Nộp lại bao nhiêu tiền đã nhận hối lộ thì được giảm án tử hình?
Nhận hối lộ không chỉ là một hành vi vi phạm pháp luật mà còn là một tội ác nghiêm trọng, đe dọa đến sự phát triển của xã hội, người phạm tội này có thể bị kết án tử hình. (1) Tội nhận hối lộ bị phạt thế nào? Theo Điều 354 Bộ Luật Hình sự 2015, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ có thể bị phạt tù từ 2 đến 20 năm hoặc án tử hình, tùy thuộc vào giá trị và mức độ vi phạm. Cụ thể: - Nhận hối lộ từ 02 triệu đến dưới 100 triệu đồng, hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng đã vi phạm trước đó thì phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Nhận hối lộ từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng, hoặc gây thiệt hại từ 01 đến dưới 03 tỷ đồng thì phạt tù từ 07năm đến 15 năm. - Nhận hối lộ từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ đồng, hoặc gây thiệt hại từ 3 đến dưới 5 tỷ đồng, phạt từ 15 đến 20 năm. - Nhận hối lộ từ 01 tỷ đồng trở lên, hoặc gây thiệt hại từ 05 tỷ đồng trở lên, có thể bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ và bị phạt tiền. Quy định cũng áp dụng cho người có chức vụ trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước. Như vậy, theo quy định trên, người phạm tội hối lộ bị phạt với khung nhẹ nhất là 02 đến 07 năm tù, và bị phạt với khung nặng nhất là hình phạt tử hình khi có số tiền nhận hối lộ trên 01 tỷ đồng hoặc gây thiệt hại trên 05 tỷ đồng. (2) Nộp lại bao nhiêu tiền nhận hối lộ thì được giảm án tử hình? Theo quy định tại Điều 40 Bộ Luật Hình sự 2015, tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ Luật Hình sự 2015 quy định. Tuy nhiên, tại điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định, không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Như vậy, sau khi bị kết án, người phạm tội nhận hối lộ nộp lại ít nhất ba phần tư (¾) số tài sản đã nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng để điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì có thể được giảm án tử hình. Trong đó: - “Chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ” là trường hợp người phạm tội đã tự mình nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ sau khi phạm tội. Cũng được coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ đối với trường hợp người phạm tội sau khi phạm tội đã tác động để cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại hoặc không phản đối việc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản mà mình tham ô, nhận hối lộ. Đối với trường hợp trong cùng vụ án, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội, trong đó có tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và tội khác, nhưng đã chủ động nộp lại số tài sản bằng ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ thì cũng được coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ, trừ trường hợp có căn cứ rõ ràng xác định tài sản có nguồn gốc từ tội phạm khác. - “Hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” là sau khi phạm tội tham nhũng hoặc các tội phạm khác về chức vụ, người phạm tội đã chủ động cung cấp những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội (như: chỉ đúng nơi cất giấu vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật chứng đó; khai báo và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn; khai báo về tội phạm và người phạm tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội...). Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” nhưng Tòa án phải nhận định rõ trong bản án. - “Lập công lớn” là trường hợp người phạm tội đã giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm không liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân trong thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; có phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị lớn được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “lập công lớn” nhưng Tòa án phải nhận định rõ trong bản án. (Theo quy định tại khoản 7, khoản 8 và khoản 9 Điều 2 Nghị quyết 03/2020/HĐTP). (3) Nguyên tắc xử lý đối với tội phạm tham nhũng, nhận hối lộ Theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết 03/2020/HĐTP, việc xử lý tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự. Xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 Bộ Luật Hình sự 2015 đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015 hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau: - Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; - Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm; - Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra; - Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra. Tổng kết, việc xử lý tội phạm tham nhũng và nhận hối lộ cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc pháp luật, đồng thời xem xét áp dụng chính sách khoan hồng cho những trường hợp có tình tiết giảm nhẹ. Điều này không chỉ góp phần đảm bảo công bằng trong xử lý tội phạm mà còn khuyến khích những hành vi tích cực, thể hiện sự ăn năn hối cải và hợp tác của người phạm tội. Qua đó, chúng ta có thể xây dựng một môi trường pháp lý công bằng và hiệu quả, góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Phân biệt ân xá, đặc xá, đại xá? Tha tù trước thời hạn có điều kiện có phải là đặc xá không?
