Xác định tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “giết người” có đồng phạm?
Trong vụ án đồng phạm giết người, người giúp sức không trực tiếp thực hiện hành vi thì tình tiết “có tính chất côn đồ” được xác định như thế nào? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “giết người” có đồng phạm (được ban hành kèm theo Quyết định 269/QĐ-CA năm 2018 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Khoảng 08h ngày 13-01-2015, do có mâu thuẫn trong sinh hoạt nên xảy ra xô xát giữa các con của ông Dương Quang Q là Dương Quang T, Dương Quang R và Dương Quang K với ông Dương Quang H, Dương Quang L và Nguyễn Văn H. Các con của ông Q dùng tay, chân đấm đá vào người ông Dương Quang H làm ông H bị xây xát nhẹ. Thấy bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Q đánh, Nguyễn Văn H gọi điện báo cho Trần Quang V (là con rể của ông H). Biết tin bố vợ bị đánh, V đi từ Hà Tĩnh về Thừa Thiên Huế và rủ thêm Phạm Nhật T cùng đi đánh ông Q. Khi đi, V và T lấy ở nhà T 02 cây mã tấu, bỏ vào túi vợt cầu lông rồi mang theo. Khoảng 16 giờ ngày 19-01-2015, V chở T đến thị trấn Lăng Cô và gọi điện cho H đến nhậu cùng. Tại quán nhậu H nói với V “Ba bị đánh thương lắm, giờ vẫn còn đau”. V hỏi H địa chỉ nhà ông Q ở đâu và đặc điểm nhận dạng ông Q như thế nào. Nghe H nói xong, V nói với T “Tý nữa nhậu xong tau với mi đi đánh lại”, H nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”. Sau đó, H về trước, V và T vẫn tiếp tục nhậu. Khoảng 17 giờ 45 phút, khi đang thanh toán tiền, Trần Quang V nói với Phạm Nhật T “Có gì tao vào đánh, người dân ra thì mi chặn lại”, T đồng ý và lên xe máy để V chở đến nhà ông Q. Sau khi chạy vòng quanh nhà ông Q, biết ông Q không có ở nhà, V dừng xe ở một chỗ vắng người, lấy vải nilon che biển số xe rồi chở T đi lên cầu Lăng Cô đứng đợi. Đến khoảng 18 giờ, V chở T vòng xe quay lại đến trước nhà ông Q và nhìn thấy ông Q đang cúi người mở cổng. V dừng xe mở túi vợt cầu lông lấy ra 01 cây mã tấu có lưỡi hình răng cưa rồi chạy đến chém liên tiếp vào đầu, mặt, lưng, chân và tay ông Q làm ông Q bị ngã gục xuống đất. Do nhiều người dân xung quanh nhìn thấy hô hoán và chạy đến nên T cầm mã tấu đe dọa, ngăn chặn tạo điều kiện cho V chạy đến chỗ để xe máy và nổ máy tẩu thoát. Khi đến gần đèo Phú Gia, V gọi điện thoại cho H hỏi về tình trạng thương tích của ông Q. H hỏi lại V “Thế em có chém ông Q không? Ông Q đi Bệnh viện rồi”. Gọi điện thoại cho H xong V gọi điện cho Dương Quang L nói “Anh vừa mới chém ông Q xong! Em ở đâu, về cất 02 cây mã tấu cho anh!”. Nghe V điện xong L ra đường đứng đợi V và T đến. T đưa cho L túi vợt cầu lông đựng 02 cây mã tấu nhờ L cất giấu rồi V tiếp tục chở T về nhà của V và ngồi uống bia với T. Sau khi L đưa túi đựng 02 cây mã tấu về nhà nhờ ông Dương Quang H cất hộ, ông H đem túi này sang nhà bếp của ông Hồ T (bố vợ của ông H) cất giấu. Ông Dương Quang Q được người dân đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện thành phố Đà Nẵng đến ngày 03-02-2015 thì được ra viện. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 26-15/TgT ngày 28-01-2015, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Ông Dương Quang Q bị đa vết thương phần mềm vùng đầu, vai trái, khuỷu tay trái, đùi trái, để lại sẹo không ảnh hưởng chức năng 3%; vết thương phần mềm vùng mặt ít ảnh hưởng chức năng 8%; chấn thương gãy 04 răng cửa R1.1,1.2,1.3, 3.3; 2 răng hàm nhỏ 1.4,1.5; răng hàm 1.6 và 1.7 đang điều trị, hiện mất chức năng răng đối diện 20%; vết thương đứt gần lìa 1 bàn tay trái đã phẫu thuật tái tạo, hiện còn điều trị chưa đánh giá được di chứng chức năng 8%; vết thương đứt lìa ngón 2 và 3 bàn tay trái 25%; tỷ lệ tổn thương cơ thể chung là 51%; vật gây thương tích các tổn thương trên là vật sắc nặng. Nội dung của Án lệ: [1] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì: Sau khi chứng kiến việc bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Dương