Không thỏa thuận lãi suất chậm trả, có được áp dụng không?
Trong hợp đồng thương mại, việc một bên chậm trả tiền cho bên còn lại xảy ra khá phổ biến. Tuy nhiên, vì một vài lý do mà các bên không thỏa thuận về mức lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng. Vậy, trường hợp các bên không có thỏa thuận về lãi suất chậm trả thì có được áp dụng không? Quy định về lãi suất chậm trả theo Bộ luật Dân sự 2015 Theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015, trong giao dịch dân sự, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Có thể thấy, dù các bên không thỏa thuận về lãi suất hoặc thỏa thuận nhưng không xác định rõ mức lãi suất là bao nhiêu thì bên bị vi phạm nghĩa vụ vẫn có quyền buộc bên vi phạm nghĩa vụ trả tiền lãi đối với số tiền chậm thanh toán. Cụ thể, khi phát sinh nghĩa vụ chậm trả tiền/vi phạm thời hạn thanh toán tiền lãi, tiền gốc phải trả thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, mức lãi áp dụng trong trường hợp này là theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá 20%/năm. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất hoặc có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định là 10 %/năm. Quy định về lãi suất chậm trả theo Luật Thương mại 2005 Theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại và Điều 11 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP thì khi bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hoặc chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí khác thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả tiền lãi do chậm thanh toán trong thời hạn chậm thanh toán. Trong đó, mức lãi suất được ấn định là lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp các bên lựa chọn mức lãi suất khác hoặc pháp luật có quy định khác (ví dụ pháp luật điều chỉnh đối tượng tham gia giao dịch thương mại có quy định khác). Cụ thể hơn, Điều 11 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn về việc xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường đối với số tiền chậm trả như sau: Lãi suất nợ quá hạn trung bình của ít nhất 3 ngân hàng thương mại, ví dụ Agribank, Vietinbank, BIDV…; Và 3 ngân hàng thương mại này có đặc điểm là phải có trụ sở/chi nhánh/phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Tòa án đang giải quyết xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán; Ngoài ra, nếu các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác về việc trả lãi suất thì được áp dụng theo lãi suất đó; Thực tế cho thấy, việc áp dụng lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất 3 ngân hàng thương mại tại thời điểm thanh toán rất khó thực hiện nếu các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Lý do là bởi vì lãi suất quá hạn của mỗi ngân hàng là khác nhau và mức lãi suất là không cố định và thay đổi liên tục theo thời gian. Như vậy, từ những phân tích trên, có thể thấy nếu các bên không có thỏa thuận về lãi suất chậm trả thì bên có quyền vẫn được áp dụng mức lãi suất tối đa là 10%/năm trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả của bên vay. Trường hợp bên có nghĩa vụ không chịu trả tiền lãi chậm thanh toán thì bên có quyền có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại sao tòa phúc thẩm không áp dụng lãi suất quá hạn mà áp dụng lãi suất chậm trả?
Kính gửi Các Anh Chị bên ngành tòa án Tôi là 1 công dân bình thường và mới nhận được bản án từ tòa Phúc Thẩm vào ngày 06/06/2022 Tôi tóm tắt sự việc của Tôi như sau: Tôi có cho Cty A vay số tiền là 1Ty5 từ ngày 17/1/2020 đến 31/12/2020 với Lãi suất ghi trong hợp đồng là 5%/tháng ngoài ra không có thỏa thuận lãi suất nào khác. Do Cty A không trả tiền nên tôi làm đơn khởi kiện và nội dung Tôi đã chỉnh sủa trước khi tòa sơ thẩm xét xử là yêu cầu Cty A thanh toán nợ gốc và lãi suất là 20%/năm tính từ ngày 17/1/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm. Bản Án của tòa sơ thẩm là chấp nhận đơn của tôi là bắt Cty A trả Tôi nợ gốc 1Ty5 và tiền lãi với lãi suất là 20%/năm tính từ ngày vay đến ngày tuyên án sơ thẩm 06/12/2021 Bị đơn kháng cáo nội dung chấp nhận nợ gốc 1Ty5 nhưng xem xét giảm tiền lãi suất do ảnh hưởng dịch bệnh covid nhưng trong suốt quá trình giải quyết không đưa ra bất kỳ giấy tờ nào