Trường hợp được miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Căn cứ theo quy định tại Điều 237 Luật Thương mại 2005, những trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm bao gồm: (1) Miễn trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hóa Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hoá phát sinh trong các trường hợp sau đây: - Những trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005. - Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền. - Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền. - Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá. - Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức vận tải. - Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận. - Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng. (2) Miễn trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm không do lỗi của mình. Như vậy, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ được miễn trách nhiệm trong các trường hợp nêu bên trên.
Những trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng thương mại năm 2023
Hiện tại, Luật Thương mại 2005 vẫn còn hiệu lực nên trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng thương mại năm 2023 vẫn áp dụng theo Luật này. Cụ thể như sau: Theo quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng thương mại được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận. - Xảy ra sự kiện bất khả kháng. - Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia. - Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Trong đó, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (căn cứ khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015). Ví dụ: sự cố cháy nổ, thiên tai không dự báo trước,... Lưu ý: Bên vi phạm hợp đồng thương mại có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm và thông báo cho bên bị vi phạm. Cụ thể tại Điều 295 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng thương mại thực hiện việc thông báo và xác nhận trường hợp miễn trách nhiệm như sau: - Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. - Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. - Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình.
Việc miễn trách nhiệm hình sự trong tình huống này có đúng không?
Thấy M và N đang cướp tài sản của một học sinh trường cấp III, L xông vào định tham gia ăn chia phần, L lột được chiếc đồng hồ trên tay nạn nhân sau đó lại đưa lại cho M. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đã truy tố M, N về tội cướp tài sản, nhưng lại căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015 quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho L với lý do L phạm tội lần đầu, tham gia với vai trò thứ yếu, đã bồi thường thiệt hại, được gia đình nạn nhân bãi nại, sau khi lột chiếc đồng hồ của nạn nhân đã giao cho người khác chiếm giữ là nên xét về chủ quan là không có ý thức chiếm đoạt đến cùng và người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ miễn TNHS đối với L có đúng không?
Tình huống về miễn trách và ủy quyền trong kinh doanh
Công ty may A (TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam) gia công hàng cho công ty B (Pháp) với số lượng 80.000 áo sơ mi nam, giá gia công 1,6 USD/chiếc. Giao hàng cuối tháng 9/2019, thanh toán bằng phương thức T/T (trả tiền bằng điện). Trong hợp đồng, 2 bên đã thoả thuận rằng trước ngày giao hàng, đại diện được ủy quyền của Bên Pháp sẽ đến kiểm tra hàng hóa, và nếu hàng đạt tiêu chuẩn, thì người đại diện ấy sẽ xác nhận vào giấy chứng nhận chất lượng do bên nhận gia công lập. Trường hợp giao hàng chậm sẽ phải chịu phạt 10% trị giá tiền công. Ngày 1/9/2019 công ty A đã thông báo cho công ty B, với nội dung như sau: Do công ty gặp trường hợp bất khả kháng, xưởng may của công ty thường xuyên bị cắt điện, cho nên công ty chỉ có thể giao hàng vào cuối tháng 10/2019. Cuối tháng 10/2019 khi hàng đã hoàn tất và chuẩn bị giao hàng xuống tầu, công ty A có mời nhân viên văn phòng đại diện của công ty Pháp tại Việt Nam đến xem xét hàng hóa, và họ đã chứng nhận chất lượng hàng hóa vào chứng từ chất lượng do công ty may A lập. Nhưng đến khi thanh toán công ty B đã trừ: -10% giá gia công do giao hàng chậm -30% giá gia công do có một số sản phẩm may không đảm bảo chất lượng (như mẫu đối chứng). Công ty A đã lập luận lại: - Công ty A đã giao hàng chậm bởi vì công ty gặp trường hợp bất khả kháng và đã thông báo cho B biết trong bức điện ngày 1/9/2019 cho nên công ty được miễn trách. - Chất lượng hàng hóa mà công ty đã may gia công phù hợp với quy định của hợp đồng (phù hợp với mẫu đối chứng). Việc này đã được nhân viên văn phòng đại diện của công ty Pháp kiểm tra và xác nhận vào giấy chứng nhận chất lượng, cho nên việc giảm 30% trị giá tiền gia công về việc hàng giao không đảm bảo chất lượng là thiếu căn cứ. (bên Pháp cho rằng Văn phòng đại diện ở Việt Nam của công ty không được ủy quyền kiểm tra hàng hóa, bằng chứng là không có giấy ủy quyền). CÂU HỎI 1. Lý do mà công ty B của Pháp đưa ra có đúng không? Tại sao? 2. Lập luận của công ty A của Việt Nam có đúng hay không? 3. Để thanh toán được tiền công, công ty A cần phải làm gì? Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự việc trên đối với công ty A. Trên đây là 3 câu hỏi em cần được giải đáp, mong mọi người giải đáp và giúp đỡ em sớm ạ. Em cảm ơn ạ
Trường hợp được miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Căn cứ theo quy định tại Điều 237 Luật Thương mại 2005, những trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm bao gồm: (1) Miễn trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hóa Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hoá phát sinh trong các trường hợp sau đây: - Những trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005. - Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền. - Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền. - Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá. - Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức vận tải. - Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận. - Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng. (2) Miễn trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm không do lỗi của mình. Như vậy, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ được miễn trách nhiệm trong các trường hợp nêu bên trên.
