Bị kết án tử hình thì có phải bồi thường thiệt hại dân sự hay không?
Người bị tuyên án tử hình sẽ bị tước đoạt đi mạng sống của mình, đây được xem là mức hình phạt nặng nhất đối với người phạm tội, dù vậy không ít các bản án, người phạm tội còn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự. Vậy ai sẽ thay người bị tử hình thực hiện bồi thường thiệt hại? 1. Có phải bồi thường dân sự trong vụ án hình sự? Cụ thể tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định khác. Theo đó, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Do đó, trong vụ án hình sự mà người phạm tội có gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự nếu xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bị hại. Đây là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và là trách nhiệm của chính người gây ra thiệt hại. 2. Thân nhân của người bị kết án tử có phải bồi thường thay? Trong trường hợp người phạm tội không tự nguyện bồi thường hoặc không có điều kiện để bồi thường thì người thân của người phạm tội không có nghĩa vụ bồi thường thay cho người phạm tội. Tuy nhiên, việc người thân tự nguyện bồi thường thay một phần hoặc toàn bộ thiệt hại cho bị hại để bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm a, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017). - Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm. - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Trường hợp phải đối mặt án tử hình mà người thân hoặc phạm nhân tự nguyện hối lỗi, thành khẩn khai báo và khắc phục hậu quả, bồi thường thỏa đáng cho người bị hại thì có thể nhận được sự khoan hồng của Nhà nước. 3. Trường hợp người bị kết án tử mà không tự nguyện khắc phục hậu quả? Trong trường hợp mà người phạm tội không tự nguyện bồi thường, cũng không có thân nhân thực hiện thay thì theo đó, người phải thi hành án có thời hạn 10 ngày (kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án) để tự nguyện thi hành án theo khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi bởi Luật thi hành án dân sự 2014). Trường hợp hết thời hạn này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật Thi hành án dân sự 2008. Cơ quan Thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để thực hiện việc bồi thường dân sự bao gồm: - Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. - Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. - Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. - Khai thác tài sản của người phải thi hành án. - Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. - Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Như vậy, khi bị kết án tử hình thì người phạm tội vẫn là người phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị bị hại, người thân không có nghĩa vụ bồi thường thay cho người phạm tội trừ trường hợp tự nguyện, nếu người phạm tội không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, án treo được áp dụng đối với người bị xử phạt tù với mức không quá 3 năm trong những trường hợp tòa án căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không cần phải buộc họ chấp hành hình phạt tù. Theo Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP điều kiện người bị kết án phạt tù được hưởng án treo: Bị xử phạt tù không quá 03 năm. Có nhân thân tốt. Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù,… Khi quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo, cơ quan có thẩm quyền có cần xem xét điều kiện chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại không? Điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo quy định người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau: “b) Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng”. Điểm b khoản 1 Điều 89 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định người được hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ các điều kiện sau đây: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật này; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng”. Khoản 2 Điều 87 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định nghĩa vụ của người được hưởng án treo: “Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận”. Như vậy, khi quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét điều kiện: chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Bài tập về nghĩa vụ bồi thường
1. Anh Bình là lái xe của công ty X với lương 8 triệu đồng/tháng, đã kết hôn hợp pháp với chị Vân từ 12/2014. Tháng 3/2015 anh Bình được thừa kế từ bố đẻ đã chết 1,2 tỷ. Anh đã nhập số tiền này vào tài sản chung và vợ chồng gửi tiết kiệm lấy lãi chi tiêu cho đời sống gia đình. Ngày 26/8/2016, anh Bình gây tai nạn cho ông C khi đang lái xe cho công ty, phải bồi thường 200 triệu đồng. Anh Bình không có tài sản riêng. Nghĩa vụ bồi thường trong trường hợp này là nghĩa vụ chung của vợ chồng hay nghĩa vụ riêng của anh Bình, vì sao? Vậy giải quyết bồi thường cho ông C như thế nào?
