Luật Hồi giáo: Ăn thịt lợn có thể ngồi tù
Luật gắn chặt với tôn giáo nên những quy định trong Luật Hồi giáo được xem là rất nghiêm khắc. Nhiều hành vi tưởng chừng như bình thường lại có thể là trọng tội ở các quốc gia hồi giáo, trong đó có hành vi ăn thịt lợn. Các nước thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo Người theo đạo Hồi không được ăn thịt lợn vì lợn là con vật bẩn thỉu. Trong Luật Hồi giáo, hành vi ăn thịt lợn thuộc các tội Taazir (nhóm thứ 3 trong 03 loại tội phạm). Theo đó, việc xét xử tội này thuộc quyền tự quyết của Tòa án và các vị chức sắc trong tôn giáo. Hình phạt áp dụng cho người có hành vi ăn thịt lợn có thể là: - Phạt tù; hoặc - Phạt tiền. Ngoài ra, các tội Taazir còn bao gồm: tội đưa ra lời khai man trá, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ giao thông… với hình phạt như hành vi ăn thịt lợn. Nguồn: Sưu tầm
Khái quát về hệ thống pháp luật Hồi giáo
Luật Hồi giáo và pháp luật ở các nước Hồi giáo có rất nhiều điểm khác biệt với các hệ thống pháp luật thế giới khác. Hai yếu tố cơ bản, tiên quyết để xác định một quốc gia thuộc hệ thống luật Hồi giáo bao gồm: Đạo Hồi là quốc đạo của quốc gia, quốc gia lấy các quy định trong Kinh Thánh của Đạo Hồi làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù là nước có Đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc gia thuộc hệ thống Châu Âu lục địa vì ở quốc gia này Đạo Hồi chỉ được coi là tôn giáo chứ không phải là luật.[1] 1. Nguồn gốc pháp luật Luật Hồi giáo (Moslem law hay Islamic law) trong tiếng Ảrập gọi là Shari'ah (con đường đúng) là một hệ thống các quy định tôn giáo[2] và trong một chừng mực nhất định có khi trở thành các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên các quy định này hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của của bất kỳ Nhà nước nào và trên thực tế nó không tạo thành các quy phạm pháp luật theo nghĩa của thuật ngữ này.[3] Luật Shari'ah điều chỉnh, đưa ra nguyên tắc và quy định hành vi của người dân, hoạt động của các cơ quan tổ chức, đưa ra các quy phạm để áp dụng trong đời sống của một con người: ăn kiêng, nuôi dạy con cái, các nguyên tắc dành cho người tu hành, việc bố thí cho người nghèo và những vấn đề tôn giáo khác. Bên cạnh đó, Luật Shari'ah cũng được sử dụng như những hướng dẫn đối với hoạt động của con người trong xã hội cũng như sự tương tác qua lại giữa các dân tộc. Ở phạm vi rộng hơn, nó được dùng để giải quyết những tranh chấp, xung đột quốc tế và vấn đề chiến tranh. Do đó, nguồn luật của Luật Hồi giáo cũng chính là các thành tố của Luật Shari'ah. Luật này bao gồm 4 thành tố: Kinh Qu'ran (kinh Koran), kinh Sunna, Idjmá và Qiyás.[4] Trong đó, kinh Qu'ran là nguồn luật cao nhất và chứa những quy định mang giá trị chung thẩm khi được áp dụng[5]. Nhìn chung, kinh Qu'ran chỉ giải quyết những nguyên tắc lớn về pháp luật, những vấn đề cốt yếu về tôn giáo và đi sâu vào chi tiết trong một số trường hợp. Chính vì vậy, Kinh Sunna ra đời và được coi là nguồn bổ trợ đóng vai trò quan trọng thứ hai sau Kinh Qu'ran. Thành tố thứ ba của Luật Hồi giáo là Idjmá lại được ra đời trên cơ sở sự thống nhất về quan điểm pháp luật của các học giả pháp lý Đạo Hồi. Dựa vào Idjmá, các thẩm phán có thể tìm kiếm các giải pháp khả thi để áp dụng trong xã hội hiện đại và cũng được quyền tự do sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm hay xã hội. Nói cách khác, thẩm phán có quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjma để giải quyết một vụ việc cụ thể bất kỳ.[6] Về thành tố thứ 4 - Qyias, là án lệ được tuyên bởi thẩm phán cấp cao[7], các thẩm phán có thể sử dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó chưa được đề cập, trên cơ sở lý lẽ và logic để sáng tạo ra án lệ. Trong 4 nguồn luật nói trên thì Qu'ran và Sunna là nguồn luật chính còn Idjmá và Quiyas là nguồn phụ. 2. Hình thức pháp luật Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định hệ thống pháp luật Hồi giáo có hình thức pháp luật thành văn, bất thành văn hay "tôn giáo pháp"? Bởi lẽ, luật Hồi giáo được thể hiện trong các bản Kinh thánh và được nhà nước của quốc gia Hồi giáo công nhận, áp dụng. Trên thực tế, những nước xem đạo Hồi là pháp luật, ranh giới phân biệt giữa Kinh Thánh của Hồi giáo và pháp luật của nhà nước thường không rõ ràng. Việc xâm hại đến một “câu thơ” trong Kinh Thánh cũng đồng thời với việc vi phạm quy định của nhà nước: vi phạm pháp luật[8] (biểu hiện của "Tôn giáo pháp"). Đồng thời, bên cạnh nguồn luật mang tính tôn giáo, ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản pháp luật (cũng giống như việc có tồn tại án lệ). Nhưng đây là sự chuyển hóa những quan điểm pháp luật, ý kiến pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào các văn bản pháp luật.