Chia tài sản theo luật Hồng Đức
mng giải giúp e bài này với a Ông Đức lấy bà Hạnh và không có con. Phu điền sản của ông Đức là 8 sào. Thê điền sản của bà Hạnh là 10 sào. Tần tảo điền sản của 2 vợ chồng là 18 sào. Sau đó bà Hạnh chết. Ông Đức lấy bà Phúc và sinh được 4 người con là Văn Sơn, Thị Thủy, Văn Thái, Văn Bình. Thê điền sản của bà Phúc là 7 sào, tần tảo điền sản ông Đức bà Phúc là 11 sào. Trong 1 lần uống rượu say Văn Sơn đã đánh ông Đức bị thương nặng sau đó ông Đức chết. Bà Phúc quá đau buồn cũng chết. Hãy chia di sản thừa kế theo Quốc triều hình luật
MỘT SỐ BỘ LUẬT CỔ NỔI BẬT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ và phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX). Hình thư là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc, nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn ra bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành 4. Về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam. Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 5, được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội ( ký hiệu A.341), đã được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm 1991, thì bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “ Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam”. Được ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm (công luật). Cùng với Quốc triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt Luật lệ được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức và bộ luật của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), tuy nhiên có nhiều phần đã được chỉnh sửa và lược bỏ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ Nguồn: PGS.TS. Vũ Thị Phụng ĐH KHXH & NV - ĐH QGHN
Luật Hồng Đức những điểm tiến bộ đáng kinh ngạc
Luật Hồng Đức một bộ luật hình chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê và của cả Việt Nam thời kỳ phong kiến. Nói đến bộ luật này người ta thường nghĩ ngay đó là một bộ luật tiến bộ, có kỹ thuật lập pháp cao, nội dung phong phú, toàn diện, quan tâm bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Dù biết đó là một bộ luật mang nhiều tiến bộ và đi trước thời đại nhưng khi được đọc tôi thực sự thấy ngạc nhiên vì các điều luật thực sự tiến bộ hơn rất nhiều so với suy nghĩ của tôi. Xin chia sẻ một số điều luật nổi bật cùng bạn đọc để các bạn cùng suy ngẫm. Điều 11. Những kẻ phạm tội ác nghịch thì dẫu có dịp ân xá cũng không được ân xá. Mình nghĩ đây thực sự là một quy định rất hay và có thể biến hóa một phần để áp dụng trong thời ký bây giờ. Khi mà chạy án xảy ra phổ biến, chung thân có thể 8, 9 năm là ra tù, giết người đi tù 10 năm sau lại giết tiếp người khác. Thiết nghĩ pháp luật mặc dù không nên quy định là không được ân xá. Nhưng những tội phạm đặc biệt nguy hiểm nên có những quy định về mức cụ thể và một mức ân xá vừa phải thôi. Chứ không phải ân xá tràn lan, có tiền là ân xá và cũng nên xem xét quy đinh tội nhẹ được mức ân xá nhiều hơn tội nặng. Điều 47. Những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý, phải xét tội nặng nhẹ mà thêm bớt, không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa của việc xét xử hình án: "tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ". Việc phạm tội vô ý hay cố ý sẽ có thể nói là phương diện hàng đầu khi xem xét hình phạt cho một tội nào đó. Một điều luật thể hiện pháp luật thời bấy giờ đã có cái nhìn rất sâu và cũng rất nhân đạo. Điều 295. Những người góa vợ, góa chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân thích để nương tựa, không thể tự mình mưu sống được, quan sở tại phải thu nuôi họ mà lại bỏ rơi họ thì bị bị xử đánh 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo, mà quan lại ăn bớt đi thì phải khép vào tội như người giữ kho ăn trộm của công. Nghĩ để mà ngẫm đến