Đề xuất HSSV được giảm giá vé tàu điện, tàu điện ngầm, miễn phí tham quan danh lam thắng cảnh
Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất học sinh, sinh viên được giảm giá vé: tàu điện trên cao, tàu điện ngầm, phà; học sinh phổ thông được miễn phí tham quan các thiết chế văn hóa như: bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh. Bộ GD&ĐT công bố dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục. Trong đó, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 10 Nghị định 84/2020/NĐ-CP về việc miễn, giảm giá vé dịch vụ công cộng về giao thông, về giải trí, tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hóa, theo hướng như sau: Bổ sung 3 loại hình phương tiện giao thông công cộng mà học sinh, sinh viên được giảm giá vé: tàu điện trên cao, tàu điện ngầm, phà. Bỏ quy định học sinh, sinh viên được giảm giá vé dịch vụ khi trực tiếp sử dụng dịch vụ thư viện, vì không có khái niệm vé dịch vụ thư viện theo Luật Thư viện. Đồng thời, Luật Thư viện đã quy định quyền của người sử dụng thư viện đặc thù, theo đó trẻ em có quyền được tạo điều kiện sử dụng tài nguyên thông tin phù hợp với lứa tuổi, cấp học tại thư viện công cộng, được miễn các khoản chi phí làm thẻ thư viện. Đề xuất học sinh phổ thông được miễn phí tham quan bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh Sửa đổi theo hướng quy định học sinh phổ thông được miễn phí tham quan các thiết chế văn hóa như: bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh và chuẩn hóa từ ngữ để phù hợp với Luật Di sản văn hóa. Đối với sinh viên, dự thảo giữ quy định hiện hành tại Nghị định 84/2020/NĐ-CP (được giảm phí tham quan bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh). Nội dung sửa đổi nêu trên tiếp thu ý kiến của đa số nhà giáo, người học, cơ quan quản lý giáo dục, có tác động tích cực đến việc học sinh phổ thông, nhất là học sinh tiểu học được tạo nhiều cơ hội tham gia học tập dưới hình thức trải nghiệm, khám phá thực tiễn. Hướng sửa đổi này phù hợp với mục đích, yêu cầu của Chương trình GDPT hiện nay. Theo Chính phủ Nguồn: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/de-xuat-hoc-sinh-duoc-giam-gia-ve-tau-dien-tren-cao-tau-dien-ngam-pha-mien-phi-tham-quan-danh-lam-thang-canh-119241014181145357.htm
Nội dung GDQP sẽ được giảng dạy tại chương trình THCS như thế nào?
Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT hướng dẫn lồng ghép nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường tiểu học, trường trung học cơ sở và trường phổ thông có nhiều cấp học sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Cụ thể qua bài viết sau. Nội dung GDQP sẽ được giảng dạy tại chương trình THCS như thế nào? Theo Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, Thông tư nhằm hướng dẫn lồng ghép nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh thông qua các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông đối với trường tiểu học, trường trung học cơ sở và trường phổ thông có nhiều cấp học (sau đây gọi là trường tiểu học và trường trung học cơ sở), bao gồm: nội dung, phương pháp, hình thức, yêu cầu cần đạt và các điều kiện bảo đảm thực hiện việc lồng ghép. Theo Điều 3 Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT nội dung lồng ghép sẽ là giáo dục, tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh. Cụ thể nội dung GDQP và an ninh sẽ được lồng ghép trong trường THCS như sau: - Cấp trung học cơ sở sẽ thực hiện lồng ghép trong các môn học và hoạt động giáo dục đối với từng lớp, theo sách giáo khoa do nhà trường lựa chọn, phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh ở từng địa phương, tập trung vào các môn học: Ngữ văn; Giáo dục công dân; Lịch sử và Địa lí; Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật); Nội dung giáo dục địa phương; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. - Chủ đề lồng ghép chung từ lớp 6 đến lớp 9: + Giáo dục tinh thần đoàn kết, yêu nước của dân tộc Việt Nam trong dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử; + Bảo vệ chủ quyền biển, đảo; + Bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia; + Quyền lợi, trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; + Giới thiệu một số sự kiện lịch sử chống giặc ngoại xâm; + Một số nội dung về bảo vệ thông tin cá nhân khi tham gia mạng xã hội; + Giới thiệu một số nội dung về phòng, chống tệ nạn xã hội đối với học sinh; + Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước. - Chủ đề lồng ghép theo từng lớp: + Lớp 6: giới thiệu lịch sử và truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Công an Nhân dân Việt Nam; địa danh lịch sử gắn với các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc; cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. + Lớp 7: giới thiệu hoạt động, hình ảnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam; một số nội dung về bảo vệ thông tin cá nhân khi tham gia mạng xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật. + Lớp 8: giáo dục lòng tự hào, tự tôn dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm; giới thiệu một số mốc quốc giới; tác hại của tệ nạn xã hội tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội; trách nhiệm của học sinh tham gia phòng, chống bạo lực học đường. + Lớp 9: Hậu quả của các cuộc chiến tranh xâm lược đối với dân tộc Việt Nam; một số hình ảnh về phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; giới thiệu một số bài hát ca ngợi truyền thống vẻ vang của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Công an Nhân dân Việt Nam; trách nhiệm của học sinh tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, đối với từng cấp sẽ có từng nội dung giáo dục chung và riêng, lồng ghép trong thời lượng phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông, kế hoạch giáo dục của trường trung học cơ sở; bảo đảm đủ nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh cần truyền đạt, không làm tăng thời lượng học của các môn học và hoạt động giáo dục. Xem toàn văn: Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Yêu cầu học sinh THCS cần đạt sau khi được giảng dạy GDQP là gì? Theo Điều 5 Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT, học sinh THCS sẽ cần phải đạt những yêu cầu sau: - Yêu cầu chung + Về phẩm chất: Hình thành, phát triển cho học sinh các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, chăm chỉ; ý thức, trách nhiệm của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. + Về năng lực Hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực tự chủ, tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề sáng tạo thông qua các năng lực chuyên biệt: nhận thức về quốc phòng và an ninh ở mức độ đơn giản; vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào cuộc sống. - Yêu cầu cụ thể + Hiểu biết về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc qua các thời kì lịch sử dựng nước và giữ nước; + Truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Công an Nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ; + Chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo và an ninh biên giới quốc gia; + Một số nội dung cơ bản trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hình thành nhận thức về quốc phòng, an ninh ở mức độ đơn giản, trách nhiệm của học sinh đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết và tự giác chấp hành các quy định của pháp luật. Như vậy, sau khi được giảng dạy chương trình GDQP, học sinh THCS phải đáp ứng được các yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể đối với cấp học như trên. Qua đó, giáo dục sâu sắc về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khơi gợi lòng yêu nước, niềm tự tôn, tự hào dân tộc từ các em học sinh. Xem toàn văn: Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
"Địa chỉ đỏ" là gì? TPHCM có những địa chỉ đỏ nào?