Quang Q đánh, Nguyễn Văn H là người trực tiếp gọi điện báo cho Trần Quang V biết việc ông H bị đánh. Trong lúc ăn nhậu cùng V và Phạm Nhật T vào tối ngày 19-01-2015, biết V và T có ý định đi đánh ông Q để trả thù, H nói “Ba bị đánh thương lắm, chừ còn đau”, làm củng cố ý thức, quyết tâm của V trong việc đi đánh ông Q. H cũng là người chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của ông Q cho V và T biết để V và T có thể thực hiện hành vi đánh ông Q. Khi nghe V và T bàn bạc kế hoạch đi đánh ông Q, H không can ngăn mà còn nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”, thể hiện sự thống nhất ý chí về việc đánh ông Q. Sau đó, H bỏ về trước. Thực tế, Trần Quang V đã dùng mã tấu chém liên tiếp vào vùng đầu, mặt, chân, tay ông Q làm ông Q gục ngay tại chỗ. Do mọi người can ngăn và được đưa đi cấp cứu kịp thời nên ông Q không chết là ngoài ý muốn chủ quan của V. Sau khi chém ông Q, V đã gọi liên tiếp ba cuộc điện thoại cho H để hỏi về thương tích của ông Q. Mặc dù, H không biết trước việc V dùng mã tấu chém liên tiếp vào những vùng trọng yếu trên cơ thể ông Q, có thể tước đoạt tính mạng của ông Q nhưng H đã thống nhất ý chí với V và T trong việc đánh ông Q, chấp nhận hậu quả xảy ra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H đồng phạm với Trần Quang V và Phạm Nhật T về tội “Giết người” là có căn cứ. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì: Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999. Như vậy, trong vụ án có đồng phạm, nếu người giúp sức/xúi giục có hành vi nhằm làm củng cố ý thức, quyết tâm thực hiện tội phạm của người thực hành; và thực hiện các hành động giúp sức khác như chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của người bị hại để người thực hiện hành vi đánh/ tác động lên người bị hại; không ngăn cản người thực hành mà còn nói vô thêm,... điều này sẽ thể hiện sự sự thống nhất ý chí trong thực hiện tội phạm => để từ đó xác định họ là đồng phạm trong cùng vụ án và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng tội danh với người thực hành. Tuy nhiên, người xúi giục/ giúp sức không có mặt khi người thực hành thực hiện tội phạm, không biết việc người thực hành sử dụng hung khí chém vào những vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại thì không thể đánh giá đối với tình tiết phạm tội “Có tính chất côn đồ” được.
Mức án cho đồng phạm người giúp sức đánh bạc?
Chào luật sư ạ! Luật sư cho e hỏi về trường hợp của em ạ. Bạn e có nhờ mượn tài khoản ngân hàng của e để nhận hộ tiền chuyển đến, lý do khi mượn tài khoản của e là " do bên kia chuyển tiền vào tài khoản của bạn e nhiều lần quá nên bên kia nghi ngờ tài khoản có vấn đề nên đã khoá và không cho chuyển vào tài khoản của bạn e nữa" Vì chỉ nghĩ đơn thuần là nhờ chuyển hộ tiền nên e đã đồng ý. 1, 2 lần đầu thì bạn e có điện báo e trk, mấy lần sau thì e thấy tiền tự chuyển về tài khoản sau đấy thì bạn e mới gọi điện để nhờ chuyển lại về tài khoản của bạn e. E có nhận và chuyển lại hộ cho bạn e vài lần. Mấy lần đầu cách nhau nên e ko để ý, về sau e thấy chuyển nhiều lần liên tục nên e sợ và từ chối ko chuyển hộ nữa. sau này e mới biết bạn e chơi game trên web, và tiền đấy là từ game chuyển về. Mấy lần đầu nhận được bao nhiêu thì e chuyển lại cho bạn nguyên như vậy. Về sau thì mỗi lần chuyển tiền bạn e lại gọi bảo chỉ cần chuyển lại chẵn thôi, còn lại giữ lại 1 ít lẻ coi như bù tiền phí chuyển tiền của ngân hàng ấy ạ. Số tiền ko cố định dao động mỗi lần chỉ 100-200, ví dụ : 3215000 thì bạn e bảo chỉ cần chuyển 3100000 thôi. sự việc diễn ra khoảng từ năm 2018-2019. Mấy hôm vửa rồi e có giấy triệu tập của cơ quan công an. Và được sau khi khai báo thì e được các a công an thông báo e mắc tội : " đồng phạm, trên cương vị người giúp sức cho đối tượng đánh bạc" Vậy luật sư cho e hỏi tội của e mắc phải là gì? , và hình phạt mức án phải chịu nhưnthees nào với ạ. em xin cảm ơn!