Làm thế nào để phân biệt ân xá, đặc xá và đại xá? Biện pháp tha tù trước thời hạn có điều kiện có phải là đặc xá không? Bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Xem thêm: 1 năm có mấy lần đặc xá? Điều kiện để được đặc xá năm 2024 Năm 2024, ngày nào sẽ công bố Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn của Chủ tịch nước ? Phân biệt ân xá, đặc xá, đại xá? Hiện nay pháp luật không quy định cụ thể về khái niệm của ân xá, tuy nhiên có thể hiểu ân xá là đặc ân của nhà nước trong việc miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với những người phạm tội, mở ra cho những người phạm tội khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội và nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng. Ân xá được thực hiện với hai hình thức là đại xá và đặc xá. Theo đó, đặc xá và đại xá được phân biệt như sau: Tiêu chí phân biệt Đại xá Đặc xá Khái niệm Đại xá là sự khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm nhất định với hàng loạt người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. (Khoản 1 Điều 3 Luật Đặc xá 2018) Bản chất Là một chính sách khoan hồng của Nhà nước, trong đó thực hiện việc không truy cứu trách nhiệm hình sự, tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm hoặc nhiều người phạm tội nhất định không phân biệt họ đang chấp hành hình phạt, đã bị truy tố hay xét xử hay chưa. Là việc miễn chấp hành hình phạt cho người đang bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân để họ có thể được tha tù, không phải chấp hành hình phạt tù nữa, ra tù sớm hơn thời gian mà họ phải chấp hành theo bản án, quyết định của Tòa án. Việc đặc xá chỉ được thực hiện khi nhân những dịp lễ quan trọng của đất nước hoặc trường hợp đặc biệt với những điều kiện nhất định. Thẩm quyền quyết định Quốc hội (Khoản 11 Điều 70 Hiến pháp 2013) Chủ tịch nước (Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2023) Đối tượng Người phạm tội trong giai đoạn đã hoặc chưa bị truy tố, xét xử, thi hành án. Áp dụng cho người phạm tội đang trong giai đoạn thi hành án phạt tù (tù có thời hạn, tù chung thân). Phạm vi áp dụng Chỉ loại trừ đối với một số tội phạm nguy hiểm mà nếu đại xá sẽ ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Áp dụng cho người phạm tội cụ thể theo tình hình thực tiễn. Phải đáp ứng một số điều kiện mới được đề nghị đặc xá Điều kiện Phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị xã hội, diễn biến tội phạm Đáp ứng quy định tại Điều 11 Luật Đặc xá năm 2018 Cơ sở ra quyết định Thường được đưa ra trong phiên họp Quốc hội và được các đại biểu thống nhất thông qua. Người đề nghị đặc xá phải đáp ứng được điều kiện quy định và có đơn đề nghị đặc xá gửi đến Chủ tịch nước. Hậu quả pháp lý Người phạm tội đang ở giai đoạn điều tra, truy tố hay xét xử đều được miễn trách nhiệm hình sự - Nếu đã bị tuyên hình phạt, đang chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại và được xóa án tích - Nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định khác của Tòa án thì được xóa án tích Người được đặc xá được miễn chấp hành hình phạt còn lại nhưng không được xóa án tích ngay như người được quyết định đại xá và vẫn có tiền án trong lý lịch tư pháp. Như vậy, ân xá là đặc ân của nhà nước nhằm thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội. Ân xá được thể hiện qua hai hình thức là đặc xá và đại xá. Tha tù trước thời hạn có điều kiện có phải là đặc xá không? Như đã phân tích tại phần trên. Đặc xá là việc tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Để được đặc xá, người phạm nhân cũng phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Tuy nhiên, tha tù trước thời hạn có điều kiện và đặc xá là hai hình thức khác nhau. Theo Điều 1 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP, tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ. Đồng thời, theo Điều 5, Điều 7 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC, cơ quan có thẩm quyền quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù. Như vậy, đặc xá và tha tù trước thời hạn có điều kiện là hai hình thức khác nhau. Mặc dù kết quả là các đối tượng đều sẽ được tha tù trước thời hạn nhưng đối tượng của đặc xá là người phạm tội trong giai đoạn đã hoặc chưa bị truy tố, xét xử, thi hành án, còn đối tượng của tha tù trước thời hạn có điều kiện là người đang chấp hành án phạt tù. Xem thêm: 1 năm có mấy lần đặc xá? Điều kiện để được đặc xá năm 2024 Năm 2024, ngày nào sẽ công bố Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn của Chủ tịch nước ?