mình, Ở thời kỳ phong kiến kinh tế còn rất kém nhưng đất nước lại có quy định thành luật rất cụ thể về việc phải thu nuôi những người đặc biệt khó khăn không thể tự nuôi sống bản thân. Còn bây giờ các chính sách về bảo trợ xã hội vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức, người ăn xin nhiều, các trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi sống lang thang ngủ hầm cầu còn rất nhiều. Rồi bớt xén khẩu phần ăn của những người được sống trong các trung tâm bảo trợ khá phổ biến. Thiết nghĩ nhà nước ta đừng đổ lỗi cho thiếu hụt ngân sách, A, B,C để không quan tâm đúng mức tới những trẻ lang thang cơ nhỡ, những số phận bi đát trong xã hội. Không biết có những trẻ lang thang đó sao, không biết có những người phải đi ăn thức ăn ở thùng rác đó sao. Tôi nghĩ không phải, tại sao thu thuế không bỏ sót một ai tất nhiên trừ những trường hợp mang tính bao che, kết hợp ăn chia. Thử nhớ xem thu thuế cho phương tiện tham gia giao thông trước đậy, người ta có bỏ sót bạn không, với bộ máy giúp việc cồng kềnh nào đâu chủ tịch phường, hội phụ nữ, hội thanh niên, ủy ban mặt trận...lại không từng thấy, từng nge những hoàn cảnh, những số phận cơ cực đến bi đát đó sao. Rồi chưa kể tới việc ngân sách trung ương chi 100 về tỉnh còn 80 về huyện còn 60 về xã còn 50 để thực hiện các chính sách xã hội nào đó. Đúng tệ nạn tham nhũng phổ biến và nặng nề nhưng những quy định xử phạt vẫn còn quá xem nhẹ, buông lỏng. Điều 542. Thầy thuốc chữa bệnh cho người mà cố ý dằng dai hãm bệnh để lấy tiền, thì phải biếm ba tư. Y đức thầy thuốc luôn là vấn đề nóng của xã hội. Với rất nhiều vấn đề liên quan đến khám chữa bệnh, tới trách nhiệm đội ngũ bác sỹ đối với bệnh nhân, với nạn phong bì và tất nhiên việc cố ý dằng dai để kéo dài việc điều trị bệnh để lấy tiền cũng không phải là hiếm. Thiết nghĩ pháp luật nên có quy định về vấn đề kéo dài thời gian trị bệnh để lấy tiền này chăng. Người tốt hay người xấu thì thực chất cũng đều có ít nhất một điểm tốt mà chúng ta có thể hoc. Cũng như pháp luật cũng vậy nó có thể là của quá khứ chưa phát triển nhưng khi chú tâm để ý ta cũng có thể thấy những khía cạnh đáng để ta phải tiếp thu.
Hình phạt cho tội tham nhũng trong luật Hồng Đức
Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) quy định rõ các hành vi quan lại lợi dụng chức quyền để vụ lợi, tham nhũng như: nhận hối lộ, đòi hối lộ, sách nhiễu dân, gây khó dễ cho việc thu chi, giấu đất công, giấu đồ vật của công, chiếm ruộng đất công, sử dụng đất công quá hạn định, chiếm đoạt đất đai của lương dân, tự tiện đặt thêm quan chức, tự tiện thuyên chuyển quandưới quyền, tự tiện sai khiến dân đinh, bắt dân phu làm việc riêng, lấy của dân vào việc riêng, dùng quân nhu vào việc riêng, tùy tiện thu thuế của dân, tự ý thu đồ vật của con nợ, đi công cán về tâu trình không đúng thực, chậm trễ, sao nhãng việc công, thi hành sắc lệnh không nghiêm… Ứng với mỗi hành vi đều có những hình thức xử lý nghiêm khắc, tùy thuộc vào tính chất, mức độ và nhân thân, sự cống hiến của quan chức. Sau đây là các quy định liên quan đến phòng chống tham nhũng trong Luật Hồng Đức: TỘI DANH QUY ĐỊNH Nhận hối lộ Điều 138 : “Quan ty làm ăn trái luật mà ăn hối lộ từ một quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần quý thần cùng những người có tài đượcdự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ từ một quan đến 9 quan thì xử phạt tiền 50 quan; từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 quan đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”. Biết tội phạm mà không báo cáo lại còn ăn hối lộ để bao che Điều 192: “Những người coi chợ và người lính thợ thấy trong chợ có người làm đồ vật giả dối hay phá hủy tiềnđồng mà tha thứ không bắt trình quan, thì bị tội biếm hoặc phạt. Người ăn hối lộ dung túng việc đó thì tội cũng