Những trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng thương mại năm 2023
Hiện tại, Luật Thương mại 2005 vẫn còn hiệu lực nên trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng thương mại năm 2023 vẫn áp dụng theo Luật này. Cụ thể như sau: Theo quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng thương mại được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận. - Xảy ra sự kiện bất khả kháng. - Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia. - Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Trong đó, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (căn cứ khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015). Ví dụ: sự cố cháy nổ, thiên tai không dự báo trước,... Lưu ý: Bên vi phạm hợp đồng thương mại có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm và thông báo cho bên bị vi phạm. Cụ thể tại Điều 295 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng thương mại thực hiện việc thông báo và xác nhận trường hợp miễn trách nhiệm như sau: - Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. - Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. - Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình.
Việc miễn trách nhiệm hình sự trong tình huống này có đúng không?
Thấy M và N đang cướp tài sản của một học sinh trường cấp III, L xông vào định tham gia ăn chia phần, L lột được chiếc đồng hồ trên tay nạn nhân sau đó lại đưa lại cho M. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đã truy tố M, N về tội cướp tài sản, nhưng lại căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015 quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho L với lý do L phạm tội lần đầu, tham gia với vai trò thứ yếu, đã bồi thường thiệt hại, được gia đình nạn nhân bãi nại, sau khi lột chiếc đồng hồ của nạn nhân đã giao cho người khác chiếm giữ là nên xét về chủ quan là không có ý thức chiếm đoạt đến cùng và người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ miễn TNHS đối với L có đúng không?
Tình huống về miễn trách và ủy quyền trong kinh doanh
Công ty may A (TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam) gia công hàng cho công ty B (Pháp) với số lượng 80.000 áo sơ mi nam, giá gia công 1,6 USD/chiếc. Giao hàng cuối tháng 9/2019, thanh toán bằng phương thức T/T (trả tiền bằng điện). Trong hợp đồng, 2 bên đã thoả thuận rằng trước ngày giao hàng, đại diện được ủy quyền của Bên Pháp sẽ đến kiểm tra hàng hóa, và nếu hàng đạt tiêu chuẩn, thì người đại diện ấy sẽ xác nhận vào giấy chứng nhận chất lượng do bên nhận gia công lập. Trường hợp giao hàng chậm sẽ phải chịu phạt 10% trị giá tiền công. Ngày 1/9/2019 công ty A đã thông báo cho công ty B, với nội dung như sau: Do công ty gặp trường hợp bất khả kháng, xưởng may của công ty thường xuyên bị cắt điện, cho nên công ty chỉ có thể giao hàng vào cuối tháng 10/2019. Cuối tháng 10/2019 khi hàng đã hoàn tất và chuẩn bị giao hàng xuống tầu, công ty A có mời nhân viên văn phòng đại diện của công ty Pháp tại Việt Nam đến xem xét hàng hóa, và họ đã chứng nhận chất lượng hàng hóa vào chứng từ chất lượng do công ty may A lập. Nhưng đến khi thanh toán công ty B đã trừ: -10% giá gia công do giao hàng chậm -30% giá gia công do có một số sản phẩm may không đảm bảo chất lượng (như mẫu đối chứng). Công ty A đã lập luận lại: - Công ty A đã giao hàng chậm bởi vì công ty gặp trường hợp bất khả kháng và đã thông báo cho B biết trong bức điện ngày 1/9/2019 cho nên công ty được miễn trách. - Chất lượng hàng hóa mà công ty đã may gia công phù hợp với quy định của hợp đồng (phù hợp với mẫu đối chứng). Việc này đã được nhân viên văn phòng đại diện của công ty Pháp kiểm tra và xác nhận vào giấy chứng nhận chất lượng, cho nên việc giảm 30% trị giá tiền gia công về việc hàng giao không đảm bảo chất lượng là thiếu căn cứ. (bên Pháp cho rằng Văn phòng đại diện ở Việt Nam của công ty không được ủy quyền kiểm tra hàng hóa, bằng chứng là không có giấy ủy quyền). CÂU HỎI 1. Lý do mà công ty B của Pháp đưa ra có đúng không? Tại sao? 2. Lập luận của công ty A của Việt Nam có đúng hay không? 3. Để thanh toán được tiền công, công ty A cần phải làm gì? Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự việc trên đối với công ty A. Trên đây là 3 câu hỏi em cần được giải đáp, mong mọi người giải đáp và giúp đỡ em sớm ạ. Em cảm ơn ạ