“Địa chỉ đỏ” là những địa điểm gắn liền với các hoạt động về nguồn, là những “bảo tàng sống” để giáo dục trong công tác giáo dục truyền thống và là địa điểm tham quan hấp dẫn của du khách thập phương. Vậy, hiện tại TPHCM có những địa chỉ đỏ nào? “Địa chỉ đỏ” là gì? Địa chỉ đỏ là những địa điểm lịch sử liên quan đến Cách mạng Kháng chiến, được công nhận xếp hạng cấp quốc gia, cấp thành phố, các địa điểm lưu niệm sự kiện cách mạng kháng chiến đã được UBND thành phố quyết định gắn biển địa điểm cách mạng kháng chiến. Danh sách những địa chỉ đỏ tại TPHCM 1) Bảo tàng Hồ Chí Minh Bảo tàng Hồ Chí Minh có địa chỉ tại số 1 Nguyễn Tất Thành, Phường 12, Quận 4, với khuôn viên rộng trên 12.000 ha nằm ở vị trí ngã ba sông Sài Gòn. Hiện nay, Bảo tàng có 07 phòng trưng bày trong đó có 4 phòng trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 03 phòng trưng bày chuyên đề đặc biệt, nhấn mạnh đến sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước; tình cảm của Bác Hồ đối với nhân dân miền Nam và tình cảm kính yêu của nhân dân miền Nam đối với Bác Hồ và Hệ thống đền thờ Bác Hồ ở Nam Bộ. 2) Bia Tưởng niệm chiến sĩ biệt động Sài Gòn hy sinh tại Dinh Độc Lập Hồ Chí Minh Bia đặt tại địa chỉ 108 Nguyễn Du, phường Bến Thành, Quận 1 – nơi đã diễn ra cuộc chiến đấu của 15 chiến sĩ Đội 5, Biệt động Sài Gòn - Gia Định tấn công vào Dinh Độc Lập trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Ghi nhận sự hy sinh của các chiến sĩ, đơn vị được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (20/12/1969). 3) Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ Di tích Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ, đặt tại số 51/10/14 đường Cao Thắng, Phường 3, Quận 3, đánh dấu một trang sử cách mạng quan trọng trong giai đoạn chống Mỹ. Tại đây Ban Tuyên huấn Xứ ủy đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng với sự tham gia của các lãnh đạo cao cấp như Trần Bạch Đằng, Phạm Dân, Tân Đức, Đỗ Văn Ba... cho đến khi Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ dời về chiến khu D vào năm 1957. 4) Cơ sở in ấn của Hội ủng hộ Vệ quốc đoàn Cơ sở in ấn của Hội Ủng hộ vệ quốc đoàn năm 1954 (còn gọi là Hầm B) nằm trong con hẻm nhỏ đường Ngô Gia Tự, quận 10, TP.HCM. Đây là nơi in ấn, sao lưu tài liệu tuyên truyền cách mạng thời kháng chiến chống Pháp. 5) Khu di tích Lịch sử Dân công hoả tuyến Ở xã Vĩnh Lộc A (huyện Bình Chánh, TP.HCM) có một con đường tên Nữ Dân Công hay Dân Công Hỏa Tuyến. Cuối con đường là khu di tích tưởng niệm 32 dân công đã hy sinh trong trận đánh địch đêm 15/6/1968. Trong số họ, có một người du kích làm hướng dẫn, một thanh niên từ gia đình Cách mạng tham gia cùng với đoàn dân công, hai đồng chí thương binh từ Sư đoàn 9 và 16 phụ nữ cùng 5 nam giới bị thương. Họ đều rất trẻ, người lớn nhất mới 30 tuổi, còn người trẻ nhất chỉ 15 tuổi. Tất cả đều là những người yêu nước, sẵn lòng hi sinh để bảo vệ quê hương và Tổ quốc. 6) Số 4 Duy Tân - Trung tâm đấu tranh công khai của tuổi trẻ thời đánh Mỹ Nhà Văn hóa Thanh niên, số 4 Phạm Ngọc Thạch (trước là số 4 Duy Tân) là mảnh đất của thanh niên thành phố hơn 50 năm qua. Từ những năm 1960, nơi đây là trung tâm đấu tranh chính trị của thanh niên, sinh viên, học sinh do Thành đoàn Sài Gòn – Gia Định trực tiếp lãnh đạo như Tổng hội sinh viên, Tổng đoàn học sinh, Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn, Hội sinh viên sáng tác, đoàn văn nghệ sinh viên học sinh. Nơi đây xuất phát các phong trào đòi hòa bình, thống nhất đất nước, đòi tự trị đại học, chống đôn quân bắt lính… Ngày 26/3/1985, Ban Thường vụ Thành đoàn ra quyết định số 79, đặt bia truyền thống kỷ niệm tại số 4 Duy Tân với nội dung “4 Duy Tân - Trung tâm đấu tranh công khai của tuổi trẻ thành phố thời đánh Mỹ” và xếp địa điểm này vào loại lịch sử truyền thống của Ðoàn Thanh niên TP. 7) Hầm chứa vũ khí biệt động sài gòn Bên dưới ngôi nhà số 287/70 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, TPHCM có một căn hầm bí mật. Nơi đây từng cất giấu hơn 2 tấn vũ khí của Biệt động Sài Gòn trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là ở thời điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968). Căn hầm từng là nơi cất giấu hơn 2 tấn vũ khí: 350kg thuốc nổ TNT, thuốc nổ C4, 15 súng AK và 3.000 viên đạn, súng ngắn, súng B40, lựu đạn… Điều đặc biệt hơn nữa là căn nhà nằm ngay giữa trung tâm thành phố, cách Dinh Độc Lập hơn 1km. Tất cả các hoạt động đào hầm, vận chuyển, cất giấu vũ khí đều được giữ bí mật, an toàn tuyệt đối. 8) Di tích Ngã Ba Giòng Di tích Ngã Ba Giòng nằm tại Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 03 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giòng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. 9) Phở Bình Tiệm phở Bình ở số 7 Lý Chính Thắng, quận 3, TP HCM trước đây là đường Yên Ðổ, là "tổng hành dinh" của đơn vị F100 thuộc biệt động Sài Gòn, nơi phát lệnh cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Bộ Tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam đã tiến hành lập kế hoạch và xây dựng các cơ sở bí mật trong nội thành. Những nơi này được sử dụng để lưu trữ vũ khí, đồng thời là điểm tổ chức các cuộc họp, trao đổi thông tin, và là cơ sở tiền chỉ huy trước và trong các trận đánh. Ðây là Sở chỉ huy tiền phương - Phân khu 6, Ðặc khu Sài Gòn - Gia Ðịnh. 10) Di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác Cần Giờ Nằm bên trong Di tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác Cần Giờ là Khu căn cứ Cách mạng Rừng Sác, nơi đây được công nhận là Khu di tích lịch sử cấp Quốc gia, Khu căn cứ này đã được nhiều người biết đến qua quá khứ hào hùng của Đội Đặc công Rừng Sác. Căn cứ đã được xây dựng và tái hiện lại gần như toàn bộ quang cảnh sinh hoạt và chiến đấu của các anh hùng khi xưa như: Nhà cảnh vệ, nhà đón tiếp, hầm trú ẩn, hội trường, nhà hậu cần, nhà quân y, nhà quân giới, nhà cơ yếu; cảnh chỉ huy Đoàn 10 đang nghe báo cáo tình hình thực địa và hạ quyết tâm tổ chức tập kích phá hủy kho xăng Nhà Bè, cảnh chiến sĩ Đoàn 10 tiêu diệt cá sấu, cách chưng cất nước mặn thành nước ngọt, cảnh đưa tiễn chiến sĩ vào trận đánh, trận địa súng DKZ pháo kích vào Dinh Độc lập… Di tích lịch sử Việt Nam hiện nay được phân thành mấy cấp? Di tích lịch sử là một dạng của di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. Theo Điều 29 Luật Di sản văn hóa 2001 (sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi 2009) thì di tích lịch sử Việt Nam được phân chia thành 03 cấp, dựa trên giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hoá, cụ thể như sau: (1) Di tích lịch sử cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương; (2) Di tích lịch sử cấp quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia; (3) Di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia. Như vậy, di tích lịch sử Việt Nam được chia thành 03 cấp. Đối với mỗi cấp sẽ có những điều kiện, tiêu chuẩn công nhận khác nhau. Những di tích này là chứng nhân lịch sử theo từng giai đoạn của đất nước, là địa điểm thiết thực nhất để giáo dục về lòng yêu nước cho con cháu ta.