Bình luận về Người giúp sức trong Bộ luật Hình sự 2015
Người giúp sức ở đây là đồng phạm! trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp vụ án có đồng phạm, Toà án đã xác định không đúng vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không chính xác. Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đồng phạm vẫn được kế thừa từ Bộ luật Hình sự năm 1999, tuy nhiên, việc vận dụng các quy định này trong thực tiễn tố tụng hình sự để giải quyết các vụ án vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc phân biệt giữa đồng phạm với vai trò là người giúp sức và đồng phạm với vai trò là người thực hành. Theo khoa học luật hình sự nước ta thì người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, nghĩa là tự mình thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan quy định trong cấu thành tội phạm, như trực tiếp chiếm đoạt tài sản; trực tiếp mua bán, tàng trữ chất ma tuý; trực tiếp chôn, lấp, đổ thải chất thải nguy hại ra môi trường… Người thực hành có thể không phải là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án đồng phạm, nhưng người thực hành luôn là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm, vì hành vi của người thực hành được coi là có vị trí trung tâm, trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác phụ thuộc vào hành vi của người thực hành; đồng thời, nếu không có người thực hành, thì thủ đoạn phạm tội của người tổ chức có nham hiểm đến đâu, tội phạm cũng chỉ có thể dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, hậu quả tội phạm chưa xảy ra. Còn người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Giúp sức về vật chất là các trường hợp cung cấp tiền bạc, công cụ, phương tiện, khắc phục những trở ngại… để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm dễ dàng, thuận lợi hơn. Giúp sức về tinh thần là các trường hợp chỉ dẫn, cung cấp tình hình, góp ý kiến về kế hoạch, cách thức thực hiện tội phạm, hoặc hứa hẹn che giấu, ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó… Thực tiễn xét xử của các Toà án hiện nay, hầu như các vụ án hình sự có đồng phạm mà Toà án đưa ra xét xử đều có bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành, nhưng rất ít khi gặp trường hợp bị cáo tham gia vụ án với vai trò là người giúp sức. Nguyên nhân tình trạng này có thể là so với trước đây thì hiện nay tính manh động, liều lĩnh của tội phạm tăng lên, người thực hiện hành vi giúp sức nếu như trước đây tìm cách giấu mặt thì nay sẵn sàng trực tiếp tham gia thực hiện tội phạm, nên trong các trường hợp này vai trò của họ trong vụ án không còn là vai trò của người giúp sức nữa, mà họ trở thành người thực hành. Mặt khác, việc thu thập chứng cứ buộc tội đối với người giúp sức thường gặp rất nhiều khó khăn, do họ là người không trực tiếp thực hiện tội phạm, ít khi để lại dấu vết, nên chỉ với những lời khai của các đồng phạm khác về hành vi giúp sức của họ, rất khó để các cơ quan pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ; và cũng có thể các đồng phạm khác không khai ra họ để trả ơn đối với hành vi giúp sức của họ. Tuy nhiên, qua theo dõi các bản án hình sự mà các Toà án xét xử trong những năm gần đây, tình trạng xác định không chính xác vai trò đồng phạm, theo đó, người thực hành biến thành người giúp sức. Những trường hợp sau là ví dụ: Vụ án: Nguyễn Đình A và Trần Đức Đ là những đối tượng chuyên đi đòi nợ thuê. Đầu tháng 7/2015, Trần Văn H đã thuê Nguyễn Đình A và Trần Đức Đ đến nhà chị Phạm Thị H để đòi nợ số tiền 172 triệu đồng cho mình. Trần Văn H đi cùng H và Đ. Tại nhà chị H, do chị H chưa có tiền trả, xin khất nợ, nên Trần Văn H đồng ý. Vì có ý định chiếm đoạt tài sản của chị H, nên ngày hôm sau A và Đ hai lần đến nhà chị H, đồng thời gọi điện thoại đe dọa, yêu cầu chị H phải trả 20 triệu đồng trong vòng 10 ngày, nếu không chúng sẽ bắn chết. Vì sợ những lời đe dọa trên, nên