doanh nghiệp không tuyên bố bằng văn bản cho người thứ ba rằng người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp xác lập giao dịch với bên thứ ba không có thẩm quyền đối với giao dịch này, thì bên thứ ba được quyền mặc nhiên suy đoán là người đại diện theo pháp luật này có thẩm quyền và giao dịch này có hiệu lực đối với doanh nghiệp và bên thứ ba. Ba là, đối với trường hợp trong cùng một doanh nghiệp, khi một người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã ra một quyết định, nhưng sau đó do quyết định đó gây bất lợi cho doanh nghiệp nên người đại diện theo pháp luật khác lại ra một quyết định phủ định lại quyết định này. Điều này không những làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp, mà còn mất niềm tin của bên thứ ba. Vì vậy, để tránh tình trạng này, cần có quy định trong Luật Doanh nghiệp theo hướng: “Khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã ra một quyết định đối với bên thứ ba mà quyết định này đã được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nội dung theo quy định của pháp luật và đã được công bố chính thức với bên thứ ba, thì có giá trị pháp lý đối với các bên, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. 4. Kết luận Quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quy định trên vẫn tạo ra một số rủi ro pháp lý, đặc biệt là ở vấn đề trách nhiệm của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật trong các giao dịch xác lập với bên thứ ba, dẫn đến thiệt hại có thể xảy ra cho các bên tham gia giao dịch. Chính vì vậy, các giải pháp hoàn thiện để khắc phục thực trạng hiện tại là hết sức cần thiết nhằm xây dựng một môi trường pháp lý an toàn, đảm bảo các quyền tự do kinh doanh, tự do ý chí của công dân. Theo Tạp chí Công Thương
Giấy phép lao động của người lao động nước ngoài giữ các vị trí quan trọng
Người đại diện theo pháp luật kiêm thành viên Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần là người lao động nước ngoài có cần phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam hay không? Thứ nhất, về việc xin giấy phép lao động của người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật Lao động 2012, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam nếu không thuộc các trường hợp không phải xin cấp giấy phép lao động tại Điều 172 Bộ luật Lao động 2012 thì phải có giấy phép lao động hợp pháp và thời hạn hiệu lực của giấy phép lao động tối đa là 02 năm (căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 169 Bộ luật Lao động 2012). Thứ hai, về việc xin giấy phép lao động của người lao động nước ngoài là thành viên Hội đồng quản trị của Công ty Cổ phần. Trường hợp người lao động nước ngoài giữ chức vụ thành viên Hội đồng quản trị tại Công ty Cổ phần thì không phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam (căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 172 Bộ luật Lao động 2012). Thứ ba, xét về trường hợp người lao động nước ngoài là người đại diện theo pháp luật kiêm thành viên Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần. Trong trường hợp người lao động nước ngoài vừa là thành viên Hội đồng quản trị vừa là người đại diện theo pháp luật của công ty thì là một vấn đề khác cần phải xem xét. Theo đó, tại khoản 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: "[..]Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam[..]". Như vậy, nếu người lao động này không thường xuyên có mặt tại Việt Nam thì cần thiết công ty nên bổ nhiệm thêm một người giữ chức danh người đại diện theo pháp luật để thỏa theo điều kiện của quy định này. Trong trường hợp Công ty Cổ phần chỉ do người lao động này giữ chức danh người đại diện theo pháp luật thì nếu người lao động này là người cư trú hợp pháp tại Việt Nam thì không cần phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam. Nhưng nếu người lao động luân chuyển qua lại giữa trụ sở chính tại nước ngoài hoặc một địa điểm khác và Việt Nam và thời gian làm việc cộng dồn quá 90 ngày trong 01 năm (đủ 12 tháng) thì người lao động cần phải xin giấy phép lao động tại Việt Nam theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 7 Nghị định 11/2016/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư 40/2016/TT-BLĐTBXH.
Quy định thành viên HĐQT không cần ký HĐLĐ?
Theo luật thì Người đại diện pháp luật và thành viên HĐQT không cần ký HĐLĐ và không tham gia BHXH. Vui lòng cho em xin văn bản quy định?