Tìm hiểu nguồn gốc hình thành và lịch sử phát triển thuật ngữ “doanh nghiệp”
Thuật ngữ “doanh nghiệp” lần đầu tiên được nhắc đến là trong Sắc lệnh 104/SL ngày 01 tháng 01 năm 1948 về doanh nghiệp quốc gia. Trải qua thời kỳ bao cấp với đặc trưng là nền kinh tế tập trung, khái niệm này dần bị quên lãng. Mãi đến khoảng năm 1986, bắt đầu giai đoạn nền kinh tế thị trường, khái niệm “doanh nghiệp” mới được quay lại sử dụng. Khái niệm doanh nghiệp có thể được hiểu trên nhiều góc độ. Ở góc độ kinh tế, doanh nghiệp được hiểu là các tổ chức lấy việc hoạt động thu lợi là hoạt động nghề nghiệp của mình. Ở góc độ pháp lý, Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quy định pháp lý định nghĩa về doanh nghiệp. Trong suốt quá trình lập pháp ở Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp đã được thay đổi qua nhiều giai đoạn Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020. Luật Công ty 1990 định nghĩa: “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện hoạt động kinh doanh” Luật Doanh nghiệp 1999 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” Đến Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020, khái niệm doanh nghiệp dường như được quy định một cách thống nhất và đầy đủ hơn. Theo đó, doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Dù khái niệm doanh nghiệp được hiểu ở nhiều góc độ và được quy định khác nhau ở các văn bản pháp luật khác nhau, nhưng tựu trung, ta có thể hiểu doanh nghiệp qua những yếu tố sau: là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh.
Vị vua ban hành Bộ luật Hình sự đầu tiên của Việt Nam
Ban chỉ đạo xây dựng nhân vật lịch sử thời quân chủ tiêu biểu trong hoạt động xét xử đã chọn ra hai nhân vật là vua Lý Thái Tông (1000-1054) và vua Trần Nhân Tông (1250-1308 ) để lấy ý kiến bình chọn rộng rãi. Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử xin lần lượt giới thiệu về hai vị vua anh minh này để bạn đọc tham khảo. Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta - Minh họa Vị vua nhân từ Lý Thái Tông (1000 – 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Nhà Lý, cai trị trong 26 năm (1028–1054). Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của Nhà Lý. Lý Thái Tông tên thật là Lý Phật Mã, là con trưởng của Lý Thái Tổ, được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua Loạn Tam vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ. Đế củng cố quyền lực cho Nhà Lý, bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp loạn đảng làm phản như loạn họ Nùng; bên ngoài đánh được Chiêm Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển phồn thịnh. Đối với quần thần, Thái Tông thường tỏ ra nhân từ, không xử tội các Vương tham gia vụ loạn tam vương, cho tha tội mà còn phục chức. Đối với kẻ thù như Chiêm Thành, vua còn ra lệnh không tùy tiện chém giết, lệnh cho binh lính không được làm bậy. Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Tấm lòng ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ chăng?! Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm”. Lý Thái Tông lên làm vua đã hơn 15 năm, mà nước Chiêm Thành láng giềng không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thấy vậy, năm 1044, vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ. Lý Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm thua chạy. Quân Lý bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi. Tướng Chiêm là Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng. Bấy giờ quân Chiêm Thành và dân bản xứ bị giết rất nhiều. Vua Thái Tông trông thấy động lòng thương, ra lệnh cấm không được giết người Chiêm, hễ ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội. Ông tiến binh đến quốc đô Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế), vào thành bắt được vương phi Mỵ Ê và các cung nữ đem về. Mỵ Ê giữ tiết không chịu lấy vua, nhảy xuống sông tự tử. Mỵ Ê được ông khen là trinh tiết, phong làm Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành. Ban hành Hình thư Thái Tông Hoàng đế còn chủ trương sửa lại luật pháp, định các bậc hình phạt, các cách tra hỏi. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta, người chủ đánh chết ngay lúc bấy giờ thì không bị tội. Những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến các thân thuộc Đế từ hạng đại công trở lên phạm tội thì cho chuộc bằng tiền, nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này. Xuống chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu, ngoài 10 phần phải nộp quan được lấy thêm một phần nữa, gọi là “hoành đầu”. Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú dịch cho cả nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô và người thu thuế cũng phải tội như nhau. Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện. Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử. Năm 1042, Thái Tông Hoàng đế ban Hình thư. Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo. Bộ luật Hình thư năm 1042 được xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp nước ta. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế… Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp… (Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn – Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr 272, 273) Ngay sau khi ban hành luật, nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội, trừ khi người đó phạm phải những tội trong thập ác: 1.Mưu phản: làm nguy xã tắc 2.Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết 3.Mưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặc 4.Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ 5.Bất đạo: giết người vô tội 6.Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua 7.Bất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ 8.Bất mục: đánh giết những người thân thuộc gần 9.Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng, con giết cha 10.Nội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha. Năm 1043, Lý Thái Tông đặt thêm quy định: Ai trộm lúa của dân sẽ bị đánh 100 trượng; nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu. Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trường và thích 30 chữ. Năm 1043, tháng 8, vua xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đáng trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc. Xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ. Bộ luật này có đề cập tới vấn đề xét xử tội tham ô, hối lộ. Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép: Vào năm Quý Mùi (1043), vua đã xuống chiếu cho Quyến khố ty (ty coi việc kho lụa) “ai nhận riêng một thước lụa của người thì xử 100 trượng, từ 1 tấm đến 10 tấm trở lên thì phạt trượng theo số tấm, gia thêm khổ sai 10 năm”. Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu lực vẫn còn hạn chế. Hình thư hiện đã bị thất truyền. Đề cao sự khoan hồng Lý Thái Tông còn được lịch sử ghi nhớ vì quy định về tuyên thệ như một nghi thức của triều đình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, hàng năm, vua cùng quần thần đến đền Đồng Cổ (Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội ngày nay) để cùng phát thệ: “Kẻ nào làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh tru diệt”. Lễ thức này được duy trì qua nhiều triều vua đời Lý và sang cả đời Trần. Nhiều lần dùng binh từ Nam chí Bắc nhưng Lý Thái Tông tỏ ra là vị hoàng đế bao dung, nhân hậu. Các sử gia cho rằng Lý Thái Tông cũng như nhiều hoàng đế Nhà Lý khác có lượng khoan hồng vì ảnh hưởng của quốc giáo là đạo Phật. Trừ người em Vũ Đức vương làm loạn bị giết, với những vương tôn phản loạn khác ông đều tha tội. Trong cuộc phản loạn của các vương tôn, nhờ người em thứ hai của Thái Tông là Khai Quốc vương đem quân giải vây cho Thăng Long và Trường Yên (kinh đô Hoa Lư) giúp ông chống lại quân nổi loạn và chính Khai Quốc vương vận động quần thần tôn ông lên ngôi. Nùng Trí Cao nhiều lần làm phản nhưng ông vẫn đối đãi khá rộng lượng. Vì vậy nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo quan điểm Nho giáo chê ông “mê hoặc theo thuyết từ ái của đạo Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch”. Có thể nói, nhà Lý trường tồn trên 200 năm lịch sử, đưa đất nước vào giai đoạn cường thịnh có phần đóng góp to lớn của Hình thư, cai trị đất nước bằng pháp luật. Dẫu cũng có những quy định khắc nghiệt nhưng nhìn chung đó là bộ luật chặt chẽ nhưng nhân đạo, vua Lý Thái Tông xứng đáng là vị vua anh minh, cả về võ công và văn trị, nhìn từ góc độ xét xử, ông là một nhân vật tiêu biểu cho tinh thần nghiêm minh kết hợp với nhân đạo, khoan dung. TRẦN ĐỨC Nguồn: Tạp chí Tòa án
MỘT SỐ BỘ LUẬT CỔ NỔI BẬT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ và phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX). Hình thư là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc, nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn ra bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành 4. Về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam. Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 5, được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội ( ký hiệu A.341), đã được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm 1991, thì bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “ Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam”. Được ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm (công luật). Cùng với Quốc triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt Luật lệ được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức và bộ luật của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), tuy nhiên có nhiều phần đã được chỉnh sửa và lược bỏ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ Nguồn: PGS.TS. Vũ Thị Phụng ĐH KHXH & NV - ĐH QGHN
Liệu chính trị đã làm thay đổi lịch sử?
Trước kia tôi coi Muammar Gaddafi là người vĩ đại, dám đạp lên thứ tầm thường để vươn mình thành kẻ phi thường. Libya là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới khi Gaddafi được một cặp vợ chồng mù chữ sinh ra trong một chiếc lều Bedouin (lều của người Arab du cư) vào năm 1942. Năm 1969, Gaddafi lãnh đạo một nhóm binh sĩ thực hiện một cuộc đảo chính không đổ máu, lật đổ nhà cai trị thân phương Tây của Libya là Vua Idris khi mới chỉ là trung úy quân đội 27 tuổi. Từ đó Gaddafi trở thành người lãnh đạo đất nước, đưa Libya từ là một trong các nước lạc hậu và nghèo nhất châu Phi trở thành một nhà nước giàu nhờ dầu mỏ với một cơ sở hạ tầng tốt và đáp ứng các dịch vụ cần thiết cho người dân Libya. Ông là người phi thường được thế giới tôn trọng, Mỹ và phương Tây “e ngại” cho đến 8/2011 chính quyền bị sụp đổ bởi Quân nổi dậy do Mỹ và phương Tây hậu thuẩn, đánh dấu chấm dứt 42 năm của triều đại Muammar Gaddafi. Bộ máy chính quyền mới ở Libya được thiết lập, kể từ đấy nhiều tài liệu lan tỏa cho rằng chính quyền Gaddafi là độc tài, cuộc sống trụy lạc trong sắc dục, nhiều phụ nữ bị bắt làm nô lệ tình dục cho ông... và một hình ảnh xấu đã đặt lên Gaddafi. Nhưng tôi vẫn xem ông là người vĩ đại, chỉ có Lê Long Đĩnh mới có thể minh oan cho Gaddafi. Trong chúng ta có lẽ ai cũng biết hoặc từng nghe về Lý Thái Tổ nhưng nhiều người không biết về Lê Long Đĩnh. Lê Long Đĩnh (986 – 1009) là vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê, trị vì 4 năm từ 1005 đến 1009. Cái chết của ông ở tuổi 24 dẫn đến việc chấm dứt nhà Tiền Lê, quyền lực rơi vào tay Lý Thái Tổ. Theo chính sử, Lê Long Đĩnh hầu như luôn được nhắc đến như là một kẻ dâm đãng, tàn bạo và độc ác. Tuy nhiên, giả sử lại cho răng một số điều xấu của ông chỉ là thêu dệt, và bị "đóng đinh" trong lịch sử. Bởi nếu ông xấu như thế thì tại sao nhiều nơi vẫn có đình, miếu thờ ông. Liệu có khi nào để hạn chế tầm ảnh hưởng của triều đại trước Nhà Lý đã viết lại lịch sử Lê Long Đĩnh chăng? Từ câu chuyện Lịch sử hơn 1.000 năm trước của Việt Nam thì chữ “nghi” rất lớn về “hình ảnh xấu” Muammar Gaddafi. Tại sao Muammar Gaddafi xấu mà được nhiều người tin yêu, đưa một đất nước nghèo thành giàu có và quyền lực, lãnh đạo trong vòng 42 năm hiệu quả, sau khi thất thủ vẫn còn nhiều người trung thành ủng hộ, đến giờ “tận thế” ông vẫn không đưa lượng vũ khí “khổng lồ” để “tất cả cùng chết” mà thà chết một mình vì lo an nguy của nhân dân? Cứ cho rằng chính quyền Muammar Gaddafi là xấu thì chính quyền nổi dậy có đưa Libya phát triển vượt bậc, tự chủ, có tiếng nói trên trường quốc tế như Gaddafi từng làm hay chỉ là bù nhìn cho Mỹ và phương Tây. Liệu Chính quyền Libya hiện tại đã viết lại lịch sử của Đại tá Muammar Gaddafi?