Bị kết án tử hình thì có phải bồi thường thiệt hại dân sự hay không?
Người bị tuyên án tử hình sẽ bị tước đoạt đi mạng sống của mình, đây được xem là mức hình phạt nặng nhất đối với người phạm tội, dù vậy không ít các bản án, người phạm tội còn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự. Vậy ai sẽ thay người bị tử hình thực hiện bồi thường thiệt hại? 1. Có phải bồi thường dân sự trong vụ án hình sự? Cụ thể tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định khác. Theo đó, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Do đó, trong vụ án hình sự mà người phạm tội có gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự nếu xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bị hại. Đây là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và là trách nhiệm của chính người gây ra thiệt hại. 2. Thân nhân của người bị kết án tử có phải bồi thường thay? Trong trường hợp người phạm tội không tự nguyện bồi thường hoặc không có điều kiện để bồi thường thì người thân của người phạm tội không có nghĩa vụ bồi thường thay cho người phạm tội. Tuy nhiên, việc người thân tự nguyện bồi thường thay một phần hoặc toàn bộ thiệt hại cho bị hại để bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm a, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017). - Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm. - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Trường hợp phải đối mặt án tử hình mà người thân hoặc phạm nhân tự nguyện hối lỗi, thành khẩn khai báo và khắc phục hậu quả, bồi thường thỏa đáng cho người bị hại thì có thể nhận được sự khoan hồng của Nhà nước. 3. Trường hợp người bị kết án tử mà không tự nguyện khắc phục hậu quả? Trong trường hợp mà người phạm tội không tự nguyện bồi thường, cũng không có thân nhân thực hiện thay thì theo đó, người phải thi hành án có thời hạn 10 ngày (kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án) để tự nguyện thi hành án theo khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi bởi Luật thi hành án dân sự 2014). Trường hợp hết thời hạn này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật Thi hành án dân sự 2008. Cơ quan Thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để thực hiện việc bồi thường dân sự bao gồm: - Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. - Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. - Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. - Khai thác tài sản của người phải thi hành án. - Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. - Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Như vậy, khi bị kết án tử hình thì người phạm tội vẫn là người phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị bị hại, người thân không có nghĩa vụ bồi thường thay cho người phạm tội trừ trường hợp tự nguyện, nếu người phạm tội không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, án treo được áp dụng đối với người bị xử phạt tù với mức không quá 3 năm trong những trường hợp tòa án căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không cần phải buộc họ chấp hành hình phạt tù. Theo Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP điều kiện người bị kết án phạt tù được hưởng án treo: Bị xử phạt tù không quá 03 năm. Có nhân thân tốt. Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù,… Khi quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo, cơ quan có thẩm quyền có cần xem xét điều kiện chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại không? Điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo quy định người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau: “b) Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng”. Điểm b khoản 1 Điều 89 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định người được hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ các điều kiện sau đây: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật này; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng”. Khoản 2 Điều 87 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định nghĩa vụ của người được hưởng án treo: “Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận”. Như vậy, khi quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét điều kiện: chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Bài tập về nghĩa vụ bồi thường
1. Anh Bình là lái xe của công ty X với lương 8 triệu đồng/tháng, đã kết hôn hợp pháp với chị Vân từ 12/2014. Tháng 3/2015 anh Bình được thừa kế từ bố đẻ đã chết 1,2 tỷ. Anh đã nhập số tiền này vào tài sản chung và vợ chồng gửi tiết kiệm lấy lãi chi tiêu cho đời sống gia đình. Ngày 26/8/2016, anh Bình gây tai nạn cho ông C khi đang lái xe cho công ty, phải bồi thường 200 triệu đồng. Anh Bình không có tài sản riêng. Nghĩa vụ bồi thường trong trường hợp này là nghĩa vụ chung của vợ chồng hay nghĩa vụ riêng của anh Bình, vì sao? Vậy giải quyết bồi thường cho ông C như thế nào?