chỉ nói miệng mặc dù trong phiên Tòa Phúc Phẩm có thẩm phán yêu cầu đưa giấy tờ. Sau đó Tòa Phúc Thẩm ra quyết định sửa bản án của tòa sơ thẩm như sau về lãi suất Lãi từ ngày 17/01/2020 đến ngày 31/12/2020 là 20%/năm Lãi từ ngày 31/12/2020 đến thời điểm xét xử sơ thẩm 06/12/2021 là 15% X 11 tháng 5 ngày ( Viện dẫn khoản 2 diều 468 và khoản 5 điều 466) Trong phần quyết định Tòa Phúc Thẩm có ghi câu thật sự Tôi không hiểu nội dung này Trường hợp Cty A chậm thực hiện nghĩa vụ giao tiền cho Tôi thì Cty A phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468 của Bộ Luật dân sự là 20%/năm trên số tiền phải hoàn trả; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ Luật dân sự là 10%/năm Với câu này theo Tôi nghĩ vậy là từ ngày 06/12/2021 cho đến khi Cty A trả tiền thì tôi chỉ nhận được lãi suất có 10%/năm Ngoài ra bản án Phúc Phẩm còn tuyên Tôi phải chịu 1 phần án phí khoảng hơn 7tr do chênh lệch lãi suất 20% và 15% Quan điểm của Tôi như sau Về án phí như vậy chẳng khác nào nói Tôi làm sai. Tôi có tham khảo thì có đến 4 lãi suất trong hợp đồng vay tài sản gồm Lãi trong hạn, Lãi quá hạn, Lãi chậm trả và Tiền lãi trên nợ lãi chưa trả. Tôi làm sao biết được Tòa áp dụng lãi suất nào, và trong đơn ban đầu Tôi cũng yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật nhưng do Tòa sơ thẩm yêu cầu Tôi phải ghi ra con số cụ thể Về lãi suất: trong thực tiễn Tôi chắc chắn hầu hết các hợp đồng vay tài sản các bên đều không thỏa thuận tiền lãi quá hạn vì khi thực hiện giao kết hợp đồng các bên đều tự nguyện giao kết và luôn mong muốn các bên không vi phạm thỏa thuận. Luật pháp đưa ra nhiều quy định được xem là chế tài nhằm mục đích ràng buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm nghĩa vụ của mình Với quyết định lãi suất của Tòa Phúc Thẩm theo quan điểm của Tôi không đúng với tình thần của Nghị Quyết 01/2019/NQ-HĐTP – Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật về Lãi suất TÔI RẤT MONG NHẬN ĐƯỢC SỰ PHẢN BIỆN TỪ CÁC ANH CHỊ TRONG TÒA ÁN VỀ TRƯỜNG HỢP CỦA TÔI Tôi xin chân thành cảm ơn
So sánh 04 loại lãi suất của Bộ luật Dân sự 1995 - 2005 - 2015
>>> Cách xác định lãi suất qua các Bộ luật, luật >>> Hướng dẫn xử lý khi lãi suất cao hơn mức quy định >>> Khác biệt trong quy định pháp lý hiện hành về "mức lãi suất cho vay trong hạn" Bảng dưới đây sẽ thống kê sự thay đổi trong quy định liên quan đến lãi suất qua các Bộ luật dân sự 1995 - 2005 - 2015 TIÊU CHÍ BLDS 1995 BLDS 2005 BLDS 2015 Lãi suất cho vay Do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng. Trường hợp có tranh chấp hoặc trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không xác định rõ lãi suất: áp dụng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn do NHNN quy định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trường hợp có tranh chấp hoặc trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không xác định rõ lãi suất: áp dụng lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác (khoản 1 Điều 468). Trường hợp có tranh chấp hoặc trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không xác định rõ lãi suất: lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại K1 Đ468 tại thời điểm trả nợ (tức mức lãi suất không được vượt quá 10%/năm của khoản tiền vay). Lãi suất chậm trả nợ gốc (lãi suất nợ quá hạn) Phải trả lãi trên nợ gốc và lãi theo lãi suất nợ quá hạn của NHNN tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Lãi suất chậm trả nợ lãi Không quy định Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468. Theo đó, trường hợp chậm trả nợ lãi thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất không được vượt quá 10%/năm của khoản tiền vay. Lãi suất chậm trả khác Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Trường hợp người có nghĩa vụ chậm trả tiền, thì người đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do NHNN quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 313). Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 305). Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 (tức không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay); nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này (tức không được vượt quá 10%/năm của khoản tiền vay) (khoản 2 Điều 357).