giống như chính phạm”. Điều 120: “Viên quan được sai đi công tác, xem xét việc gì về tâu trình không đúng sự thực thì phải tội biếm hay đồ,…nếu ăn tiền hối lộ thì xử tội thêm 2 bậc”. Hành vi đòi hối lộ Điều 626 : “Các quan đại thần, quan hành khiển cùng các quan coi ngục tụng, nếu kẻ tội nhân xét tình đángthương, nên được vua ân tha cho mà lại tự nhận là ơn của mình, để đòi hối lộ, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết”. Đối với các trường hợp giấu đất đai, tài sản của công để chiếm đoạt hoặc có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi Điều 594: “Giấu những đồ vật của công từ 1 quan trở lên thì xử tội biếm; từ 10 quan trở lên thì xử tội đồ; 20 quan trở lên thì xử tội lưu; 50 quan trở lên thì phải xử tử. Nếu giấu mà chưa chiếm hẳn làm của mình, thì được giảm tội haibậc”. Điều 184: “Những người coi việc đào sông, làm cảng và quan đắp ải mà giấubớt dân phu, sách nhiễu tiền của thì bị tội biếm hoặc đồ, phải bồi thường gấp hai, trả lại cho dân”. Điều 185: “Những người công sai đến các lộ, các huyện mà bắt ép phu khuân vác đưa đón và lấy lương thực, vật liệu quá nhiều thì bị tội xuy, đánh 50 roi, biếm một tư, phải bồi thường gấp đôi tang vật trả cho dân”. Điều 186: “Những người coi chợ trong kinh thành sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, lấy thuế chợ quá nặng biếm hai tư, mất chức coi chợ, bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân”. Điều 241:“Những quan tướng hiệu cai quản (...) ăn bớt của công (…) xét tội nhẹ thì bị biếm hay cách chức, tội nặng thì bị đồ hay lưu. Nếu khi chống giặc mà phạm thì không kể nặng nhẹ đều phải chém”. Điều 280: “Những đồ quân nhu mà tướng lĩnh lấy dùng vào việc riêng thì xử tội biếm hay bãi chức; và bồi thường gấp đôi nộp vào quân”. Điều 639: “Các quan ty tự tiện lấy của cải đồ vật của quân dân, dùng vào việc riêng tư, thì xử như tội ăn hối lộ, và phải bồi thường gấp đôi trả cho quân dân”. Điều 372: “Quan dân không theo chế độ ruộng đất mà lạm chiếm phần mình thì xử tội biếm hay đồ”. Điều 370: “Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa ruộng đất ao đầm của lương dân, từ một mẫu trở lên, thì xử tội phạt; từ 5 mẫu trở lên, thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tội tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định”. Điều 571: “Những người phu dân thợ thuyền đang làm việc mà quan chủ ty giám đương lại sai làm việc riêng, thì xử tội biếm hay bãi chức, và phải trả tiền công thuê nộp vào kho”. Điều 632: “Các quan cai quản quan dân các hạt, vô cớ mà đi đến những làng xã trong hạt, hay là cho vợ cả, vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ, để quấy nhiễu quân dân, lấy của biếu xén, thì xử tội biếm hay bãi chức”. Trường hợp đòi tiền lương, tiền công quá mức Điều 193: “Những người đòi tiền lương quá phận của mình, nếu là quan chức thì bị tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, và bãi chức, viên thuộc lại bị tội đồ làm tù quét dọn nơi đang làm việc, người tư giám bị tội đồ làm tù quét dọn trong trại lính, phải bồi thường tiền gấp đôi trả theo luật. Người không đáng được ăn lương mà lại đòi tiền thì bị xử tội thêm một bậc”. Trường hợp bổ nhiệm, tuyển dụng, thuyên chuyển quan chức và người làm việc trong các cơ quan nhà nước không đúng quy định Điều 97 : “Quan lại đặt ra có số nhất định,nếu bổ dụng hay đặt ra quá hạn định, hay không nên đặt ra mà đặt ra (nghĩa là không tâu xin) thì thừa một viên phải phạt 60 trượng, biếm hai tư và bãi chức; thừa 2 viên trở lên thì thì xử tội đồ, người sau biết mà để yên thì xử tội nhẹ hơn người trước một bậc”. Quan lại được bổ nhiệm nằm ngoài quy định Điều 139: Người xin vào chức đặt thừa ấy phải phạt 50 roi, biếm một tư…Những người ỷ thế nhà quyền quý để cầu cạnh xin quan tước thì xử tội biếm hay đồ; kẻ dưới quyền quan ty