ngày 18/7/2015, chị H đã giao cho A và Đ số tiền 20 triệu đồng. Số tiền này A và Đ không giao cho H mà tiêu xài hết. Khi xét xử vụ án, Toà án đã nhận định Nguyễn Đình A là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án, Trần Đức Đ là đối tượng tham gia với vai trò giúp sức, cùng Nguyễn Đình A đã có hành vi đe dọa chị H. Rõ ràng nhận định của Toà án như vậy là không đúng, bởi lẽ, trong vụ án này, nếu thấy rằng Đ tham gia ít tích cực hơn so với A, như A thể hiện thái độ hung hãn hơn, là người trực tiếp lấy tiền từ chị H..., thì Toà chỉ có thể nhận định vai trò của Đ trong vụ án có phần hạn chế hơn so với A để áp dụng một mức hình phạt nhẹ hơn, chứ không thể cho rằng Đ tham gia vụ án với vai trò giúp sức. Trong vụ án này, Đ là người cùng với A trực tiếp đe dọa, chiếm đoạt tài sản của chị H nên phải xác định Đ tham gia với vai trò người thực hành, chứ không phải là người giúp sức. Như vậy có thể thấy trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp vụ án có đồng phạm, Toà án đã xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không chính xác. Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng kể. Quy định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án đồng phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trò hạn chế nhất, do đó, họ có thể được xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa học luật hình sự, chứ không phải theo nhận thức cảm tính như các vụ án đã nêu trên.
Xác định tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “giết người” có đồng phạm?
Trong vụ án đồng phạm giết người, người giúp sức không trực tiếp thực hiện hành vi thì tình tiết “có tính chất côn đồ” được xác định như thế nào? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “giết người” có đồng phạm (được ban hành kèm theo Quyết định 269/QĐ-CA năm 2018 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Khoảng 08h ngày 13-01-2015, do có mâu thuẫn trong sinh hoạt nên xảy ra xô xát giữa các con của ông Dương Quang Q là Dương Quang T, Dương Quang R và Dương Quang K với ông Dương Quang H, Dương Quang L và Nguyễn Văn H. Các con của ông Q dùng tay, chân đấm đá vào người ông Dương Quang H làm ông H bị xây xát nhẹ. Thấy bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Q đánh, Nguyễn Văn H gọi điện báo cho Trần Quang V (là con rể của ông H). Biết tin bố vợ bị đánh, V đi từ Hà Tĩnh về Thừa Thiên Huế và rủ thêm Phạm Nhật T cùng đi đánh ông Q. Khi đi, V và T lấy ở nhà T 02 cây mã tấu, bỏ vào túi vợt cầu lông rồi mang theo. Khoảng 16 giờ ngày 19-01-2015, V chở T đến thị trấn Lăng Cô và gọi điện cho H đến nhậu cùng. Tại quán nhậu H nói với V “Ba bị đánh thương lắm, giờ vẫn còn đau”. V hỏi H địa chỉ nhà ông Q ở đâu và đặc điểm nhận dạng ông Q như thế nào. Nghe H nói xong, V nói với T “Tý nữa nhậu xong tau với mi đi đánh lại”, H nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”. Sau đó, H về trước, V và T vẫn tiếp tục nhậu. Khoảng 17 giờ 45 phút, khi đang thanh toán tiền, Trần Quang V nói với Phạm Nhật T “Có gì tao vào đánh, người dân ra thì mi chặn lại”, T đồng ý và lên xe máy để V chở đến nhà ông Q. Sau khi chạy vòng quanh nhà ông Q, biết ông Q không có ở nhà, V dừng xe ở một chỗ vắng người, lấy vải nilon che biển số xe rồi chở T đi lên cầu Lăng Cô đứng đợi. Đến khoảng 18 giờ, V chở T vòng xe quay lại đến trước nhà ông Q và nhìn thấy ông Q đang cúi người mở cổng. V dừng xe mở túi vợt cầu lông lấy ra 01 cây mã tấu có lưỡi hình răng cưa rồi chạy đến chém liên tiếp vào đầu, mặt, lưng, chân và tay ông Q làm ông Q bị ngã gục xuống đất. Do nhiều người dân xung quanh nhìn thấy hô hoán và chạy đến nên T cầm mã tấu đe dọa, ngăn chặn tạo điều kiện cho V chạy đến chỗ để xe máy và nổ máy tẩu thoát. Khi đến gần đèo Phú Gia, V gọi điện thoại cho H hỏi về tình trạng thương tích của ông Q. H hỏi lại V “Thế em có chém ông Q không? Ông Q đi Bệnh viện rồi”. Gọi điện thoại cho H xong V gọi điện cho Dương Quang L nói “Anh vừa mới chém ông Q xong! Em ở đâu, về cất 02 cây mã tấu cho anh!”