4 vướng mắc thường gặp về người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp
1. Người đại diện theo pháp luật là ai? Theo khoản 1, Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp với vai trò: - Thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp. - Đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án. - Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Người đại diện theo pháp luật nắm chức vụ quản lý trong công ty. Thế nên, tiêu chuẩn và điều kiện của người đại diện theo pháp luật sẽ tuân theo tiêu chuẩn và điều kiện đối với từng chức danh quản lý theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. 2. Một công ty có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật hay không? Theo Khoản 2, Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014: Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty Cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Như vậy, pháp luật đã tạo điều kiện để các công ty lựa chọn số lượng người đại diện theo pháp luật phù hợp với mô hình công ty. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nên phân chia trách nhiệm và quyền hạn cụ thể cho mỗi người đại diện tránh trường hợp chồng chéo thẩm quyền dẫn đến khách hàng không biết phải làm việc hay ký kết hợp đồng với ai ảnh hưởng đến công việc của cả hai bên hoặc xảy ra tranh chấp không đáng có. 3. Người đại diện theo pháp luật không cư trú tại Việt Nam được không? Theo Khoản 3, 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014: - Doanh nghiệp phải bảo đảm có ít nhất 01 người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. - Nếu doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người đó đi nước ngoài thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đó khi xuất cảnh khỏi Việt Nam và vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. - Hết thời hạn ủy quyền, người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị (đối với Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, Công ty Hợp danh) quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 4. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật như thế nào? Người đại diện theo pháp luật các trách nhiệm được quy định tại Điều 14, Luật Doanh nghiệp 2014: - Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. - Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. - Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các doanh nghiệp khác. - Chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp nếu vi phạm các nghĩa vụ trên. Căn cứ pháp lý: Luật Doanh nghiệp 2014
Người ký Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH MTV?
Khi Doanh nghiệp muốn thay đổi người đại diện pháp luật cần làm Hồ sơ đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật gửi đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký đặt trụ sở chính. Một trong những giầy tờ cần có trong hồ sơ này là Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật. Đối với mỗi một loại hình công ty, người ký thông báo là khác nhau, cụ thể đối với công ty TNHH MTV sẽ được xác định: - Chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là cá nhân. - Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là tổ chức hoạt động theo mô hình Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; - Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là tổ chức có cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
Cùng một lúc làm người đại diện pháp luật của hai công ty?
Câu hỏi: Sếp em đang làm tổng giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng quản trị của một công ty cổ phần A, bây giờ mở thêm một công ty TNHH một thành viên sếp em góp vốn đầu tư 100% và đứng tên làm giám đốc đại diện của công ty này có được không ạ? Câu trả lời: Trước đây theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì cấm giám đốc, tổng giám đốc công ty cổ phần làm giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp khác. Nhưng nay, Luật Doanh nghiệp 2014 không cấm một người làm giám đốc, tổng giám đốc 2 doanh nghiệp. Vậy nên một người có thể làm tổng giám đốc cho 2 doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với Giám đốc, Tổng giám đốc Doanh nghiệp Nhà nước thì không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác (Theo Khoản 8 Điều 100 Luật Doanh nghiệp 2014). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014. Như vậy, pháp luật không cấm một người có thể làm giám đốc hai hoặc nhiều công ty; làm người đại diện hai hoặc nhiều công ty; cũng như không cấm một người được thành lập hai hoặc nhiều công ty (trừ các đối tượng được quy định tại Điều 18 của Luật Doanh nghiệp 2014)
Khác biệt về “Người đại diện theo pháp luật” giữa Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014
Trong nhiều trường hợp, pháp luật quy định một chủ thể nào đó không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà phải thông qua hành vi của người khác - người đại diện theo pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể được đại diện. Có thể thấy, đại diện được xem là một trong những chế định có vai trò vô cùng quan trọng, chính vì thế mà Bộ luật dân sự 2015 đã dành riêng một chương (Chương IX) để điều chỉnh. Bộ luật dân sự trước giờ vẫn thường được mọi người gọi với cái tên thân thuộc là “luật chung”, điều chỉnh các quan hệ dân sự trên hai vấn đề chính là: nhân thân và tài sản. Khi đi sâu vào chế định đại diện, do tính chất riêng biệt và đặc thù mà một số luật chuyên ngành sẽ có thể có sự khác biệt nhất định nào đó quy định đối với vấn đề này để đảm bảo phù hợp với phạm vi của từng lĩnh vực. Đặc biệt, chúng ta phải kể đến pháp luật doanh nghiệp, cụ thể là Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành. Khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật” Với quy định trên, chúng ta có thể thấy “người đại diện theo pháp luật” chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong doanh nghiệp, sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch với các chủ thể trong doanh nghiệp (các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên ngoài doanh nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Hay nói cách khác, người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp chính là là người giữ chức vụ lãnh đạo điều hành doanh nghiệp, nhân danh công ty trong việc xác lập các giao dịch dân sự, đại điện công ty. Chính vì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp giữ vị trí và vai trò vô cùng quan trọng như trên nên chế định về người đại diện giữa Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014 có một số điểm khác biệt dưới đây: TIÊU CHÍ BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 Nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật Không