[9] Hơn hết, đây chỉ là nguồn bổ trợ đứng sau Kinh Thánh 3. Vai trò lập pháp của cơ quan tư pháp Như đã trình bày ở trên, Luật Hồi giáo không phải hệ thống pháp luật gắn liền với nhà nước. Những người trung thành với đạo Hồi cho rằng Luật Hồi giáo là bất diệt không bao giờ thay đổi, đây là loại hình pháp luật cuối cùng, hoàn thiện nhất và trong tương lai toàn thể nhân loại sẽ thừa nhận và tuân thủ nó. Một số quốc gia Hồi giáo trong bộ máy nhà nước chỉ có hai nhánh: hành pháp và tư pháp, không có Nghị viện lập pháp. Ở những nước này, quan niệm chỉ có đấng Allah mới có quyền làm ra luật để quy định cách ứng xử của dân chúng trong xã hội. Theo quan điểm này, các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hóa hoặc còn bỏ trống. Tức là Nhà nước chỉ là thứ cấp bên cạnh tôn giáo và đơn giản chỉ là công cụ để thực hiện các quy tắc tôn giáo (đối với nước xem Đạo Hồi và Nhà nước là một). Tuy vậy, các thẩm phán cũng được quyền tự do sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm hay xã hội nên có quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjmá để giải quyết một vụ việc. Và các thẩm phán còn có thể sử dụng tiền lệ pháp để giải quyết một vụ việc mới phát sinh trên cơ sở lý lẽ và logic để sáng tạo ra án lệ. 4. Mối tương quan giữa luật nội dung và luật hình thức Luật Hồi giáo thể hiện ý chí của Thượng đế chứ không phải ý chí của nhà nước nên nó điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khó có thể phân biệt giữa quy định pháp luật và các quy định về tôn giáo, vì người Hồi giáo cho rằng pháp luật và tôn giáo là một[10]. Về luật hình thức thì không được đề cập nhiều đến do bản chất của Luật Hồi giáo là ý chí của Thượng đế, xuất phát từ kinh thánh mà các tín đồ Hồi giáo tin và làm theo, thể hiện mệnh lệnh của đấng tối cao chứ không phải là quyền lực của nhà nước. 5. Vấn đề phân chia luật công và luật tư Hệ thống pháp luật Hồi giáo là một hệ thống pháp luật được nâng lên từ tôn giáo và đạo đức cho nên quy phạm của nó được xem là chế định duy nhất điều chỉnh toàn bộ xã hội. Luật Hồi giáo thể hiện ý chí của Thượng đế chứ không phải ý chí của Nhà nước nên nó điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không chỉ điều chỉnh những vấn đề mà Nhà nước quan tâm. Chính trị thần quyền bao trùm các vấn đề mang tính chất công tư. Trước hết ở các lĩnh vực truyền thống như gia đình, thừa kế và hình sự (trong một chừng mực nhất định), có phần yếu hơn trong lĩnh vực luật hợp đồng, luật sở hữu. Đạo Hồi còn can thiệp vào cả những lĩnh vực mà hầu hết các quốc gia khác cho rằng hoàn toàn không thuộc sự điều chỉnh của pháp luật: thời điểm thích hợp cho việc cầu nguyện, giờ giấc đánh răng.[11] 6. Mức độ và trình độ pháp điển hóa Do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng của các HTPL khác từ thế kỷ XIX đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, ngày nay nhiều quốc gia Hồi giáo đã đổi mới HTPL của mình. Trong các nước Hồi giáo xuất hiện ba xu hướng phát triển: Phương Tây hoá pháp luật, tiếp nhận các chế định pháp luật tiên tiến của phương Tây như chế độ hôn nhân một vợ một chồng và thiết lập chế độ bình đẳng giới; xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, tổ chức hệ thống toà án phi tôn giáo, tư tưởng pháp luật thoát khỏi tư tưởng tôn giáo. Pháp điển hoá pháp luật, xây dựng nhiều bộ luật như hình sự, dân sự, thương mại, tố tụng hình sự và dân sự theo mô hình của các nước phương Tây kết hợp với việc phát huy các truyền thống văn hoá của dân tộc. Loại bỏ dần các quy định cổ hủ, lạc hậu nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ các quyền công dân và quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền. (Nguồn: Tổng hợp) [1] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 54. [2] Michael Bogdan (1994), Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, (bản dịch của Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr. 174. [3] Michael Bogdan (1994), Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, (bản dịch của Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr. 174. [4] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 55-56. [5] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 56 [6] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 56. [7] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 56 [8] http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/kinhnghiemqt/View_Detail.aspx?ItemID=77. [9] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 57. [10] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật So sánh, NXB CAND (2012), tr.134. [11] Michael Bogdan (1994), Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, (bản dịch của Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr. 174.