Đề xuất HSSV được giảm giá vé tàu điện, tàu điện ngầm, miễn phí tham quan danh lam thắng cảnh
Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất học sinh, sinh viên được giảm giá vé: tàu điện trên cao, tàu điện ngầm, phà; học sinh phổ thông được miễn phí tham quan các thiết chế văn hóa như: bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh. Bộ GD&ĐT công bố dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục. Trong đó, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 10 Nghị định 84/2020/NĐ-CP về việc miễn, giảm giá vé dịch vụ công cộng về giao thông, về giải trí, tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hóa, theo hướng như sau: Bổ sung 3 loại hình phương tiện giao thông công cộng mà học sinh, sinh viên được giảm giá vé: tàu điện trên cao, tàu điện ngầm, phà. Bỏ quy định học sinh, sinh viên được giảm giá vé dịch vụ khi trực tiếp sử dụng dịch vụ thư viện, vì không có khái niệm vé dịch vụ thư viện theo Luật Thư viện. Đồng thời, Luật Thư viện đã quy định quyền của người sử dụng thư viện đặc thù, theo đó trẻ em có quyền được tạo điều kiện sử dụng tài nguyên thông tin phù hợp với lứa tuổi, cấp học tại thư viện công cộng, được miễn các khoản chi phí làm thẻ thư viện. Đề xuất học sinh phổ thông được miễn phí tham quan bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh Sửa đổi theo hướng quy định học sinh phổ thông được miễn phí tham quan các thiết chế văn hóa như: bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh và chuẩn hóa từ ngữ để phù hợp với Luật Di sản văn hóa. Đối với sinh viên, dự thảo giữ quy định hiện hành tại Nghị định 84/2020/NĐ-CP (được giảm phí tham quan bảo tàng, di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh). Nội dung sửa đổi nêu trên tiếp thu ý kiến của đa số nhà giáo, người học, cơ quan quản lý giáo dục, có tác động tích cực đến việc học sinh phổ thông, nhất là học sinh tiểu học được tạo nhiều cơ hội tham gia học tập dưới hình thức trải nghiệm, khám phá thực tiễn. Hướng sửa đổi này phù hợp với mục đích, yêu cầu của Chương trình GDPT hiện nay. Theo Chính phủ Nguồn: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/de-xuat-hoc-sinh-duoc-giam-gia-ve-tau-dien-tren-cao-tau-dien-ngam-pha-mien-phi-tham-quan-danh-lam-thang-canh-119241014181145357.htm
Nội dung GDQP sẽ được giảng dạy tại chương trình THCS như thế nào?
Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT hướng dẫn lồng ghép nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường tiểu học, trường trung học cơ sở và trường phổ thông có nhiều cấp học sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Cụ thể qua bài viết sau. Nội dung GDQP sẽ được giảng dạy tại chương trình THCS như thế nào? Theo Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, Thông tư nhằm hướng dẫn lồng ghép nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh thông qua các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông đối với trường tiểu học, trường trung học cơ sở và trường phổ thông có nhiều cấp học (sau đây gọi là trường tiểu học và trường trung học cơ sở), bao gồm: nội dung, phương pháp, hình thức, yêu cầu cần đạt và các điều kiện bảo đảm thực hiện việc lồng ghép. Theo Điều 3 Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT nội dung lồng ghép sẽ là giáo dục, tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh. Cụ thể nội dung GDQP và an ninh sẽ được lồng ghép trong trường THCS như sau: - Cấp trung học cơ sở sẽ thực hiện lồng ghép trong các môn học và hoạt động giáo dục đối với từng lớp, theo sách giáo khoa do nhà trường lựa chọn, phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh ở từng địa phương, tập trung vào các môn học: Ngữ văn; Giáo dục công dân; Lịch sử và Địa lí; Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật); Nội dung giáo dục địa phương; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. - Chủ đề lồng ghép chung từ lớp 6 đến lớp 9: + Giáo dục tinh thần đoàn kết, yêu nước của dân tộc Việt Nam trong dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử; + Bảo vệ chủ quyền biển, đảo; + Bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia; + Quyền lợi, trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; + Giới thiệu một số sự kiện lịch sử chống giặc ngoại xâm; + Một số nội dung về bảo vệ thông tin cá nhân khi tham gia mạng xã hội; + Giới thiệu một số nội dung về phòng, chống tệ nạn xã hội đối với học sinh; + Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước. - Chủ đề lồng ghép theo từng lớp: + Lớp 6: giới thiệu lịch sử và truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Công an Nhân dân Việt Nam; địa danh lịch sử gắn với các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc; cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. + Lớp 7: giới thiệu hoạt động, hình ảnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam; một số nội dung về bảo vệ thông tin cá nhân khi tham gia mạng xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật. + Lớp 8: giáo dục lòng tự hào, tự tôn dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm; giới thiệu một số mốc quốc giới; tác hại của tệ nạn xã hội tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội; trách nhiệm của học sinh tham gia phòng, chống bạo lực học đường. + Lớp 9: Hậu quả của các cuộc chiến tranh xâm lược đối với dân tộc Việt Nam; một số hình ảnh về phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; giới thiệu một số bài hát ca ngợi truyền thống vẻ vang của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Công an Nhân dân Việt Nam; trách nhiệm của học sinh tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, đối với từng cấp sẽ có từng nội dung giáo dục chung và riêng, lồng ghép trong thời lượng phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông, kế hoạch giáo dục của trường trung học cơ sở; bảo đảm đủ nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh cần truyền đạt, không làm tăng thời lượng học của các môn học và hoạt động giáo dục. Xem toàn văn: Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Yêu cầu học sinh THCS cần đạt sau khi được giảng dạy GDQP là gì? Theo Điều 5 Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT, học sinh THCS sẽ cần phải đạt những yêu cầu sau: - Yêu cầu chung + Về phẩm chất: Hình thành, phát triển cho học sinh các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, chăm chỉ; ý thức, trách nhiệm của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. + Về năng lực Hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực tự chủ, tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề sáng tạo thông qua các năng lực chuyên biệt: nhận thức về quốc phòng và an ninh ở mức độ đơn giản; vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào cuộc sống. - Yêu cầu cụ thể + Hiểu biết về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc qua các thời kì lịch sử dựng nước và giữ nước; + Truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Công an Nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ; + Chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo và an ninh biên giới quốc gia; + Một số nội dung cơ bản trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hình thành nhận thức về quốc phòng, an ninh ở mức độ đơn giản, trách nhiệm của học sinh đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết và tự giác chấp hành các quy định của pháp luật. Như vậy, sau khi được giảng dạy chương trình GDQP, học sinh THCS phải đáp ứng được các yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể đối với cấp học như trên. Qua đó, giáo dục sâu sắc về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khơi gợi lòng yêu nước, niềm tự tôn, tự hào dân tộc từ các em học sinh. Xem toàn văn: Thông tư 08/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
"Địa chỉ đỏ" là gì? TPHCM có những địa chỉ đỏ nào?