. Nghe V điện xong L ra đường đứng đợi V và T đến. T đưa cho L túi vợt cầu lông đựng 02 cây mã tấu nhờ L cất giấu rồi V tiếp tục chở T về nhà của V và ngồi uống bia với T. Sau khi L đưa túi đựng 02 cây mã tấu về nhà nhờ ông Dương Quang H cất hộ, ông H đem túi này sang nhà bếp của ông Hồ T (bố vợ của ông H) cất giấu. Ông Dương Quang Q được người dân đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện thành phố Đà Nẵng đến ngày 03-02-2015 thì được ra viện. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 26-15/TgT ngày 28-01-2015, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Ông Dương Quang Q bị đa vết thương phần mềm vùng đầu, vai trái, khuỷu tay trái, đùi trái, để lại sẹo không ảnh hưởng chức năng 3%; vết thương phần mềm vùng mặt ít ảnh hưởng chức năng 8%; chấn thương gãy 04 răng cửa R1.1,1.2,1.3, 3.3; 2 răng hàm nhỏ 1.4,1.5; răng hàm 1.6 và 1.7 đang điều trị, hiện mất chức năng răng đối diện 20%; vết thương đứt gần lìa 1 bàn tay trái đã phẫu thuật tái tạo, hiện còn điều trị chưa đánh giá được di chứng chức năng 8%; vết thương đứt lìa ngón 2 và 3 bàn tay trái 25%; tỷ lệ tổn thương cơ thể chung là 51%; vật gây thương tích các tổn thương trên là vật sắc nặng. Nội dung của Án lệ: [1] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì: Sau khi chứng kiến việc bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Dương Quang Q đánh, Nguyễn Văn H là người trực tiếp gọi điện báo cho Trần Quang V biết việc ông H bị đánh. Trong lúc ăn nhậu cùng V và Phạm Nhật T vào tối ngày 19-01-2015, biết V và T có ý định đi đánh ông Q để trả thù, H nói “Ba bị đánh thương lắm, chừ còn đau”, làm củng cố ý thức, quyết tâm của V trong việc đi đánh ông Q. H cũng là người chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của ông Q cho V và T biết để V và T có thể thực hiện hành vi đánh ông Q. Khi nghe V và T bàn bạc kế hoạch đi đánh ông Q, H không can ngăn mà còn nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”, thể hiện sự thống nhất ý chí về việc đánh ông Q. Sau đó, H bỏ về trước. Thực tế, Trần Quang V đã dùng mã tấu chém liên tiếp vào vùng đầu, mặt, chân, tay ông Q làm ông Q gục ngay tại chỗ. Do mọi người can ngăn và được đưa đi cấp cứu kịp thời nên ông Q không chết là ngoài ý muốn chủ quan của V. Sau khi chém ông Q, V đã gọi liên tiếp ba cuộc điện thoại cho H để hỏi về thương tích của ông Q. Mặc dù, H không biết trước việc V dùng mã tấu chém liên tiếp vào những vùng trọng yếu trên cơ thể ông Q, có thể tước đoạt tính mạng của ông Q nhưng H đã thống nhất ý chí với V và T trong việc đánh ông Q, chấp nhận hậu quả xảy ra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H đồng phạm với Trần Quang V và Phạm Nhật T về tội “Giết người” là có căn cứ. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì: Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999. Như vậy, trong vụ án có đồng phạm, nếu người giúp sức/xúi giục có hành vi nhằm làm củng cố ý thức, quyết tâm thực hiện tội phạm của người thực hành; và thực hiện các hành động giúp sức khác như chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của người bị hại để người thực hiện hành vi đánh/ tác động lên người bị hại; không ngăn cản người thực hành mà còn nói vô thêm,... điều này sẽ thể hiện sự sự thống nhất ý chí trong thực hiện tội phạm => để từ đó xác định họ là đồng phạm trong cùng vụ án và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng tội danh với người thực hành. Tuy nhiên, người xúi giục/ giúp sức không có mặt khi người thực hành thực hiện tội phạm, không biết việc người thực hành sử dụng hung khí chém vào những vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại thì không thể đánh giá đối với tình tiết phạm tội “Có tính chất côn đồ” được.