Các học giả Hồi giáo chia ra ba loại tội phạm theo mức độ nặng nhẹ: - Hudud: Tội phạm nguy hiểm cho xã hội nhất, chống lại những “quyền của Allah” (chống lại quyền lợi của tất cả cộng đồng Hồi giáo) với chế tài được quy định chính xác bao gồm ngoại tình, vu cáo, uống rượu, trộm cắp, cướp, phản đạo và vi phạm kinh Koran. Hình phạt đối với tội ngoại tình, vu cáo, uống rượu là bị đánh bằng roi. Hình phạt đối với tội trộm và cướp là bị đóng đinh vào thánh giá hoặc bị chặt tay chặt chân. Hình phạt đối với tội phản đạo và vi phạm kinh Koran là chặt đầu. - Quesas: Tội phạm chống lại các cá nhân, đời hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình người bị hại với chế tài cũng được xác định chính xác bao gồm tội giết người (cố ý hoặc vô ý), gây thương tích (cố ý hoặc vô ý), cưỡng dâm. - Taazir: Các tội phạm liên quan đến “quyền của Allah” không thực hiện các nghĩa vụ tôn giáo) và tội phạm liên quan đến cá nhân nhưng không bị trừng phạt nặng như ăn thịt lợn, làm hứng gian, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo lở hang… Hình phạt cho loại tội phạm này tuỳ theo thẩm phán toà án Shariah có thể là phạt tiền, phạt tù nhưng nhẹ hơn hai loại tội phạm kể trên. Khác với các hệ thống pháp luật khác thường coi tội làm gián điệp hay giết người là tội phạm nặng nhất, luật Hồi giáo coi các ội phạm chống lại niềm tin vào Allah là nặng nhất. Nếu phạm tội giết người thì tuỳ theo tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà kết án từ hình hoặc cho chuộc bằng tiền và tài sản. Theo luật Hồi giáo, giết một người đàn ông có thể chuộc bằng 50 con lạc đà, giết một người đàn bà có thể chuộc bằng 50 con lạc đà. Ở Ả rập Xê út, cho đến năm 1988 người phạm tội có thể chuộc một số tiền tương đưomg 32.000 USD cho mạng một người đàn ông Hồi giáo, 16.000 USD cho mạng một người đàn bà Hồi giáo hoặc một người đàn ông không theo Hồi giáo, 8.000 USD cho mạng một người đàn bà không theo Hồi giáo.
Luật Hồi giáo và sự "bành trướng" của IS
Trong thế kỷ qua, Đạo Hồi đã trở thành tôn giáo lớn thư hai trên thế giới với trên 1.57 tỉ người theo đạo (chiếm khoảng 23% dân số thế giới); đồng thời, theo đánh giá, đạo Hồi cũng là tôn giáo có bước phát triển nhanh nhất hiện nay. Không ai có thể phủ nhận được, sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống pháp luật Tôn giáo (hay còn gọi là hệ thống Luật Hồi giáo) trên thế giới bên cạnh các hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Thông luật và hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với cuộc nội chiến ở Irag năm 2003 và sự kiện mùa xuân Ả-Rập năm 2014, một tổ chức khủng bố mới đã hình thành Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS), với mục tiêu thành lập nhà nước Hồi giáo thống nhất Trung Đông, gây hoang mang cực độ cho an ninh toàn cầu với những vụ khủng bố đẫm máu. Cảnh sát phong tỏa hiện trường vụ tấn công. Ảnh: AAP Phần 1: Đạo Hồi và Luật Hồi giáo: 1. Đạo Hồi: Về bản chất, Đạo Hồi là một tín ngưỡng khuyên nhủ, dạy bảo các tín đồ sống, làm việc thiện để sau này có một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc ở cõi vĩnh hằng. Cũng như những tôn giáo khác trên thế giới như đạo Phật, đạo Kitô, Ấn Độ giáo,…tín đồ theo Đạo Hồi đuợc răng dạy và phải thực hiện những nghĩa vụ như: ăn chay, cầu nguyện, bố thí, hành hương và sống theo lời thánh Alla trong Kinh Qu’ran (Koran) – Kinh thánh của Đạo Hồi. Kinh Qu’ran (Koran). Ảnh: Internet 2. Luật Hồi giáo: Luật Hồi giáo, theo nghĩa gốc bằng tiếng Arập được phiên âm sang tiếng Latin, là Luật Shari’ah - nghĩa là “con đường đúng” (the right path) hoặc là “sự hướng dẫn” (guide). Từ Luật Shari’ah, các quy phạm tôn giáo được nâng lên thành quy phạm pháp luật quốc gia, tạo nên một hệ thống Luật Hồi giáo lớn mạnh như hôm nay. Các quốc gia điển hình áp dụng hệ thống pháp luật hồi giáo có thể kể đến như Afghanistan, Pakistan, Kowait, Bahrain, Quatar, Arập Xêut,… Các nhà luật gia đánh giá, hai yếu tố cơ bản, tiên quyết để xác định một quốc gia thuộc hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm: + Đạo Hồi phải là quốc đạo của quốc gia đó; + Các quốc gia này phải lấy các quy định trong Kinh Thánh của Đạo Hồi làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù xem Đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa vì chưa đáp ứng được điều kiện về “pháp điển hóa” Kinh Thánh. Đặc điểm mấu chốt của sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các hệ thống pháp luật thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Ở đây, chính trị thần quyền (chế độ cai trị của các tăng lữ, trong đó các luật lệ của nhà nước được tin tưởng là luật lệ của Chúa Trời) bao trùm và điều chỉnh các vấn đề mang tính chất công và tư. Cũng chính từ học thuyết này, Shari’ah là luật Thánh Alla ban hành, không biến đổi và được nhà nước áp dụng cho mọi thời đại; nói cách khác, nhà nước, luật pháp và tôn giáo chỉ là một. Khái niệm