“Địa chỉ đỏ” là những địa điểm gắn liền với các hoạt động về nguồn, là những “bảo tàng sống” để giáo dục trong công tác giáo dục truyền thống và là địa điểm tham quan hấp dẫn của du khách thập phương. Vậy, hiện tại TPHCM có những địa chỉ đỏ nào? “Địa chỉ đỏ” là gì? Địa chỉ đỏ là những địa điểm lịch sử liên quan đến Cách mạng Kháng chiến, được công nhận xếp hạng cấp quốc gia, cấp thành phố, các địa điểm lưu niệm sự kiện cách mạng kháng chiến đã được UBND thành phố quyết định gắn biển địa điểm cách mạng kháng chiến. Danh sách những địa chỉ đỏ tại TPHCM 1) Bảo tàng Hồ Chí Minh Bảo tàng Hồ Chí Minh có địa chỉ tại số 1 Nguyễn Tất Thành, Phường 12, Quận 4, với khuôn viên rộng trên 12.000 ha nằm ở vị trí ngã ba sông Sài Gòn. Hiện nay, Bảo tàng có 07 phòng trưng bày trong đó có 4 phòng trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 03 phòng trưng bày chuyên đề đặc biệt, nhấn mạnh đến sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước; tình cảm của Bác Hồ đối với nhân dân miền Nam và tình cảm kính yêu của nhân dân miền Nam đối với Bác Hồ và Hệ thống đền thờ Bác Hồ ở Nam Bộ. 2) Bia Tưởng niệm chiến sĩ biệt động Sài Gòn hy sinh tại Dinh Độc Lập Hồ Chí Minh Bia đặt tại địa chỉ 108 Nguyễn Du, phường Bến Thành, Quận 1 – nơi đã diễn ra cuộc chiến đấu của 15 chiến sĩ Đội 5, Biệt động Sài Gòn - Gia Định tấn công vào Dinh Độc Lập trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Ghi nhận sự hy sinh của các chiến sĩ, đơn vị được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (20/12/1969). 3) Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ Di tích Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ, đặt tại số 51/10/14 đường Cao Thắng, Phường 3, Quận 3, đánh dấu một trang sử cách mạng quan trọng trong giai đoạn chống Mỹ. Tại đây Ban Tuyên huấn Xứ ủy đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng với sự tham gia của các lãnh đạo cao cấp như Trần Bạch Đằng, Phạm Dân, Tân Đức, Đỗ Văn Ba... cho đến khi Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ dời về chiến khu D vào năm 1957. 4) Cơ sở in ấn của Hội ủng hộ Vệ quốc đoàn Cơ sở in ấn của Hội Ủng hộ vệ quốc đoàn năm 1954 (còn gọi là Hầm B) nằm trong con hẻm nhỏ đường Ngô Gia Tự, quận 10, TP.HCM. Đây là nơi in ấn, sao lưu tài liệu tuyên truyền cách mạng thời kháng chiến chống Pháp. 5) Khu di tích Lịch sử Dân công hoả tuyến Ở xã Vĩnh Lộc A (huyện Bình Chánh, TP.HCM) có một con đường tên Nữ Dân Công hay Dân Công Hỏa Tuyến. Cuối con đường là khu di tích tưởng niệm 32 dân công đã hy sinh trong trận đánh địch đêm 15/6/1968. Trong số họ, có một người du kích làm hướng dẫn, một thanh niên từ gia đình Cách mạng tham gia cùng với đoàn dân công, hai đồng chí thương binh từ Sư đoàn 9 và 16 phụ nữ cùng 5 nam giới bị thương. Họ đều rất trẻ, người lớn nhất mới 30 tuổi, còn người trẻ nhất chỉ 15 tuổi. Tất cả đều là những người yêu nước, sẵn lòng hi sinh để bảo vệ quê hương và Tổ quốc. 6) Số 4 Duy Tân - Trung tâm đấu tranh công khai của tuổi trẻ thời đánh Mỹ Nhà Văn hóa Thanh niên, số 4 Phạm Ngọc Thạch (trước là số 4 Duy Tân) là mảnh đất của thanh niên thành phố hơn 50 năm qua. Từ những năm 1960, nơi đây là trung tâm đấu tranh chính trị của thanh niên, sinh viên, học sinh do Thành đoàn Sài Gòn – Gia Định trực tiếp lãnh đạo như Tổng hội sinh viên, Tổng đoàn học sinh, Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn, Hội sinh viên sáng tác, đoàn văn nghệ sinh viên học sinh. Nơi đây xuất phát các phong trào đòi hòa bình, thống nhất đất nước, đòi tự trị đại học, chống đôn quân bắt lính… Ngày 26/3/1985, Ban Thường vụ Thành đoàn ra quyết định số 79, đặt bia truyền thống kỷ niệm tại số 4 Duy Tân với nội dung “4 Duy Tân - Trung tâm đấu tranh công khai của tuổi trẻ thành phố thời đánh Mỹ” và xếp địa điểm này vào loại lịch sử truyền thống của Ðoàn Thanh niên TP. 7) Hầm chứa vũ khí biệt động sài gòn Bên dưới ngôi nhà số 287/70 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, TPHCM có một căn hầm bí mật. Nơi đây từng cất giấu hơn 2 tấn vũ khí của Biệt động Sài Gòn trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là ở thời điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968). Căn hầm từng là nơi cất giấu hơn 2 tấn vũ khí: 350kg thuốc nổ TNT, thuốc nổ C4, 15 súng AK và 3.000 viên đạn, súng ngắn, súng B40, lựu đạn… Điều đặc biệt hơn nữa là căn nhà nằm ngay giữa trung tâm thành phố, cách Dinh Độc Lập hơn 1km. Tất cả các hoạt động đào hầm, vận chuyển, cất giấu vũ khí đều được giữ bí mật, an toàn tuyệt đối. 8) Di tích Ngã Ba Giòng Di tích Ngã Ba Giòng nằm tại Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 03 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giòng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. 9) Phở Bình Tiệm phở Bình ở số 7 Lý Chính Thắng, quận 3, TP HCM trước đây là đường Yên Ðổ, là "tổng hành dinh" của đơn vị F100 thuộc biệt động Sài Gòn, nơi phát lệnh cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Bộ Tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam đã tiến hành lập kế hoạch và xây dựng các cơ sở bí mật trong nội thành. Những nơi này được sử dụng để lưu trữ vũ khí, đồng thời là điểm tổ chức các cuộc họp, trao đổi thông tin, và là cơ sở tiền chỉ huy trước và trong các trận đánh. Ðây là Sở chỉ huy tiền phương - Phân khu 6, Ðặc khu Sài Gòn - Gia Ðịnh. 10) Di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác Cần Giờ Nằm bên trong Di tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác Cần Giờ là Khu căn cứ Cách mạng Rừng Sác, nơi đây được công nhận là Khu di tích lịch sử cấp Quốc gia, Khu căn cứ này đã được nhiều người biết đến qua quá khứ hào hùng của Đội Đặc công Rừng Sác. Căn cứ đã được xây dựng và tái hiện lại gần như toàn bộ quang cảnh sinh hoạt và chiến đấu của các anh hùng khi xưa như: Nhà cảnh vệ, nhà đón tiếp, hầm trú ẩn, hội trường, nhà hậu cần, nhà quân y, nhà quân giới, nhà cơ yếu; cảnh chỉ huy Đoàn 10 đang nghe báo cáo tình hình thực địa và hạ quyết tâm tổ chức tập kích phá hủy kho xăng Nhà Bè, cảnh chiến sĩ Đoàn 10 tiêu diệt cá sấu, cách chưng cất nước mặn thành nước ngọt, cảnh đưa tiễn chiến sĩ vào trận đánh, trận địa súng DKZ pháo kích vào Dinh Độc lập… Di tích lịch sử Việt Nam hiện nay được phân thành mấy cấp? Di tích lịch sử là một dạng của di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. Theo Điều 29 Luật Di sản văn hóa 2001 (sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi 2009) thì di tích lịch sử Việt Nam được phân chia thành 03 cấp, dựa trên giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hoá, cụ thể như sau: (1) Di tích lịch sử cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương; (2) Di tích lịch sử cấp quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia; (3) Di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia. Như vậy, di tích lịch sử Việt Nam được chia thành 03 cấp. Đối với mỗi cấp sẽ có những điều kiện, tiêu chuẩn công nhận khác nhau. Những di tích này là chứng nhân lịch sử theo từng giai đoạn của đất nước, là địa điểm thiết thực nhất để giáo dục về lòng yêu nước cho con cháu ta.