Bị cáo ăn năn hối cải, cải thiện tốt, có được nhà nước khoan hồng?
Tiếp tục phiên tòa xét xử vụ án của ngân hàng SCB, một số bị cáo như ông H (cựu quyền Tổng giám đốc) hay ông D (cựu Chủ tịch HĐQT) đều có biểu hiện tốt, ăn năn hối cải và mong muốn được nhà nước giảm tội. Vậy những trường hợp như trên, các bị cáo có cải thiện tốt, ăn năn hối cải, có được nhà nước khoan hồng? 1. Các chính sách khoan hồng của pháp luật Khoan hồng là chính sách nhân đạo của Nhà nước và Đảng dành cho những đối tượng là những người phạm tội biết ăn năn hối lỗi và có thể hòa nhập cộng đồng sau những lỗi lầm của bản thân. Điều này thể hiện được bản chất tốt đẹp nhân đạo, tha thứ của nhà nước, từ đó làm giàu giá trị của pháp luật nước ta. Tham khảo bài viết: Phó Chủ tịch nước có quyền đặc xá không? Căn cứ Bộ luật hình sự 2015 , quy định các chính sách khoan hồng sau: Điều luật Nội dung Án treo Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP - Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. - Điều kiện : - Bị xử phạt tù không quá 03 năm. - Có nhân thân tốt. - Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên - Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Xem chi tiết tại: Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP Cải tạo không giam giữ Điều 36 Bộ luật hình sự 2015 - Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. - Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Xem chi tiết tại: Bộ luật hình sự 2015 Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù Điều 67 Bộ luật hình sự 2015 - Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây: + Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục; + Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; + Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; + Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm. - Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015. Miễn chấp hành hình phạt Điều 62 Bộ luật hình sự 2015 - Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. - Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Sau khi bị kết án đã lập công; + Mắc bệnh hiểm nghèo; + Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Xem chi tiết tại: Bộ luật hình sự 2015 Giảm hình phạt đã tuyên Điều 105 Bộ luật hình sự 2015 - Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên. - Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. - Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại. Tha tù trước thời hạn có điều kiện Điều 66 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP - Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ. Điều kiện: + Đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. + Phạm tội lần đầu. Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Trước đó chưa phạm tội lần nào; + Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; + Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; + Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. - Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự Xem chi tiết tại: Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP 2. Các bị cáo ăn năn hối cải, cải thiện tốt, có được nhà nước khoan hồng? Căn cứ Điều 3 Bộ luật hình sự 2015, quy định về khoan hồng như sau: - Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra; Ngoài ra, căn cứ Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 về các tình tiết giảm nhẹ: - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả - Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Như vậy, xét các quy định trên, những bị cáo ăn năn hối cải, cải thiện tốt đều là những căn cứ để nhà nước xem xét giảm nhẹ tội và đều có thể được hưởng khoan hồng của pháp luật. Chung quy lại, chính sách khoan hồng được dựa trên truyền thống nhân đạo của nước ta “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Việc làm này cho thấy được sự công minh và tầm nhìn sâu rộng trong vấn đề quản lý của nhà nước. Đối với các bị cáo, dẫu đã “nhúng chàm”, nhưng chưa bao giờ quá trễ để làm việc đúng đắn. Nếu họ thành tâm ăn năn hối cải, cải thiện tốt, chắc chắn họ sẽ được nhà nước khoan hồng. Tham khảo bài viết: Phó Chủ tịch nước có quyền đặc xá không?