này có thể hiểu ở mức độ khác nhau giữa các quốc gia, tuy nhiên, luật pháp và chính quyền chỉ là một phần của Đạo Hồi. Nguồn luật của hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm 04 thành tố: - Luật Shari’ah, đây là nguồn luật chủ yếu của hệ thống này. Cũng tương tự như Bộ luật dân sự Napoleon của Pháp, Luật Shari’ah đã có từ lâu đời và được thể hiện dưới dạng thơ văn, sao cho người dân không biết chữ vẫn có thể hiểu được; điều này cũng được giải thích do phương thức sống du mục của những người theo đạo Hồi, do đó, cần một phương thức bằng lời nói để dễ lưu truyền cho đời sau. Mặc dù với lịch sử lâu đời, nhưng Luật Shari’ah được đánh giá đã có bước tiến nhất định trong “kỹ thuật lập pháp” khi không chỉ quy định về các vấn đề dân sự (hôn nhân, gia đình và thừa kế, giao dịch,…) hay hình sự (ngoại tình, vu khống,…) mà đã bắt đầu điều chỉnh cả vấn đề hợp đồng (hình thức hợp đồng, phương thức thanh toán), pháp luật về tài chính hay tranh chấp quốc tế... - Kinh Sunna, là nguồn luật bổ trợ trong hệ thống luật Hồi giáo, giải thích các quy định rõ trong Luật Shari’ah, chứa đựng lời dạy bảo của tiên tri Mohamed và những giai thoại (Hadith) về ông và các tín đồ của mình. - Idjimá, quan điểm pháp luật của các nhà luật gia Đạo Hồi đã được thống nhất áp dụng. - Qiyas, là án lệ được tuyên bởi thẩm phán cấp cao. Nói một cách khác, các thẩm phán có thể sử dụng Qiyas để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong các nguờn khác. Tại sao những quy định Luật Hồi giáo lại hà khắc như vậy? Một số chuyên gia trong lĩnh vực Luật so sánh cho rằng, những quy định và nguyên tắc trong Luật Hồi giáo được xem là lời răng dạy của chúa, và không thể bị thay đổi bởi bất cứ tác động nào, thậm chí là Hiến pháp hay nhà nước, chính là nguyên nhân dẫn đến những cách xử lý đôi phần đã lỗi thời trong thế giới hiện nay. Trong một số trường hợp, khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức, nhiều người phạm tội không được xét xử một cách công bằng trước tòa đã phải chịu hình phạt từ cộng đồng và dư luận, đôi khi dẫn đến nhiều cái chết thương tâm. Ví dụ: Người phụ nữ bị phát hiện ngoại tình sẽ bị ném đá đến chết. gây nên sự phẫn nộ trên thế giới về vấn đề phân biệt giới tính và nhân quyền. Một phụ nữ trẻ ở Afghanistan đã bị ném đá đến chết vì ngoại tình. Ảnh: BBC Phần 2: Mâu thuẫn trong quan điểm, giáo phái và sự hình thành của các tổ chức khủng bố Năm 632, cái chết của Nhà tiên tri Mohammed, người sáng lập ra Hồi giáo, khiến cộng đồng người theo tôn giáo này bắt đầu mâu thuẫn và chia thành hai dòng Sunni và Shia dựa theo cách họ chọn người lãnh đạo mới. Đối với người theo Sunni (chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi) tin rằng bốn Khalip đầu tiên là những người thừa kế hợp pháp của Muhammad vì Chúa không chỉ định bất kỳ lãnh đạo đặc biệt nào để kế thừa, từ đó dẫn để quan điểm và cách sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào thực hiện theo các bài giảng của nhà tiên tri. Trong khi, người Shia (chiếm 10–20%) tin rằng trong lần hành hương cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali, làm người kế vị và tin rằng các thủ lĩnh ayatollah sau này đều là hiện thân của Đấng tối cao trên mặt đất. The Economist nhận định: “Điều này dẫn đến việc người Sunni cáo buộc người Shiite tôn thờ dị giáo, còn gười Shia tố chính chủ nghĩa giáo điều Sunni đã làm hình thành các giáo phái cực đoan như dòng Wahhabi.” Arab Saudi và Iran, hai quốc gia do người dòng Sunni và Shia lãnh đạo tại Trung Đông tạo thành hai cực mâu thuẫn trong những cuộc xung đột khu vực. Tại Iraq, sự bất đồng giữa chính quyền dòng Shia và cộng đồng người Sunni đã tạo điều kiện cho phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) thành lập và thực hiện nhiều vụ khủng bố như hiện nay với mục tiêu tối hậu của IS là thiết lập một nhà nước Hồi giáo thống nhất toàn Trung Đông, với lý tưởng áp dụng hệ thống pháp luật Hồi giáo trên toàn thế giới. IS dù chỉ mới chiếm giữ một vùng lãnh thổ nhưng đã có những hành động khủng bố độc ác và hiếu chiến khiến cả thể giới phải nhìn nhận lại đây là một tổ chức khủng bố nguy hiểm - một hiểm họa của nhân loại. Lực lượng an ninh Bỉ tiến hành nhiều vụ bố ráp sau khi xảy ra vụ tấn công ở Paris. Ảnh:EPA Hiện nay, sau vụ khủng bố kinh hoàng tại Paris cuối năm 2015 chưa kịp nguôi ngoai, IS đã mở rộng tuyển mộ đến các quốc gia Hồi giáo tại Đông Nam Á và gây ra vụ xả súng, nổ bom ở thủ đô Jarkatar – Indonesia vào ngày 14/01/2016, chủ yếu nhằm vào những nơi tập trung người nước ngoài. Nguồn thông tin tham khảo: - Bản chất và nguồn của Luật Hồi Giáo, Đỗ Thị Mai Hạnh, ThS. Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, TẠP CHÍ KHPL SỐ 3(34)/2006; - Vài nét về Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng, Kiều Nga, Ban Tôn giáo chính phủ; - Nguồn gốc chia rẽ giữa người Hồi giáo Sunni và Shiite, Như Tâm, Vnexpress.