cũng bắt tội như thế Đối với người quyết định bổ nhiệm, luân chuyển một cách tùy tiện, không theo thứ Điều 152:Các quan sảnh, quan viện, phê vào sổ thăng trật, thuyên chuyển các quan văn võ bậc dưới và các quan coi tăng tạo mà chẳng theo thứ bậc, tự tiện thay đổi thì bị tội đồ và bắt cải chính; nếu phạm nặng thì xử thêm tội Trường hợp quan lại được giao nhiệm vụ mà làm chậm trễ hoặc dùng vào việc riêng Điều 150: “Những quan sảnh, quan viện duyệt sổ dân đinh, chức sắc, hay hạng sai dịch, mà tự tiện chậm trễ hay sai khiến vào những việc riêng, thì xử tội biếm hoặc đồ; việc nặng thì tội thêm một bậc. Những người thuộc lại kiểmđiểm sổ ấy không công bằng, lại làm chậm để lấy tiền, thì phải khép vào tội biếm đồ hay lưu. Người cai quản tự tiện lấy dân đinh làm việc riêng trong nhà, thì xử tội biếm hay tội đồ”. Với những quy định nêu trên cho thấy triều đại Nhà Lê đã quan tâm đến việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi lợi dụng chức quyền của các quan lại cũng như những người có liên quan để vụ lợi cá nhân. Trong đó, đã chú trọng việc xử lý đối với quan lại nhận của hối lộ, lợi dụng quyền quản lý tài sản, đất đai để chiếm dụng, chiếm đoạt ngân khố, tài sản công, đất đai, ruộng vườn. Đặc biệt, Quốc triều Hình luật đã có những quy định để xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp quan chức được giao thực hiện quyền quản lý, bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng quan viên hay điều tra, xét xử các vụ án làm trái hay lợi dụng quyền lực được giao để vụ lợi cá nhân. Nếu so sánh với pháp luật hiện đại, thì bộ luật này cũng thể hiện nhiều điểm cực kỳ ưu việt.
Chia tài sản theo luật Hồng Đức
mng giải giúp e bài này với a Ông Đức lấy bà Hạnh và không có con. Phu điền sản của ông Đức là 8 sào. Thê điền sản của bà Hạnh là 10 sào. Tần tảo điền sản của 2 vợ chồng là 18 sào. Sau đó bà Hạnh chết. Ông Đức lấy bà Phúc và sinh được 4 người con là Văn Sơn, Thị Thủy, Văn Thái, Văn Bình. Thê điền sản của bà Phúc là 7 sào, tần tảo điền sản ông Đức bà Phúc là 11 sào. Trong 1 lần uống rượu say Văn Sơn đã đánh ông Đức bị thương nặng sau đó ông Đức chết. Bà Phúc quá đau buồn cũng chết. Hãy chia di sản thừa kế theo Quốc triều hình luật
MỘT SỐ BỘ LUẬT CỔ NỔI BẬT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ và phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX). Hình thư là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc, nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn ra bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành 4. Về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam. Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 5, được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội ( ký hiệu A.341), đã được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm 1991, thì bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “ Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam”. Được ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm (công luật). Cùng với Quốc triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt Luật lệ được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức và bộ luật của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), tuy nhiên có nhiều phần đã được chỉnh sửa và lược bỏ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ Nguồn: PGS.TS. Vũ Thị Phụng ĐH KHXH & NV - ĐH QGHN
Luật Hồng Đức những điểm tiến bộ đáng kinh ngạc