có quy định nào bắt buộc người đại diện theo pháp luật phải cư trú tại Việt Nam. Do đó, trên tinh thần công dân được làm những gì pháp luật không cấm thì không loại trừ việc có thể xảy ra trường hợp người đại diện theo pháp luật không cư trú tại Việt Nam. -Trường hợp nhiều người đại diện theo pháp luật: Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. -Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật: thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Phạm vi trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật khi ủy quyền cho chủ thể khác Người đại diện chỉ bị giới hạn trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong phạm vi được ủy quyền, trừ một số trường hợp sau đây: a) Người được đại diện (người ủy quyền) đồng ý; b) Người được đại diện biết (người ủy quyền) mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; c) Người được đại diện (người ủy quyền) có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. ->Quy định trên cho thấy, ngay cả khi ủy quyền người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền. Có sự khác biệt lớn giữa chế định ủy quyền trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014, bởi vì theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì không giới hạn trách nhiệm của người ủy quyền, điều đó đồng nghĩa với việc người đại diện theo pháp luật (người đã ủy quyền) vẫn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với những hành vi mà người được ủy quyền thực hiện với bên thứ ba mà không phân biệt trong hay ngoài phạm vi đại diện. Có thể lý giải, xuất phát từ lợi ích của bên thứ ba nên giao dịch dân sự do người được ủy quyền cho dù kể cả vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi trách nhiệm. Việc không giới hạn trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của bên tham gia giao dịch với doanh nghiệp. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì người ủy quyền chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi mà mình đã ủy quyền, còn trường hợp vượt ngoài phạm vi ủy quyền thì người ủy quyền không phải chịu trách nhiệm (trừ một số trường hợp ngoại lệ mình đã nêu ở trên). Thời hạn đại diện Quan hệ đại diện theo ủy quyền chấm dứt khi: - Khi cá nhân ủy quyền chết; - Khi hết thời hạn ủy quyền - Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam: Khi hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây: + TH1: Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp; + TH2: Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. -Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty. Đã tồn tại sự khác biệt về thời hạn ủy quyền, theo quy định tại Bộ Luật Dân sự 2015 thì việc ủy quyền sẽ chấm dứt khi thời hạn ủy quyền đã hết, người đại diện là cá nhân chết. Trong khi đó, chế định ủy quyền trong Luật doanh nghiệp 2014 cho phép người được ủy quyền đại diện làm người đại diện theo pháp luật vẫn tiếp tục thực hiện công việc được ủy quyền ngay cả khi hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của công ty chưa trở về hoặc người đại diện theo pháp luật của công ty chết, cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty. Như vậy, có thể thấy chế định đại diện giữa Bộ luật dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014 đã tồn tại một số điểm khác nhau cơ bản. Có thể lý giải được xuất phát điểm của sự khác biệt đó là bởi những đặc thù của người đại diện theo pháp luật tại doanh nghiệp: họ giữ vị trí then chốt, có quyền nhân danh doanh nghiệp thực hiện những công việc quan trọng, những công việc mang tính chất quyết định của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự tồn vong của doanh nghiệp. Do dó, cần có một người luôn hiện diện, sẵn sàng giải quyết những vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả. Ngoài ra, với một vai trò hết sức quan trọng như trên nên nếu trường hợp phải xuất cảnh thì buộc người ủy quyền phải cân nhắc hết sức thận trọng trọng việc lựa chọn người thay thế mình làm người đại diện theo ủy quyền.
Thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật?
Thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần được quy định tại Điều 43 của Nghị định 78/2015/NĐ-CP: "Điều 43. Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần 1. Hồ sơ đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần bao gồm các giấy tờ sau: a) Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật; b) Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân của người bổ sung, thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty; c) Quyết định của chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật; Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật làm thay đổi nội dung Điều lệ công ty; Quyết định và bản sao hợp lệ biên bản họp của Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật không làm thay đổi nội dung của Điều lệ công ty ngoài nội dung họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty quy định tại Điều 25 Luật Doanh nghiệp. Quyết định, biên bản họp phải ghi rõ những nội dung được sửa đổi trong Điều lệ công ty. 2. Nội dung Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật gồm: a) Tên, mã số doanh nghiệp, mã số thuế hoặc số Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (trường hợp doanh nghiệp chưa có mã số doanh nghiệp, mã số thuế); b) Họ, tên, số Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này, chức danh, địa chỉ thường trú của người đang là đại diện theo pháp luật của công ty và của người bổ sung, thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty; c) Họ, tên và chữ ký của một trong những cá nhân sau: Chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là cá nhân. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là tổ chức. Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật thi người ký thông báo là Chủ tịch Hội đồng thành viên mới được Hội đồng thành viên bầu. Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì người ký thông báo là Chủ tịch Hội đồng quản trị mới được Hội đồng quản trị bầu. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty bỏ trốn khỏi nơi cư trú, bị tạm giam, bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được bản thân hoặc từ chối ký tên vào thông báo của công ty thì phải có họ, tên và chữ ký của các thành viên Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các thành viên Hội đồng quản trị đã tham dự và biểu quyết nhất trí về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty. Khi nhận Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật, Phòng Đăng ký kinh doanh trao Giấy biên nhận, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp"
Thay đổi quy định về “người đại diện theo pháp luật” của Doanh nghiệp có ý nghĩa gì?