Luật Hồi giáo: Ăn thịt lợn có thể ngồi tù
Luật gắn chặt với tôn giáo nên những quy định trong Luật Hồi giáo được xem là rất nghiêm khắc. Nhiều hành vi tưởng chừng như bình thường lại có thể là trọng tội ở các quốc gia hồi giáo, trong đó có hành vi ăn thịt lợn. Các nước thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo Người theo đạo Hồi không được ăn thịt lợn vì lợn là con vật bẩn thỉu. Trong Luật Hồi giáo, hành vi ăn thịt lợn thuộc các tội Taazir (nhóm thứ 3 trong 03 loại tội phạm). Theo đó, việc xét xử tội này thuộc quyền tự quyết của Tòa án và các vị chức sắc trong tôn giáo. Hình phạt áp dụng cho người có hành vi ăn thịt lợn có thể là: - Phạt tù; hoặc - Phạt tiền. Ngoài ra, các tội Taazir còn bao gồm: tội đưa ra lời khai man trá, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ giao thông… với hình phạt như hành vi ăn thịt lợn. Nguồn: Sưu tầm
Khái quát về hệ thống pháp luật Hồi giáo
Luật Hồi giáo và pháp luật ở các nước Hồi giáo có rất nhiều điểm khác biệt với các hệ thống pháp luật thế giới khác. Hai yếu tố cơ bản, tiên quyết để xác định một quốc gia thuộc hệ thống luật Hồi giáo bao gồm: Đạo Hồi là quốc đạo của quốc gia, quốc gia lấy các quy định trong Kinh Thánh của Đạo Hồi làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù là nước có Đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc gia thuộc hệ thống Châu Âu lục địa vì ở quốc gia này Đạo Hồi chỉ được coi là tôn giáo chứ không phải là luật.[1] 1. Nguồn gốc pháp luật Luật Hồi giáo (Moslem law hay Islamic law) trong tiếng Ảrập gọi là Shari'ah (con đường đúng) là một hệ thống các quy định tôn giáo[2] và trong một chừng mực nhất định có khi trở thành các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên các quy định này hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của của bất kỳ Nhà nước nào và trên thực tế nó không tạo thành các quy phạm pháp luật theo nghĩa của thuật ngữ này.[3] Luật Shari'ah điều chỉnh, đưa ra nguyên tắc và quy định hành vi của người dân, hoạt động của các cơ quan tổ chức, đưa ra các quy phạm để áp dụng trong đời sống của một con người: ăn kiêng, nuôi dạy con cái, các nguyên tắc dành cho người tu hành, việc bố thí cho người nghèo và những vấn đề tôn giáo khác. Bên cạnh đó, Luật Shari'ah cũng được sử dụng như những hướng dẫn đối với hoạt động của con người trong xã hội cũng như sự tương tác qua lại giữa các dân tộc. Ở phạm vi rộng hơn, nó được dùng để giải quyết những tranh chấp, xung đột quốc tế và vấn đề chiến tranh. Do đó, nguồn luật của Luật Hồi giáo cũng chính là các thành tố của Luật Shari'ah. Luật này bao gồm 4 thành tố: Kinh Qu'ran (kinh Koran), kinh Sunna, Idjmá và Qiyás.[4] Trong đó, kinh Qu'ran là nguồn luật cao nhất và chứa những quy định mang giá trị chung thẩm khi được áp dụng[5]. Nhìn chung, kinh Qu'ran chỉ giải quyết những nguyên tắc lớn về pháp luật, những vấn đề cốt yếu về tôn giáo và đi sâu vào chi tiết trong một số trường hợp. Chính vì vậy, Kinh Sunna ra đời và được coi là nguồn bổ trợ đóng vai trò quan trọng thứ hai sau Kinh Qu'ran. Thành tố thứ ba của Luật Hồi giáo là Idjmá lại được ra đời trên cơ sở sự thống nhất về quan điểm pháp luật của các học giả pháp lý Đạo Hồi. Dựa vào Idjmá, các thẩm phán có thể tìm kiếm các giải pháp khả thi để áp dụng trong xã hội hiện đại và cũng được quyền tự do sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm hay xã hội. Nói cách khác, thẩm phán có quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjma để giải quyết một vụ việc cụ thể bất kỳ.[6] Về thành tố thứ 4 - Qyias, là án lệ được tuyên bởi thẩm phán cấp cao[7], các thẩm phán có thể sử dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó chưa được đề cập, trên cơ sở lý lẽ và logic để sáng tạo ra án lệ. Trong 4 nguồn luật nói trên thì Qu'ran và Sunna là nguồn luật chính còn Idjmá và Quiyas là nguồn phụ. 2. Hình thức pháp luật Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định hệ thống pháp luật Hồi giáo có hình thức pháp luật thành văn, bất thành văn hay "tôn giáo pháp"? Bởi lẽ, luật Hồi giáo được thể hiện trong các bản Kinh thánh và được nhà nước của quốc gia Hồi giáo công nhận, áp dụng. Trên thực tế, những nước xem đạo Hồi là pháp luật, ranh giới phân biệt giữa Kinh Thánh của Hồi giáo và pháp luật của nhà nước thường không rõ ràng. Việc xâm hại đến một “câu thơ” trong Kinh Thánh cũng đồng thời với việc vi phạm quy định của nhà nước: vi phạm pháp luật[8] (biểu hiện của "Tôn giáo pháp"). Đồng thời, bên cạnh nguồn luật mang tính tôn giáo, ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản pháp luật (cũng giống như việc có tồn tại án lệ). Nhưng đây là sự chuyển hóa những quan điểm pháp luật, ý kiến pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào các văn bản pháp luật.