Luật Hồng Đức một bộ luật hình chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê và của cả Việt Nam thời kỳ phong kiến. Nói đến bộ luật này người ta thường nghĩ ngay đó là một bộ luật tiến bộ, có kỹ thuật lập pháp cao, nội dung phong phú, toàn diện, quan tâm bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Dù biết đó là một bộ luật mang nhiều tiến bộ và đi trước thời đại nhưng khi được đọc tôi thực sự thấy ngạc nhiên vì các điều luật thực sự tiến bộ hơn rất nhiều so với suy nghĩ của tôi. Xin chia sẻ một số điều luật nổi bật cùng bạn đọc để các bạn cùng suy ngẫm. Điều 11. Những kẻ phạm tội ác nghịch thì dẫu có dịp ân xá cũng không được ân xá. Mình nghĩ đây thực sự là một quy định rất hay và có thể biến hóa một phần để áp dụng trong thời ký bây giờ. Khi mà chạy án xảy ra phổ biến, chung thân có thể 8, 9 năm là ra tù, giết người đi tù 10 năm sau lại giết tiếp người khác. Thiết nghĩ pháp luật mặc dù không nên quy định là không được ân xá. Nhưng những tội phạm đặc biệt nguy hiểm nên có những quy định về mức cụ thể và một mức ân xá vừa phải thôi. Chứ không phải ân xá tràn lan, có tiền là ân xá và cũng nên xem xét quy đinh tội nhẹ được mức ân xá nhiều hơn tội nặng. Điều 47. Những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý, phải xét tội nặng nhẹ mà thêm bớt, không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa của việc xét xử hình án: "tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ". Việc phạm tội vô ý hay cố ý sẽ có thể nói là phương diện hàng đầu khi xem xét hình phạt cho một tội nào đó. Một điều luật thể hiện pháp luật thời bấy giờ đã có cái nhìn rất sâu và cũng rất nhân đạo. Điều 295. Những người góa vợ, góa chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân thích để nương tựa, không thể tự mình mưu sống được, quan sở tại phải thu nuôi họ mà lại bỏ rơi họ thì bị bị xử đánh 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo, mà quan lại ăn bớt đi thì phải khép vào tội như người giữ kho ăn trộm của công. Nghĩ để mà ngẫm đến mình, Ở thời kỳ phong kiến kinh tế còn rất kém nhưng đất nước lại có quy định thành luật rất cụ thể về việc phải thu nuôi những người đặc biệt khó khăn không thể tự nuôi sống bản thân. Còn bây giờ các chính sách về bảo trợ xã hội vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức, người ăn xin nhiều, các trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi sống lang thang ngủ hầm cầu còn rất nhiều. Rồi bớt xén khẩu phần ăn của những người được sống trong các trung tâm bảo trợ khá phổ biến. Thiết nghĩ nhà nước ta đừng đổ lỗi cho thiếu hụt ngân sách, A, B,C để không quan tâm đúng mức tới những trẻ lang thang cơ nhỡ, những số phận bi đát trong xã hội. Không biết có những trẻ lang thang đó sao, không biết có những người phải đi ăn thức ăn ở thùng rác đó sao. Tôi nghĩ không phải, tại sao thu thuế không bỏ sót một ai tất nhiên trừ những trường hợp mang tính bao che, kết hợp ăn chia. Thử nhớ xem thu thuế cho phương tiện tham gia giao thông trước đậy, người ta có bỏ sót bạn không, với bộ máy giúp việc cồng kềnh nào đâu chủ tịch phường, hội phụ nữ, hội thanh niên, ủy ban mặt trận...lại không từng thấy, từng nge những hoàn cảnh, những số phận cơ cực đến bi đát đó sao. Rồi chưa kể tới việc ngân sách trung ương chi 100 về tỉnh còn 80 về huyện còn 60 về xã còn 50 để thực hiện các chính sách xã hội nào đó. Đúng tệ nạn tham nhũng phổ biến và nặng nề nhưng những quy định xử phạt vẫn còn quá xem nhẹ, buông lỏng. Điều 542. Thầy thuốc chữa bệnh cho người mà cố ý dằng dai hãm bệnh để lấy tiền, thì phải biếm ba tư. Y đức thầy thuốc luôn là vấn đề nóng của xã hội. Với rất nhiều vấn đề liên quan đến khám chữa bệnh, tới trách nhiệm đội ngũ bác sỹ đối với bệnh nhân, với nạn phong bì và tất nhiên việc cố ý dằng dai để kéo dài việc điều trị bệnh để lấy tiền cũng không phải là hiếm. Thiết nghĩ pháp luật nên có quy định về vấn đề kéo dài thời gian trị bệnh để lấy tiền này chăng. Người tốt hay người xấu thì thực chất cũng đều có ít nhất một điểm tốt mà chúng ta có thể hoc. Cũng như pháp luật cũng vậy nó có thể là của quá khứ chưa phát triển nhưng khi chú tâm để ý ta cũng có thể thấy những khía cạnh đáng để ta phải tiếp thu.