Không thỏa thuận lãi suất chậm trả, có được áp dụng không?
Trong hợp đồng thương mại, việc một bên chậm trả tiền cho bên còn lại xảy ra khá phổ biến. Tuy nhiên, vì một vài lý do mà các bên không thỏa thuận về mức lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng. Vậy, trường hợp các bên không có thỏa thuận về lãi suất chậm trả thì có được áp dụng không? Quy định về lãi suất chậm trả theo Bộ luật Dân sự 2015 Theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015, trong giao dịch dân sự, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Có thể thấy, dù các bên không thỏa thuận về lãi suất hoặc thỏa thuận nhưng không xác định rõ mức lãi suất là bao nhiêu thì bên bị vi phạm nghĩa vụ vẫn có quyền buộc bên vi phạm nghĩa vụ trả tiền lãi đối với số tiền chậm thanh toán. Cụ thể, khi phát sinh nghĩa vụ chậm trả tiền/vi phạm thời hạn thanh toán tiền lãi, tiền gốc phải trả thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, mức lãi áp dụng trong trường hợp này là theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá 20%/năm. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất hoặc có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định là 10 %/năm. Quy định về lãi suất chậm trả theo Luật Thương mại 2005 Theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại và Điều 11 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP thì khi bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hoặc chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí khác thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả tiền lãi do chậm thanh toán trong thời hạn chậm thanh toán. Trong đó, mức lãi suất được ấn định là lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp các bên lựa chọn mức lãi suất khác hoặc pháp luật có quy định khác (ví dụ pháp luật điều chỉnh đối tượng tham gia giao dịch thương mại có quy định khác). Cụ thể hơn, Điều 11 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn về việc xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường đối với số tiền chậm trả như sau: Lãi suất nợ quá hạn trung bình của ít nhất 3 ngân hàng thương mại, ví dụ Agribank, Vietinbank, BIDV…; Và 3 ngân hàng thương mại này có đặc điểm là phải có trụ sở/chi nhánh/phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Tòa án đang giải quyết xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán; Ngoài ra, nếu các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác về việc trả lãi suất thì được áp dụng theo lãi suất đó; Thực tế cho thấy, việc áp dụng lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất 3 ngân hàng thương mại tại thời điểm thanh toán rất khó thực hiện nếu các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Lý do là bởi vì lãi suất quá hạn của mỗi ngân hàng là khác nhau và mức lãi suất là không cố định và thay đổi liên tục theo thời gian. Như vậy, từ những phân tích trên, có thể thấy nếu các bên không có thỏa thuận về lãi suất chậm trả thì bên có quyền vẫn được áp dụng mức lãi suất tối đa là 10%/năm trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả của bên vay. Trường hợp bên có nghĩa vụ không chịu trả tiền lãi chậm thanh toán thì bên có quyền có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại sao tòa phúc thẩm không áp dụng lãi suất quá hạn mà áp dụng lãi suất chậm trả?
Kính gửi Các Anh Chị bên ngành tòa án Tôi là 1 công dân bình thường và mới nhận được bản án từ tòa Phúc Thẩm vào ngày 06/06/2022 Tôi tóm tắt sự việc của Tôi như sau: Tôi có cho Cty A vay số tiền là 1Ty5 từ ngày 17/1/2020 đến 31/12/2020 với Lãi suất ghi trong hợp đồng là 5%/tháng ngoài ra không có thỏa thuận lãi suất nào khác. Do Cty A không trả tiền nên tôi làm đơn khởi kiện và nội dung Tôi đã chỉnh sủa trước khi tòa sơ thẩm xét xử là yêu cầu Cty A thanh toán nợ gốc và lãi suất là 20%/năm tính từ ngày 17/1/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm. Bản Án của tòa sơ thẩm là chấp nhận đơn của tôi là bắt Cty A trả Tôi nợ gốc 1Ty5 và tiền lãi với lãi suất là 20%/năm tính từ ngày vay đến ngày tuyên án sơ thẩm 06/12/2021 Bị đơn kháng cáo nội dung chấp nhận nợ gốc 1Ty5 nhưng xem xét giảm tiền lãi suất do ảnh hưởng dịch bệnh covid nhưng trong suốt quá trình giải quyết không đưa ra bất kỳ giấy tờ nào