[9] Hơn hết, đây chỉ là nguồn bổ trợ đứng sau Kinh Thánh 3. Vai trò lập pháp của cơ quan tư pháp Như đã trình bày ở trên, Luật Hồi giáo không phải hệ thống pháp luật gắn liền với nhà nước. Những người trung thành với đạo Hồi cho rằng Luật Hồi giáo là bất diệt không bao giờ thay đổi, đây là loại hình pháp luật cuối cùng, hoàn thiện nhất và trong tương lai toàn thể nhân loại sẽ thừa nhận và tuân thủ nó. Một số quốc gia Hồi giáo trong bộ máy nhà nước chỉ có hai nhánh: hành pháp và tư pháp, không có Nghị viện lập pháp. Ở những nước này, quan niệm chỉ có đấng Allah mới có quyền làm ra luật để quy định cách ứng xử của dân chúng trong xã hội. Theo quan điểm này, các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hóa hoặc còn bỏ trống. Tức là Nhà nước chỉ là thứ cấp bên cạnh tôn giáo và đơn giản chỉ là công cụ để thực hiện các quy tắc tôn giáo (đối với nước xem Đạo Hồi và Nhà nước là một). Tuy vậy, các thẩm phán cũng được quyền tự do sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm hay xã hội nên có quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjmá để giải quyết một vụ việc. Và các thẩm phán còn có thể sử dụng tiền lệ pháp để giải quyết một vụ việc mới phát sinh trên cơ sở lý lẽ và logic để sáng tạo ra án lệ. 4. Mối tương quan giữa luật nội dung và luật hình thức Luật Hồi giáo thể hiện ý chí của Thượng đế chứ không phải ý chí của nhà nước nên nó điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khó có thể phân biệt giữa quy định pháp luật và các quy định về tôn giáo, vì người Hồi giáo cho rằng pháp luật và tôn giáo là một[10]. Về luật hình thức thì không được đề cập nhiều đến do bản chất của Luật Hồi giáo là ý chí của Thượng đế, xuất phát từ kinh thánh mà các tín đồ Hồi giáo tin và làm theo, thể hiện mệnh lệnh của đấng tối cao chứ không phải là quyền lực của nhà nước. 5. Vấn đề phân chia luật công và luật tư Hệ thống pháp luật Hồi giáo là một hệ thống pháp luật được nâng lên từ tôn giáo và đạo đức cho nên quy phạm của nó được xem là chế định duy nhất điều chỉnh toàn bộ xã hội. Luật Hồi giáo thể hiện ý chí của Thượng đế chứ không phải ý chí của Nhà nước nên nó điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không chỉ điều chỉnh những vấn đề mà Nhà nước quan tâm. Chính trị thần quyền bao trùm các vấn đề mang tính chất công tư. Trước hết ở các lĩnh vực truyền thống như gia đình, thừa kế và hình sự (trong một chừng mực nhất định), có phần yếu hơn trong lĩnh vực luật hợp đồng, luật sở hữu. Đạo Hồi còn can thiệp vào cả những lĩnh vực mà hầu hết các quốc gia khác cho rằng hoàn toàn không thuộc sự điều chỉnh của pháp luật: thời điểm thích hợp cho việc cầu nguyện, giờ giấc đánh răng.[11] 6. Mức độ và trình độ pháp điển hóa Do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng của các HTPL khác từ thế kỷ XIX đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, ngày nay nhiều quốc gia Hồi giáo đã đổi mới HTPL của mình. Trong các nước Hồi giáo xuất hiện ba xu hướng phát triển: Phương Tây hoá pháp luật, tiếp nhận các chế định pháp luật tiên tiến của phương Tây như chế độ hôn nhân một vợ một chồng và thiết lập chế độ bình đẳng giới; xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, tổ chức hệ thống toà án phi tôn giáo, tư tưởng pháp luật thoát khỏi tư tưởng tôn giáo. Pháp điển hoá pháp luật, xây dựng nhiều bộ luật như hình sự, dân sự, thương mại, tố tụng hình sự và dân sự theo mô hình của các nước phương Tây kết hợp với việc phát huy các truyền thống văn hoá của dân tộc. Loại bỏ dần các quy định cổ hủ, lạc hậu nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ các quyền công dân và quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền. (Nguồn: Tổng hợp) [1] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 54. [2] Michael Bogdan (1994), Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, (bản dịch của Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr. 174. [3] Michael Bogdan (1994), Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, (bản dịch của Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr. 174. [4] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 55-56. [5] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 56 [6] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 56. [7] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 56 [8] http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/kinhnghiemqt/View_Detail.aspx?ItemID=77. [9] Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03, tr. 57. [10] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật So sánh, NXB CAND (2012), tr.134. [11] Michael Bogdan (1994), Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, (bản dịch của Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền), tr. 174.