Mức án cho đồng phạm người giúp sức đánh bạc?
Chào luật sư ạ! Luật sư cho e hỏi về trường hợp của em ạ. Bạn e có nhờ mượn tài khoản ngân hàng của e để nhận hộ tiền chuyển đến, lý do khi mượn tài khoản của e là " do bên kia chuyển tiền vào tài khoản của bạn e nhiều lần quá nên bên kia nghi ngờ tài khoản có vấn đề nên đã khoá và không cho chuyển vào tài khoản của bạn e nữa" Vì chỉ nghĩ đơn thuần là nhờ chuyển hộ tiền nên e đã đồng ý. 1, 2 lần đầu thì bạn e có điện báo e trk, mấy lần sau thì e thấy tiền tự chuyển về tài khoản sau đấy thì bạn e mới gọi điện để nhờ chuyển lại về tài khoản của bạn e. E có nhận và chuyển lại hộ cho bạn e vài lần. Mấy lần đầu cách nhau nên e ko để ý, về sau e thấy chuyển nhiều lần liên tục nên e sợ và từ chối ko chuyển hộ nữa. sau này e mới biết bạn e chơi game trên web, và tiền đấy là từ game chuyển về. Mấy lần đầu nhận được bao nhiêu thì e chuyển lại cho bạn nguyên như vậy. Về sau thì mỗi lần chuyển tiền bạn e lại gọi bảo chỉ cần chuyển lại chẵn thôi, còn lại giữ lại 1 ít lẻ coi như bù tiền phí chuyển tiền của ngân hàng ấy ạ. Số tiền ko cố định dao động mỗi lần chỉ 100-200, ví dụ : 3215000 thì bạn e bảo chỉ cần chuyển 3100000 thôi. sự việc diễn ra khoảng từ năm 2018-2019. Mấy hôm vửa rồi e có giấy triệu tập của cơ quan công an. Và được sau khi khai báo thì e được các a công an thông báo e mắc tội : " đồng phạm, trên cương vị người giúp sức cho đối tượng đánh bạc" Vậy luật sư cho e hỏi tội của e mắc phải là gì? , và hình phạt mức án phải chịu nhưnthees nào với ạ. em xin cảm ơn!