chỉ nói miệng mặc dù trong phiên Tòa Phúc Phẩm có thẩm phán yêu cầu đưa giấy tờ. Sau đó Tòa Phúc Thẩm ra quyết định sửa bản án của tòa sơ thẩm như sau về lãi suất Lãi từ ngày 17/01/2020 đến ngày 31/12/2020 là 20%/năm Lãi từ ngày 31/12/2020 đến thời điểm xét xử sơ thẩm 06/12/2021 là 15% X 11 tháng 5 ngày ( Viện dẫn khoản 2 diều 468 và khoản 5 điều 466) Trong phần quyết định Tòa Phúc Thẩm có ghi câu thật sự Tôi không hiểu nội dung này Trường hợp Cty A chậm thực hiện nghĩa vụ giao tiền cho Tôi thì Cty A phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468 của Bộ Luật dân sự là 20%/năm trên số tiền phải hoàn trả; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ Luật dân sự là 10%/năm Với câu này theo Tôi nghĩ vậy là từ ngày 06/12/2021 cho đến khi Cty A trả tiền thì tôi chỉ nhận được lãi suất có 10%/năm Ngoài ra bản án Phúc Phẩm còn tuyên Tôi phải chịu 1 phần án phí khoảng hơn 7tr do chênh lệch lãi suất 20% và 15% Quan điểm của Tôi như sau Về án phí như vậy chẳng khác nào nói Tôi làm sai. Tôi có tham khảo thì có đến 4 lãi suất trong hợp đồng vay tài sản gồm Lãi trong hạn, Lãi quá hạn, Lãi chậm trả và Tiền lãi trên nợ lãi chưa trả. Tôi làm sao biết được Tòa áp dụng lãi suất nào, và trong đơn ban đầu Tôi cũng yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật nhưng do Tòa sơ thẩm yêu cầu Tôi phải ghi ra con số cụ thể Về lãi suất: trong thực tiễn Tôi chắc chắn hầu hết các hợp đồng vay tài sản các bên đều không thỏa thuận tiền lãi quá hạn vì khi thực hiện giao kết hợp đồng các bên đều tự nguyện giao kết và luôn mong muốn các bên không vi phạm thỏa thuận. Luật pháp đưa ra nhiều quy định được xem là chế tài nhằm mục đích ràng buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm nghĩa vụ của mình Với quyết định lãi suất của Tòa Phúc Thẩm theo quan điểm của Tôi không đúng với tình thần của Nghị Quyết 01/2019/NQ-HĐTP – Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật về Lãi suất TÔI RẤT MONG NHẬN ĐƯỢC SỰ PHẢN BIỆN TỪ CÁC ANH CHỊ TRONG TÒA ÁN VỀ TRƯỜNG HỢP CỦA TÔI Tôi xin chân thành cảm ơn
So sánh 04 loại lãi suất của Bộ luật Dân sự 1995 - 2005 - 2015
>>> Cách xác định lãi suất qua các Bộ luật, luật >>> Hướng dẫn xử lý khi lãi suất cao hơn mức quy định >>> Khác biệt trong quy định pháp lý hiện hành về "mức lãi suất cho vay trong hạn" Bảng dưới đây sẽ thống kê sự thay đổi trong quy định liên quan đến lãi suất qua các Bộ luật dân sự 1995 - 2005 - 2015 TIÊU CHÍ BLDS 1995 BLDS 2005 BLDS 2015 Lãi suất cho vay Do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng. Trường hợp có tranh chấp hoặc trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không xác định rõ lãi suất: áp dụng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn do NHNN quy định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trường hợp có tranh chấp hoặc trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không xác định rõ lãi suất: áp dụng lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác (khoản 1 Điều 468). Trường hợp có tranh chấp hoặc trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không xác định rõ lãi suất: lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại K1 Đ468 tại thời điểm trả nợ (tức mức lãi suất không được vượt quá 10%/năm của khoản tiền vay). Lãi suất chậm trả nợ gốc (lãi suất nợ quá hạn) Phải trả lãi trên nợ gốc và lãi theo lãi suất nợ quá hạn của NHNN tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Lãi suất chậm trả nợ lãi Không quy định Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468. Theo đó, trường hợp chậm trả nợ lãi thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất không được vượt quá 10%/năm của khoản tiền vay. Lãi suất chậm trả khác Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Trường hợp người có nghĩa vụ chậm trả tiền, thì người đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do NHNN quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 313). Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 305). Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 (tức không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay); nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này (tức không được vượt quá 10%/năm của khoản tiền vay) (khoản 2 Điều 357).