Các học giả Hồi giáo chia ra ba loại tội phạm theo mức độ nặng nhẹ: - Hudud: Tội phạm nguy hiểm cho xã hội nhất, chống lại những “quyền của Allah” (chống lại quyền lợi của tất cả cộng đồng Hồi giáo) với chế tài được quy định chính xác bao gồm ngoại tình, vu cáo, uống rượu, trộm cắp, cướp, phản đạo và vi phạm kinh Koran. Hình phạt đối với tội ngoại tình, vu cáo, uống rượu là bị đánh bằng roi. Hình phạt đối với tội trộm và cướp là bị đóng đinh vào thánh giá hoặc bị chặt tay chặt chân. Hình phạt đối với tội phản đạo và vi phạm kinh Koran là chặt đầu. - Quesas: Tội phạm chống lại các cá nhân, đời hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình người bị hại với chế tài cũng được xác định chính xác bao gồm tội giết người (cố ý hoặc vô ý), gây thương tích (cố ý hoặc vô ý), cưỡng dâm. - Taazir: Các tội phạm liên quan đến “quyền của Allah” không thực hiện các nghĩa vụ tôn giáo) và tội phạm liên quan đến cá nhân nhưng không bị trừng phạt nặng như ăn thịt lợn, làm hứng gian, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo lở hang… Hình phạt cho loại tội phạm này tuỳ theo thẩm phán toà án Shariah có thể là phạt tiền, phạt tù nhưng nhẹ hơn hai loại tội phạm kể trên. Khác với các hệ thống pháp luật khác thường coi tội làm gián điệp hay giết người là tội phạm nặng nhất, luật Hồi giáo coi các ội phạm chống lại niềm tin vào Allah là nặng nhất. Nếu phạm tội giết người thì tuỳ theo tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà kết án từ hình hoặc cho chuộc bằng tiền và tài sản. Theo luật Hồi giáo, giết một người đàn ông có thể chuộc bằng 50 con lạc đà, giết một người đàn bà có thể chuộc bằng 50 con lạc đà. Ở Ả rập Xê út, cho đến năm 1988 người phạm tội có thể chuộc một số tiền tương đưomg 32.000 USD cho mạng một người đàn ông Hồi giáo, 16.000 USD cho mạng một người đàn bà Hồi giáo hoặc một người đàn ông không theo Hồi giáo, 8.000 USD cho mạng một người đàn bà không theo Hồi giáo.
Luật Hồi giáo và sự "bành trướng" của IS
Trong thế kỷ qua, Đạo Hồi đã trở thành tôn giáo lớn thư hai trên thế giới với trên 1.57 tỉ người theo đạo (chiếm khoảng 23% dân số thế giới); đồng thời, theo đánh giá, đạo Hồi cũng là tôn giáo có bước phát triển nhanh nhất hiện nay. Không ai có thể phủ nhận được, sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống pháp luật Tôn giáo (hay còn gọi là hệ thống Luật Hồi giáo) trên thế giới bên cạnh các hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Thông luật và hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với cuộc nội chiến ở Irag năm 2003 và sự kiện mùa xuân Ả-Rập năm 2014, một tổ chức khủng bố mới đã hình thành Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS), với mục tiêu thành lập nhà nước Hồi giáo thống nhất Trung Đông, gây hoang mang cực độ cho an ninh toàn cầu với những vụ khủng bố đẫm máu. Cảnh sát phong tỏa hiện trường vụ tấn công. Ảnh: AAP Phần 1: Đạo Hồi và Luật Hồi giáo: 1. Đạo Hồi: Về bản chất, Đạo Hồi là một tín ngưỡng khuyên nhủ, dạy bảo các tín đồ sống, làm việc thiện để sau này có một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc ở cõi vĩnh hằng. Cũng như những tôn giáo khác trên thế giới như đạo Phật, đạo Kitô, Ấn Độ giáo,…tín đồ theo Đạo Hồi đuợc răng dạy và phải thực hiện những nghĩa vụ như: ăn chay, cầu nguyện, bố thí, hành hương và sống theo lời thánh Alla trong Kinh Qu’ran (Koran) – Kinh thánh của Đạo Hồi. Kinh Qu’ran (Koran). Ảnh: Internet 2. Luật Hồi giáo: Luật Hồi giáo, theo nghĩa gốc bằng tiếng Arập được phiên âm sang tiếng Latin, là Luật Shari’ah - nghĩa là “con đường đúng” (the right path) hoặc là “sự hướng dẫn” (guide). Từ Luật Shari’ah, các quy phạm tôn giáo được nâng lên thành quy phạm pháp luật quốc gia, tạo nên một hệ thống Luật Hồi giáo lớn mạnh như hôm nay. Các quốc gia điển hình áp dụng hệ thống pháp luật hồi giáo có thể kể đến như Afghanistan, Pakistan, Kowait, Bahrain, Quatar, Arập Xêut,… Các nhà luật gia đánh giá, hai yếu tố cơ bản, tiên quyết để xác định một quốc gia thuộc hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm: + Đạo Hồi phải là quốc đạo của quốc gia đó; + Các quốc gia này phải lấy các quy định trong Kinh Thánh của Đạo Hồi làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù xem Đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa vì chưa đáp ứng được điều kiện về “pháp điển hóa” Kinh Thánh. Đặc điểm mấu chốt của sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các hệ thống pháp luật thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Ở đây, chính trị thần quyền (chế độ cai trị của các tăng lữ, trong đó các luật lệ của nhà nước được tin tưởng là luật lệ của Chúa Trời) bao trùm và điều chỉnh các vấn đề mang tính chất công và tư. Cũng chính từ học thuyết này, Shari’ah là luật Thánh Alla ban hành, không biến đổi và được nhà nước áp dụng cho mọi thời đại; nói cách khác, nhà nước, luật pháp và tôn giáo chỉ là một. Khái niệm