Tìm hiểu nguồn gốc hình thành và lịch sử phát triển thuật ngữ “doanh nghiệp”
Thuật ngữ “doanh nghiệp” lần đầu tiên được nhắc đến là trong Sắc lệnh 104/SL ngày 01 tháng 01 năm 1948 về doanh nghiệp quốc gia. Trải qua thời kỳ bao cấp với đặc trưng là nền kinh tế tập trung, khái niệm này dần bị quên lãng. Mãi đến khoảng năm 1986, bắt đầu giai đoạn nền kinh tế thị trường, khái niệm “doanh nghiệp” mới được quay lại sử dụng. Khái niệm doanh nghiệp có thể được hiểu trên nhiều góc độ. Ở góc độ kinh tế, doanh nghiệp được hiểu là các tổ chức lấy việc hoạt động thu lợi là hoạt động nghề nghiệp của mình. Ở góc độ pháp lý, Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quy định pháp lý định nghĩa về doanh nghiệp. Trong suốt quá trình lập pháp ở Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp đã được thay đổi qua nhiều giai đoạn Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020. Luật Công ty 1990 định nghĩa: “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện hoạt động kinh doanh” Luật Doanh nghiệp 1999 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” Đến Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020, khái niệm doanh nghiệp dường như được quy định một cách thống nhất và đầy đủ hơn. Theo đó, doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Dù khái niệm doanh nghiệp được hiểu ở nhiều góc độ và được quy định khác nhau ở các văn bản pháp luật khác nhau, nhưng tựu trung, ta có thể hiểu doanh nghiệp qua những yếu tố sau: là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh.
Vị vua ban hành Bộ luật Hình sự đầu tiên của Việt Nam
Ban chỉ đạo xây dựng nhân vật lịch sử thời quân chủ tiêu biểu trong hoạt động xét xử đã chọn ra hai nhân vật là vua Lý Thái Tông (1000-1054) và vua Trần Nhân Tông (1250-1308 ) để lấy ý kiến bình chọn rộng rãi. Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử xin lần lượt giới thiệu về hai vị vua anh minh này để bạn đọc tham khảo. Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta - Minh họa Vị vua nhân từ Lý Thái Tông (1000 – 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Nhà Lý, cai trị trong 26 năm (1028–1054). Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của Nhà Lý. Lý Thái Tông tên thật là Lý Phật Mã, là con trưởng của Lý Thái Tổ, được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua Loạn Tam vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ. Đế củng cố quyền lực cho Nhà Lý, bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp loạn đảng làm phản như loạn họ Nùng; bên ngoài đánh được Chiêm Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển phồn thịnh. Đối với quần thần, Thái Tông thường tỏ ra nhân từ, không xử tội các Vương tham gia vụ loạn tam vương, cho tha tội mà còn phục chức. Đối với kẻ thù như Chiêm Thành, vua còn ra lệnh không tùy tiện chém giết, lệnh cho binh lính không được làm bậy. Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Tấm lòng ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ chăng?! Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm”. Lý Thái Tông lên làm vua đã hơn 15 năm, mà nước Chiêm Thành láng giềng không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thấy vậy, năm 1044, vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ. Lý Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm thua chạy. Quân Lý bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi. Tướng Chiêm là Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng. Bấy giờ quân Chiêm Thành và dân bản xứ bị giết rất nhiều. Vua Thái Tông trông thấy động lòng thương, ra lệnh cấm không được giết người Chiêm, hễ ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội. Ông tiến binh đến quốc đô Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế), vào thành bắt được vương phi Mỵ Ê và các cung nữ đem về. Mỵ Ê giữ tiết không chịu lấy vua, nhảy xuống sông tự tử. Mỵ Ê được ông khen là trinh tiết, phong làm Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành. Ban hành Hình thư Thái Tông Hoàng đế còn chủ trương sửa lại luật pháp, định các bậc hình phạt, các cách tra hỏi. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta, người chủ đánh chết ngay lúc bấy giờ thì không bị tội. Những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến các thân thuộc Đế từ hạng đại công trở lên phạm tội thì cho chuộc bằng tiền, nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này. Xuống chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu, ngoài 10 phần phải nộp quan được lấy thêm một phần nữa, gọi là “hoành đầu”. Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú dịch cho cả nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô và người thu thuế cũng phải tội như nhau. Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện. Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử. Năm 1042, Thái Tông Hoàng đế ban Hình thư. Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo. Bộ luật Hình thư năm 1042 được xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp nước ta. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế… Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp… (Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn – Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr 272, 273) Ngay sau khi ban hành luật, nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội, trừ khi người đó phạm phải những tội trong thập ác: 1.Mưu phản: làm nguy xã tắc 2.Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết 3.Mưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặc 4.Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ 5.Bất đạo: giết người vô tội 6.Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua 7.Bất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ 8.Bất mục: đánh giết những người thân thuộc gần 9.Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng, con giết cha 10.Nội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha. Năm 1043, Lý Thái Tông đặt thêm quy định: Ai trộm lúa của dân sẽ bị đánh 100 trượng; nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu. Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trường và thích 30 chữ. Năm 1043, tháng 8, vua xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đáng trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc. Xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ. Bộ luật này có đề cập tới vấn đề xét xử tội tham ô, hối lộ. Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép: Vào năm Quý Mùi (1043), vua đã xuống chiếu cho Quyến khố ty (ty coi việc kho lụa) “ai nhận riêng một thước lụa của người thì xử 100 trượng, từ 1 tấm đến 10 tấm trở lên thì phạt trượng theo số tấm, gia thêm khổ sai 10 năm”. Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu lực vẫn còn hạn chế. Hình thư hiện đã bị thất truyền. Đề cao sự khoan hồng Lý Thái Tông còn được lịch sử ghi nhớ vì quy định về tuyên thệ như một nghi thức của triều đình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, hàng năm, vua cùng quần thần đến đền Đồng Cổ (Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội ngày nay) để cùng phát thệ: “Kẻ nào làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh tru diệt”. Lễ thức này được duy trì qua nhiều triều vua đời Lý và sang cả đời Trần. Nhiều lần dùng binh từ Nam chí Bắc nhưng Lý Thái Tông tỏ ra là vị hoàng đế bao dung, nhân hậu. Các sử gia cho rằng Lý Thái Tông cũng như nhiều hoàng đế Nhà Lý khác có lượng khoan hồng vì ảnh hưởng của quốc giáo là đạo Phật. Trừ người em Vũ Đức vương làm loạn bị giết, với những vương tôn phản loạn khác ông đều tha tội. Trong cuộc phản loạn của các vương tôn, nhờ người em thứ hai của Thái Tông là Khai Quốc vương đem quân giải vây cho Thăng Long và Trường Yên (kinh đô Hoa Lư) giúp ông chống lại quân nổi loạn và chính Khai Quốc vương vận động quần thần tôn ông lên ngôi. Nùng Trí Cao nhiều lần làm phản nhưng ông vẫn đối đãi khá rộng lượng. Vì vậy nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo quan điểm Nho giáo chê ông “mê hoặc theo thuyết từ ái của đạo Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch”. Có thể nói, nhà Lý trường tồn trên 200 năm lịch sử, đưa đất nước vào giai đoạn cường thịnh có phần đóng góp to lớn của Hình thư, cai trị đất nước bằng pháp luật. Dẫu cũng có những quy định khắc nghiệt nhưng nhìn chung đó là bộ luật chặt chẽ nhưng nhân đạo, vua Lý Thái Tông xứng đáng là vị vua anh minh, cả về võ công và văn trị, nhìn từ góc độ xét xử, ông là một nhân vật tiêu biểu cho tinh thần nghiêm minh kết hợp với nhân đạo, khoan dung. TRẦN ĐỨC Nguồn: Tạp chí Tòa án
MỘT SỐ BỘ LUẬT CỔ NỔI BẬT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ và phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX). Hình thư là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc, nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn ra bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành 4. Về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam. Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 5, được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội ( ký hiệu A.341), đã được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm 1991, thì bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “ Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam”. Được ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm (công luật). Cùng với Quốc triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt Luật lệ được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức và bộ luật của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), tuy nhiên có nhiều phần đã được chỉnh sửa và lược bỏ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ Nguồn: PGS.TS. Vũ Thị Phụng ĐH KHXH & NV - ĐH QGHN
Liệu chính trị đã làm thay đổi lịch sử?
Trước kia tôi coi Muammar Gaddafi là người vĩ đại, dám đạp lên thứ tầm thường để vươn mình thành kẻ phi thường. Libya là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới khi Gaddafi được một cặp vợ chồng mù chữ sinh ra trong một chiếc lều Bedouin (lều của người Arab du cư) vào năm 1942. Năm 1969, Gaddafi lãnh đạo một nhóm binh sĩ thực hiện một cuộc đảo chính không đổ máu, lật đổ nhà cai trị thân phương Tây của Libya là Vua Idris khi mới chỉ là trung úy quân đội 27 tuổi. Từ đó Gaddafi trở thành người lãnh đạo đất nước, đưa Libya từ là một trong các nước lạc hậu và nghèo nhất châu Phi trở thành một nhà nước giàu nhờ dầu mỏ với một cơ sở hạ tầng tốt và đáp ứng các dịch vụ cần thiết cho người dân Libya. Ông là người phi thường được thế giới tôn trọng, Mỹ và phương Tây “e ngại” cho đến 8/2011 chính quyền bị sụp đổ bởi Quân nổi dậy do Mỹ và phương Tây hậu thuẩn, đánh dấu chấm dứt 42 năm của triều đại Muammar Gaddafi. Bộ máy chính quyền mới ở Libya được thiết lập, kể từ đấy nhiều tài liệu lan tỏa cho rằng chính quyền Gaddafi là độc tài, cuộc sống trụy lạc trong sắc dục, nhiều phụ nữ bị bắt làm nô lệ tình dục cho ông... và một hình ảnh xấu đã đặt lên Gaddafi. Nhưng tôi vẫn xem ông là người vĩ đại, chỉ có Lê Long Đĩnh mới có thể minh oan cho Gaddafi. Trong chúng ta có lẽ ai cũng biết hoặc từng nghe về Lý Thái Tổ nhưng nhiều người không biết về Lê Long Đĩnh. Lê Long Đĩnh (986 – 1009) là vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê, trị vì 4 năm từ 1005 đến 1009. Cái chết của ông ở tuổi 24 dẫn đến việc chấm dứt nhà Tiền Lê, quyền lực rơi vào tay Lý Thái Tổ. Theo chính sử, Lê Long Đĩnh hầu như luôn được nhắc đến như là một kẻ dâm đãng, tàn bạo và độc ác. Tuy nhiên, giả sử lại cho răng một số điều xấu của ông chỉ là thêu dệt, và bị "đóng đinh" trong lịch sử. Bởi nếu ông xấu như thế thì tại sao nhiều nơi vẫn có đình, miếu thờ ông. Liệu có khi nào để hạn chế tầm ảnh hưởng của triều đại trước Nhà Lý đã viết lại lịch sử Lê Long Đĩnh chăng? Từ câu chuyện Lịch sử hơn 1.000 năm trước của Việt Nam thì chữ “nghi” rất lớn về “hình ảnh xấu” Muammar Gaddafi. Tại sao Muammar Gaddafi xấu mà được nhiều người tin yêu, đưa một đất nước nghèo thành giàu có và quyền lực, lãnh đạo trong vòng 42 năm hiệu quả, sau khi thất thủ vẫn còn nhiều người trung thành ủng hộ, đến giờ “tận thế” ông vẫn không đưa lượng vũ khí “khổng lồ” để “tất cả cùng chết” mà thà chết một mình vì lo an nguy của nhân dân? Cứ cho rằng chính quyền Muammar Gaddafi là xấu thì chính quyền nổi dậy có đưa Libya phát triển vượt bậc, tự chủ, có tiếng nói trên trường quốc tế như Gaddafi từng làm hay chỉ là bù nhìn cho Mỹ và phương Tây. Liệu Chính quyền Libya hiện tại đã viết lại lịch sử của Đại tá Muammar Gaddafi?