Hình phạt cho tội tham nhũng trong luật Hồng Đức
Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) quy định rõ các hành vi quan lại lợi dụng chức quyền để vụ lợi, tham nhũng như: nhận hối lộ, đòi hối lộ, sách nhiễu dân, gây khó dễ cho việc thu chi, giấu đất công, giấu đồ vật của công, chiếm ruộng đất công, sử dụng đất công quá hạn định, chiếm đoạt đất đai của lương dân, tự tiện đặt thêm quan chức, tự tiện thuyên chuyển quandưới quyền, tự tiện sai khiến dân đinh, bắt dân phu làm việc riêng, lấy của dân vào việc riêng, dùng quân nhu vào việc riêng, tùy tiện thu thuế của dân, tự ý thu đồ vật của con nợ, đi công cán về tâu trình không đúng thực, chậm trễ, sao nhãng việc công, thi hành sắc lệnh không nghiêm… Ứng với mỗi hành vi đều có những hình thức xử lý nghiêm khắc, tùy thuộc vào tính chất, mức độ và nhân thân, sự cống hiến của quan chức. Sau đây là các quy định liên quan đến phòng chống tham nhũng trong Luật Hồng Đức: TỘI DANH QUY ĐỊNH Nhận hối lộ Điều 138 : “Quan ty làm ăn trái luật mà ăn hối lộ từ một quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần quý thần cùng những người có tài đượcdự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ từ một quan đến 9 quan thì xử phạt tiền 50 quan; từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 quan đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”. Biết tội phạm mà không báo cáo lại còn ăn hối lộ để bao che Điều 192: “Những người coi chợ và người lính thợ thấy trong chợ có người làm đồ vật giả dối hay phá hủy tiềnđồng mà tha thứ không bắt trình quan, thì bị tội biếm hoặc phạt. Người ăn hối lộ dung túng việc đó thì tội cũng giống như chính phạm”. Điều 120: “Viên quan được sai đi công tác, xem xét việc gì về tâu trình không đúng sự thực thì phải tội biếm hay đồ,…nếu ăn tiền hối lộ thì xử tội thêm 2 bậc”. Hành vi đòi hối lộ Điều 626 : “Các quan đại thần, quan hành khiển cùng các quan coi ngục tụng, nếu kẻ tội nhân xét tình đángthương, nên được vua ân tha cho mà lại tự nhận là ơn của mình, để đòi hối lộ, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết”. Đối với các trường hợp giấu đất đai, tài sản của công để chiếm đoạt hoặc có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi Điều 594: “Giấu những đồ vật của công từ 1 quan trở lên thì xử tội biếm; từ 10 quan trở lên thì xử tội đồ; 20 quan trở lên thì xử tội lưu; 50 quan trở lên thì phải xử tử. Nếu giấu mà chưa chiếm hẳn làm của mình, thì được giảm tội haibậc”. Điều 184: “Những người coi việc đào sông, làm cảng và quan đắp ải mà giấubớt dân phu, sách nhiễu tiền của thì bị tội biếm hoặc đồ, phải bồi thường gấp hai, trả lại cho dân”. Điều 185: “Những người công sai đến các lộ, các huyện mà bắt ép phu khuân vác đưa đón và lấy lương thực, vật liệu quá nhiều thì bị tội xuy, đánh 50 roi, biếm một tư, phải bồi thường gấp đôi tang vật trả cho dân”. Điều 186: “Những người coi chợ trong kinh thành sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, lấy thuế chợ quá nặng biếm hai tư, mất chức coi chợ, bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân”. Điều 241:“Những quan tướng hiệu cai quản (...) ăn bớt của công (…) xét tội nhẹ thì bị biếm hay cách chức, tội nặng thì bị đồ hay lưu. Nếu khi chống giặc mà phạm thì không kể nặng nhẹ đều phải chém”. Điều 280: “Những đồ quân nhu mà tướng lĩnh lấy dùng vào việc riêng thì xử tội biếm hay bãi chức; và bồi thường gấp đôi nộp vào quân”. Điều 639: “Các quan ty tự tiện lấy của cải đồ vật của quân dân, dùng vào việc riêng tư, thì xử như tội ăn hối lộ, và phải bồi thường