này có thể hiểu ở mức độ khác nhau giữa các quốc gia, tuy nhiên, luật pháp và chính quyền chỉ là một phần của Đạo Hồi. Nguồn luật của hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm 04 thành tố: - Luật Shari’ah, đây là nguồn luật chủ yếu của hệ thống này. Cũng tương tự như Bộ luật dân sự Napoleon của Pháp, Luật Shari’ah đã có từ lâu đời và được thể hiện dưới dạng thơ văn, sao cho người dân không biết chữ vẫn có thể hiểu được; điều này cũng được giải thích do phương thức sống du mục của những người theo đạo Hồi, do đó, cần một phương thức bằng lời nói để dễ lưu truyền cho đời sau. Mặc dù với lịch sử lâu đời, nhưng Luật Shari’ah được đánh giá đã có bước tiến nhất định trong “kỹ thuật lập pháp” khi không chỉ quy định về các vấn đề dân sự (hôn nhân, gia đình và thừa kế, giao dịch,…) hay hình sự (ngoại tình, vu khống,…) mà đã bắt đầu điều chỉnh cả vấn đề hợp đồng (hình thức hợp đồng, phương thức thanh toán), pháp luật về tài chính hay tranh chấp quốc tế... - Kinh Sunna, là nguồn luật bổ trợ trong hệ thống luật Hồi giáo, giải thích các quy định rõ trong Luật Shari’ah, chứa đựng lời dạy bảo của tiên tri Mohamed và những giai thoại (Hadith) về ông và các tín đồ của mình. - Idjimá, quan điểm pháp luật của các nhà luật gia Đạo Hồi đã được thống nhất áp dụng. - Qiyas, là án lệ được tuyên bởi thẩm phán cấp cao. Nói một cách khác, các thẩm phán có thể sử dụng Qiyas để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong các nguờn khác. Tại sao những quy định Luật Hồi giáo lại hà khắc như vậy? Một số chuyên gia trong lĩnh vực Luật so sánh cho rằng, những quy định và nguyên tắc trong Luật Hồi giáo được xem là lời răng dạy của chúa, và không thể bị thay đổi bởi bất cứ tác động nào, thậm chí là Hiến pháp hay nhà nước, chính là nguyên nhân dẫn đến những cách xử lý đôi phần đã lỗi thời trong thế giới hiện nay. Trong một số trường hợp, khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức, nhiều người phạm tội không được xét xử một cách công bằng trước tòa đã phải chịu hình phạt từ cộng đồng và dư luận, đôi khi dẫn đến nhiều cái chết thương tâm. Ví dụ: Người phụ nữ bị phát hiện ngoại tình sẽ bị ném đá đến chết. gây nên sự phẫn nộ trên thế giới về vấn đề phân biệt giới tính và nhân quyền. Một phụ nữ trẻ ở Afghanistan đã bị ném đá đến chết vì ngoại tình. Ảnh: BBC Phần 2: Mâu thuẫn trong quan điểm, giáo phái và sự hình thành của các tổ chức khủng bố Năm 632, cái chết của Nhà tiên tri Mohammed, người sáng lập ra Hồi giáo, khiến cộng đồng người theo tôn giáo này bắt đầu mâu thuẫn và chia thành hai dòng Sunni và Shia dựa theo cách họ chọn người lãnh đạo mới. Đối với người theo Sunni (chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi) tin rằng bốn Khalip đầu tiên là những người thừa kế hợp pháp của Muhammad vì Chúa không chỉ định bất kỳ lãnh đạo đặc biệt nào để kế thừa, từ đó dẫn để quan điểm và cách sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào thực hiện theo các bài giảng của nhà tiên tri. Trong khi, người Shia (chiếm 10–20%) tin rằng trong lần hành hương cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali, làm người kế vị và tin rằng các thủ lĩnh ayatollah sau này đều là hiện thân của Đấng tối cao trên mặt đất. The Economist nhận định: “Điều này dẫn đến việc người Sunni cáo buộc người Shiite tôn thờ dị giáo, còn gười Shia tố chính chủ nghĩa giáo điều Sunni đã làm hình thành các giáo phái cực đoan như dòng Wahhabi.” Arab Saudi và Iran, hai quốc gia do người dòng Sunni và Shia lãnh đạo tại Trung Đông tạo thành hai cực mâu thuẫn trong những cuộc xung đột khu vực. Tại Iraq, sự bất đồng giữa chính quyền dòng Shia và cộng đồng người Sunni đã tạo điều kiện cho phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) thành lập và thực hiện nhiều vụ khủng bố như hiện nay với mục tiêu tối hậu của IS là thiết lập một nhà nước Hồi giáo thống nhất toàn Trung Đông, với lý tưởng áp dụng hệ thống pháp luật Hồi giáo trên toàn thế giới. IS dù chỉ mới chiếm giữ một vùng lãnh thổ nhưng đã có những hành động khủng bố độc ác và hiếu chiến khiến cả thể giới phải nhìn nhận lại đây là một tổ chức khủng bố nguy hiểm - một hiểm họa của nhân loại. Lực lượng an ninh Bỉ tiến hành nhiều vụ bố ráp sau khi xảy ra vụ tấn công ở Paris. Ảnh:EPA Hiện nay, sau vụ khủng bố kinh hoàng tại Paris cuối năm 2015 chưa kịp nguôi ngoai, IS đã mở rộng tuyển mộ đến các quốc gia Hồi giáo tại Đông Nam Á và gây ra vụ xả súng, nổ bom ở thủ đô Jarkatar – Indonesia vào ngày 14/01/2016, chủ yếu nhằm vào những nơi tập trung người nước ngoài. Nguồn thông tin tham khảo: - Bản chất và nguồn của Luật Hồi Giáo, Đỗ Thị Mai Hạnh, ThS. Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, TẠP CHÍ KHPL SỐ 3(34)/2006; - Vài nét về Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng, Kiều Nga, Ban Tôn giáo chính phủ; - Nguồn gốc chia rẽ giữa người Hồi giáo Sunni và Shiite, Như Tâm, Vnexpress.