Luật Doanh nghiệp 2014 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 với những quy định mới về cơ cấu tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả những thay đổi trong quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Có 4 điểm quan trọng trong sự thay đổi quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cụ thể: Thứ nhất, so với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định một điều luật chung cho vấn đề về vai trò, vị trí, trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật, chứ không còn nằm rải rác như trong luật cũ. Quy định này giúp cho việc xác định quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được dễ dàng, chuẩn xác và đầy đủ hơn so với việc quy định một cách rải rác, không thống nhất. Thứ hai, Luật Doanh nghiệp cũng bỏ đi quy định về việc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp lớn ngày càng nhiều, việc xóa bỏ quy định này giúp cho các cá nhân có quyền tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực phù hợp với trình độ chuyên môn của mình, cũng như mở rộng quyền tự do kinh doanh của cá nhân mà không phải bó buộc trong 1 ngành, 1 lĩnh vực nào đó. Thứ ba, Luật doanh nghiệp cho phép công ty TNHH và Công ty cổ phần được quyền có hơn 1 người đại diện theo pháp luật tại khoản 2 Điều 13 Luật này. Đây được xem là quy định khá quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình. Khi phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng trong xu thế hội nhập, việc chỉ có một người đại diện theo pháp luật sẽ không đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện các hoạt động của công ty. Khi doanh nghiệp có hơn một người đại diện, doanh nghiệp sẽ có thể linh động trong việc chọn người đại diện phù hợp với từng công việc, tránh được tình trạng người đại diện vắng mặt hay bất hợp tác với doanh nghiệp. Số lượng người đại diện tăng lên, sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tranh thủ được nhiều cơ hội trong kinh doanh, không bỏ lỡ bất kỳ những thuận lợi nào. Đồng thời, Luật doanh nghiệp cũng quy định về việc doanh nghiệp phải luôn có ít nhất một người đại diện tại Việt Nam để đảm bảo hạn chế những rắc rối khi người đại diện thường xuyên vắng mặt tại Việt Nam. Những thay đổi trong quy định về “người đại diện theo pháp luật” của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 đã giúp cho doanh nghiệp có những điều kiện thuận lợi nhất, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. P.S: Nếu có những thắc mắc liên quan, các bạn có thể đặt câu hỏi tại đây để cùng giải đáp nhé!
Một người có được đồng thời làm người đại diện theo pháp luật của 2 Công ty TNHH hay không?
Điều 13, Điều 14 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh ngiệp. Theo đó, không có nội dung nào cấm việc một người không thể đồng thời làm người đại diện theo pháp luật của cả 2 công ty TNHH. Như vậy, một người có thể đồng thời là người đại diện theo pháp luật của 2 công ty TNHH. Cách hiểu của em như vậy không biết có đúng không. Mong các anh chị góp ý. Em cảm ơn ạ!
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 - Công ty có thể có nhiều Người đại diện theo pháp luật
Ngày 26/11/2014, Quốc Hội vừa thông qua Luật Doanh nghiệp 2014 thay thế Luật Doanh nghiệp 2005 với nhiều nội dung mới. Theo đó, ngoài việc doanh nghiệp được quyền tự quyết về hình thức, số lượng và nội dung con dấu, thì con dấu vẫn phải có đầy đủ 2 nội dung là tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp. Và doanh nghiệp phải thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải trên Cổng thông tin điện tử quốc gia trước khi sử dụng. Việc quản lý con dấu sẽ do Điều lệ công ty quy định. Công ty TNHH và công ty Cổ phần sẽ được phép có một hoặc nhiều Người đại diện theo pháp luật, nhưng phải đảm bảo luôn có ít nhất một người đại diện phải có mặt tại Việt Nam. Ngoài ra nếu doanh nghiệp chỉ có duy nhất một người đại diện theo pháp luật mà người này bắt buộc phải xuất cảnh khỏi Việt Nam, thì được phép ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩ vụ của mình. Đối với việc góp vốn thì Công ty TNHH phải hoàn thành việc góp gốn trong vòng 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đúng theo loại tài sản đã cam kết. Trường hợp muốn góp bằng loại tài sản khác thì phải được sự đồng ý của các thành viên còn lại. Riêng đối với Công ty TNHH được thành lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì được phép tiếp tục góp vốn theo như Điều lệ. Luật này có hiệu lực từ 1/7/2015