Bình luận về Người giúp sức trong Bộ luật Hình sự 2015
Người giúp sức ở đây là đồng phạm! trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp vụ án có đồng phạm, Toà án đã xác định không đúng vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không chính xác. Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đồng phạm vẫn được kế thừa từ Bộ luật Hình sự năm 1999, tuy nhiên, việc vận dụng các quy định này trong thực tiễn tố tụng hình sự để giải quyết các vụ án vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc phân biệt giữa đồng phạm với vai trò là người giúp sức và đồng phạm với vai trò là người thực hành. Theo khoa học luật hình sự nước ta thì người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, nghĩa là tự mình thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan quy định trong cấu thành tội phạm, như trực tiếp chiếm đoạt tài sản; trực tiếp mua bán, tàng trữ chất ma tuý; trực tiếp chôn, lấp, đổ thải chất thải nguy hại ra môi trường… Người thực hành có thể không phải là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án đồng phạm, nhưng người thực hành luôn là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm, vì hành vi của người thực hành được coi là có vị trí trung tâm, trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác phụ thuộc vào hành vi của người thực hành; đồng thời, nếu không có người thực hành, thì thủ đoạn phạm tội của người tổ chức có nham hiểm đến đâu, tội phạm cũng chỉ có thể dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, hậu quả tội phạm chưa xảy ra. Còn người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Giúp sức về vật chất là các trường hợp cung cấp tiền bạc, công cụ, phương tiện, khắc phục những trở ngại… để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm dễ dàng, thuận lợi hơn. Giúp sức về tinh thần là các trường hợp chỉ dẫn, cung cấp tình hình, góp ý kiến về kế hoạch, cách thức thực hiện tội phạm, hoặc hứa hẹn che giấu, ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó… Thực tiễn xét xử của các Toà án hiện nay, hầu như các vụ án hình sự có đồng phạm mà Toà án đưa ra xét xử đều có bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành, nhưng rất ít khi gặp trường hợp bị cáo tham gia vụ án với vai trò là người giúp sức. Nguyên nhân tình trạng này có thể là so với trước đây thì hiện nay tính manh động, liều lĩnh của tội phạm tăng lên, người thực hiện hành vi giúp sức nếu như trước đây tìm cách giấu mặt thì nay sẵn sàng trực tiếp tham gia thực hiện tội phạm, nên trong các trường hợp này vai trò của họ trong vụ án không còn là vai trò của người giúp sức nữa, mà họ trở thành người thực hành. Mặt khác, việc thu thập chứng cứ buộc tội đối với người giúp sức thường gặp rất nhiều khó khăn, do họ là người không trực tiếp thực hiện tội phạm, ít khi để lại dấu vết, nên chỉ với những lời khai của các đồng phạm khác về hành vi giúp sức của họ, rất khó để các cơ quan pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ; và cũng có thể các đồng phạm khác không khai ra họ để trả ơn đối với hành vi giúp sức của họ. Tuy nhiên, qua theo dõi các bản án hình sự mà các Toà án xét xử trong những năm gần đây, tình trạng xác định không chính xác vai trò đồng phạm, theo đó, người thực hành biến thành người giúp sức. Những trường hợp sau là ví dụ: Vụ án: Nguyễn Đình A và Trần Đức Đ là những đối tượng chuyên đi đòi nợ thuê. Đầu tháng 7/2015, Trần Văn H đã thuê Nguyễn Đình A và Trần Đức Đ đến nhà chị Phạm Thị H để đòi nợ số tiền 172 triệu đồng cho mình. Trần Văn H đi cùng H và Đ. Tại nhà chị H, do chị H chưa có tiền trả, xin khất nợ, nên Trần Văn H đồng ý. Vì có ý định chiếm đoạt tài sản của chị H, nên ngày hôm sau A và Đ hai lần đến nhà chị H, đồng thời gọi điện thoại đe dọa, yêu cầu chị H phải trả 20 triệu đồng trong vòng 10 ngày, nếu không chúng sẽ bắn chết. Vì sợ những lời đe dọa trên, nên ngày 18/7/2015, chị H đã giao cho A và Đ số tiền 20 triệu đồng. Số tiền này A và Đ không giao cho H mà tiêu xài hết. Khi xét xử vụ án, Toà án đã nhận định Nguyễn Đình A là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án, Trần Đức Đ là đối tượng tham gia với vai trò giúp sức, cùng Nguyễn Đình A đã có hành vi đe dọa chị H. Rõ ràng nhận định của Toà án như vậy là không đúng, bởi lẽ, trong vụ án này, nếu thấy rằng Đ tham gia ít tích cực hơn so với A, như A thể hiện thái độ hung hãn hơn, là người trực tiếp lấy tiền từ chị H..., thì Toà chỉ có thể nhận định vai trò của Đ trong vụ án có phần hạn chế hơn so với A để áp dụng một mức hình phạt nhẹ hơn, chứ không thể cho rằng Đ tham gia vụ án với vai trò giúp sức. Trong vụ án này, Đ là người cùng với A trực tiếp đe dọa, chiếm đoạt tài sản của chị H nên phải xác định Đ tham gia với vai trò người thực hành, chứ không phải là người giúp sức. Như vậy có thể thấy trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp vụ án có đồng phạm, Toà án đã xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không chính xác. Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng kể. Quy định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án đồng phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trò hạn chế nhất, do đó, họ có thể được xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa học luật hình sự, chứ không phải theo nhận thức cảm tính như các vụ án đã nêu trên.