gấp đôi trả cho quân dân”. Điều 372: “Quan dân không theo chế độ ruộng đất mà lạm chiếm phần mình thì xử tội biếm hay đồ”. Điều 370: “Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa ruộng đất ao đầm của lương dân, từ một mẫu trở lên, thì xử tội phạt; từ 5 mẫu trở lên, thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tội tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định”. Điều 571: “Những người phu dân thợ thuyền đang làm việc mà quan chủ ty giám đương lại sai làm việc riêng, thì xử tội biếm hay bãi chức, và phải trả tiền công thuê nộp vào kho”. Điều 632: “Các quan cai quản quan dân các hạt, vô cớ mà đi đến những làng xã trong hạt, hay là cho vợ cả, vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ, để quấy nhiễu quân dân, lấy của biếu xén, thì xử tội biếm hay bãi chức”. Trường hợp đòi tiền lương, tiền công quá mức Điều 193: “Những người đòi tiền lương quá phận của mình, nếu là quan chức thì bị tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, và bãi chức, viên thuộc lại bị tội đồ làm tù quét dọn nơi đang làm việc, người tư giám bị tội đồ làm tù quét dọn trong trại lính, phải bồi thường tiền gấp đôi trả theo luật. Người không đáng được ăn lương mà lại đòi tiền thì bị xử tội thêm một bậc”. Trường hợp bổ nhiệm, tuyển dụng, thuyên chuyển quan chức và người làm việc trong các cơ quan nhà nước không đúng quy định Điều 97 : “Quan lại đặt ra có số nhất định,nếu bổ dụng hay đặt ra quá hạn định, hay không nên đặt ra mà đặt ra (nghĩa là không tâu xin) thì thừa một viên phải phạt 60 trượng, biếm hai tư và bãi chức; thừa 2 viên trở lên thì thì xử tội đồ, người sau biết mà để yên thì xử tội nhẹ hơn người trước một bậc”. Quan lại được bổ nhiệm nằm ngoài quy định Điều 139: Người xin vào chức đặt thừa ấy phải phạt 50 roi, biếm một tư…Những người ỷ thế nhà quyền quý để cầu cạnh xin quan tước thì xử tội biếm hay đồ; kẻ dưới quyền quan ty cũng bắt tội như thế Đối với người quyết định bổ nhiệm, luân chuyển một cách tùy tiện, không theo thứ Điều 152:Các quan sảnh, quan viện, phê vào sổ thăng trật, thuyên chuyển các quan văn võ bậc dưới và các quan coi tăng tạo mà chẳng theo thứ bậc, tự tiện thay đổi thì bị tội đồ và bắt cải chính; nếu phạm nặng thì xử thêm tội Trường hợp quan lại được giao nhiệm vụ mà làm chậm trễ hoặc dùng vào việc riêng Điều 150: “Những quan sảnh, quan viện duyệt sổ dân đinh, chức sắc, hay hạng sai dịch, mà tự tiện chậm trễ hay sai khiến vào những việc riêng, thì xử tội biếm hoặc đồ; việc nặng thì tội thêm một bậc. Những người thuộc lại kiểmđiểm sổ ấy không công bằng, lại làm chậm để lấy tiền, thì phải khép vào tội biếm đồ hay lưu. Người cai quản tự tiện lấy dân đinh làm việc riêng trong nhà, thì xử tội biếm hay tội đồ”. Với những quy định nêu trên cho thấy triều đại Nhà Lê đã quan tâm đến việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi lợi dụng chức quyền của các quan lại cũng như những người có liên quan để vụ lợi cá nhân. Trong đó, đã chú trọng việc xử lý đối với quan lại nhận của hối lộ, lợi dụng quyền quản lý tài sản, đất đai để chiếm dụng, chiếm đoạt ngân khố, tài sản công, đất đai, ruộng vườn. Đặc biệt, Quốc triều Hình luật đã có những quy định để xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp quan chức được giao thực hiện quyền quản lý, bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng quan viên hay điều tra, xét xử các vụ án làm trái hay lợi dụng quyền lực được giao để vụ lợi cá nhân. Nếu so sánh với pháp luật hiện đại, thì bộ luật này cũng thể hiện nhiều điểm cực kỳ ưu việt.