Tù treo hay án treo là hình thức miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo Điều 65 Bộ luật Hình sự, người được hưởng án treo phải có đủ các điều kiện là phạm tội ít nguy hiểm và bị xử phạt tù không quá 3 năm; có nhân thân tốt; có các tình tiết giảm nhẹ và Tòa án xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù. Như vậy, người chấp hành án treo không phải ngồi tù mà được hòa nhập với cộng đồng, tuy nhiên là phải có điều kiện đi kèm. Đây là quy định thể hiện tính khoan hồng của nhà nước. Khác với hình phạt tù, án treo cho phép người được tái hòa nhập với cộng đồng và thực hiện các nghĩa vụ, tuy nhiên ngoài thời gian chấp hành án treo thì người phạm tội còn phải chấp hành thêm một khoảng thời gian thử thách. Theo quy định pháp luật thì thời gian thử thách sẽ gấp đôi thời gian chấp hành án treo (tối thiếu là 1 năm và tối đa là 5 năm), trong khoảng thời gian này, nếu vi phạm một tội mới thì người đó sẽ dừng chấp hành án treo mà phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước đó cộng với mức án của tội mới. Tóm lại, người phạm tội được hưởng án treo sẽ phải đánh đổi giữa một bên là chấp hành hình phạt tù trong một khoảng thời gian rồi kết thúc và một bên là hưởng án treo cũng với khoảng thời gian đó nhưng cộng thêm một khoảng thời gian thử thách gấp đôi khoảng thời gian chấp hành án treo.
Nộp lại bao nhiêu tiền đã nhận hối lộ thì được giảm án tử hình?
Nhận hối lộ không chỉ là một hành vi vi phạm pháp luật mà còn là một tội ác nghiêm trọng, đe dọa đến sự phát triển của xã hội, người phạm tội này có thể bị kết án tử hình. (1) Tội nhận hối lộ bị phạt thế nào? Theo Điều 354 Bộ Luật Hình sự 2015, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ có thể bị phạt tù từ 2 đến 20 năm hoặc án tử hình, tùy thuộc vào giá trị và mức độ vi phạm. Cụ thể: - Nhận hối lộ từ 02 triệu đến dưới 100 triệu đồng, hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng đã vi phạm trước đó thì phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Nhận hối lộ từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng, hoặc gây thiệt hại từ 01 đến dưới 03 tỷ đồng thì phạt tù từ 07năm đến 15 năm. - Nhận hối lộ từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ đồng, hoặc gây thiệt hại từ 3 đến dưới 5 tỷ đồng, phạt từ 15 đến 20 năm. - Nhận hối lộ từ 01 tỷ đồng trở lên, hoặc gây thiệt hại từ 05 tỷ đồng trở lên, có thể bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ và bị phạt tiền. Quy định cũng áp dụng cho người có chức vụ trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước. Như vậy, theo quy định trên, người phạm tội hối lộ bị phạt với khung nhẹ nhất là 02 đến 07 năm tù, và bị phạt với khung nặng nhất là hình phạt tử hình khi có số tiền nhận hối lộ trên 01 tỷ đồng hoặc gây thiệt hại trên 05 tỷ đồng. (2) Nộp lại bao nhiêu tiền nhận hối lộ thì được giảm án tử hình? Theo quy định tại Điều 40 Bộ Luật Hình sự 2015, tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ Luật Hình sự 2015 quy định. Tuy nhiên, tại điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định, không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Như vậy, sau khi bị kết án, người phạm tội nhận hối lộ nộp lại ít nhất ba phần tư (¾) số tài sản đã nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng để điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì có thể được giảm án tử hình. Trong đó: - “Chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ” là trường hợp người phạm tội đã tự mình nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ sau khi phạm tội. Cũng được coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ đối với trường hợp người phạm tội sau khi phạm tội đã tác động để cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại hoặc không phản đối việc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản mà mình tham ô, nhận hối lộ. Đối với trường hợp trong cùng vụ án, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội, trong đó có tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và tội khác, nhưng đã chủ động nộp lại số tài sản bằng ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ thì cũng được coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ, trừ trường hợp có căn cứ rõ ràng xác định tài sản có nguồn gốc từ tội phạm khác. - “Hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” là sau khi phạm tội tham nhũng hoặc các tội phạm khác về chức vụ, người phạm tội đã chủ động cung cấp những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội (như: chỉ đúng nơi cất giấu vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật chứng đó; khai báo và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn; khai báo về tội phạm và người phạm tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội...). Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” nhưng Tòa án phải nhận định rõ trong bản án. - “Lập công lớn” là trường hợp người phạm tội đã giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm không liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân trong thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; có phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị lớn được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “lập công lớn” nhưng Tòa án phải nhận định rõ trong bản án. (Theo quy định tại khoản 7, khoản 8 và khoản 9 Điều 2 Nghị quyết 03/2020/HĐTP). (3) Nguyên tắc xử lý đối với tội phạm tham nhũng, nhận hối lộ Theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết 03/2020/HĐTP, việc xử lý tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự. Xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 Bộ Luật Hình sự 2015 đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015 hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau: - Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; - Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm; - Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra; - Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra. Tổng kết, việc xử lý tội phạm tham nhũng và nhận hối lộ cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc pháp luật, đồng thời xem xét áp dụng chính sách khoan hồng cho những trường hợp có tình tiết giảm nhẹ. Điều này không chỉ góp phần đảm bảo công bằng trong xử lý tội phạm mà còn khuyến khích những hành vi tích cực, thể hiện sự ăn năn hối cải và hợp tác của người phạm tội. Qua đó, chúng ta có thể xây dựng một môi trường pháp lý công bằng và hiệu quả, góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Phân biệt ân xá, đặc xá, đại xá? Tha tù trước thời hạn có điều kiện có phải là đặc xá không?
Làm thế nào để phân biệt ân xá, đặc xá và đại xá? Biện pháp tha tù trước thời hạn có điều kiện có phải là đặc xá không? Bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Xem thêm: 1 năm có mấy lần đặc xá? Điều kiện để được đặc xá năm 2024 Năm 2024, ngày nào sẽ công bố Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn của Chủ tịch nước ? Phân biệt ân xá, đặc xá, đại xá? Hiện nay pháp luật không quy định cụ thể về khái niệm của ân xá, tuy nhiên có thể hiểu ân xá là đặc ân của nhà nước trong việc miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với những người phạm tội, mở ra cho những người phạm tội khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội và nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng. Ân xá được thực hiện với hai hình thức là đại xá và đặc xá. Theo đó, đặc xá và đại xá được phân biệt như sau: Tiêu chí phân biệt Đại xá Đặc xá Khái niệm Đại xá là sự khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm nhất định với hàng loạt người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. (Khoản 1 Điều 3 Luật Đặc xá 2018) Bản chất Là một chính sách khoan hồng của Nhà nước, trong đó thực hiện việc không truy cứu trách nhiệm hình sự, tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm hoặc nhiều người phạm tội nhất định không phân biệt họ đang chấp hành hình phạt, đã bị truy tố hay xét xử hay chưa. Là việc miễn chấp hành hình phạt cho người đang bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân để họ có thể được tha tù, không phải chấp hành hình phạt tù nữa, ra tù sớm hơn thời gian mà họ phải chấp hành theo bản án, quyết định của Tòa án. Việc đặc xá chỉ được thực hiện khi nhân những dịp lễ quan trọng của đất nước hoặc trường hợp đặc biệt với những điều kiện nhất định. Thẩm quyền quyết định Quốc hội (Khoản 11 Điều 70 Hiến pháp 2013) Chủ tịch nước (Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2023) Đối tượng Người phạm tội trong giai đoạn đã hoặc chưa bị truy tố, xét xử, thi hành án. Áp dụng cho người phạm tội đang trong giai đoạn thi hành án phạt tù (tù có thời hạn, tù chung thân). Phạm vi áp dụng Chỉ loại trừ đối với một số tội phạm nguy hiểm mà nếu đại xá sẽ ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Áp dụng cho người phạm tội cụ thể theo tình hình thực tiễn. Phải đáp ứng một số điều kiện mới được đề nghị đặc xá Điều kiện Phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị xã hội, diễn biến tội phạm Đáp ứng quy định tại Điều 11 Luật Đặc xá năm 2018 Cơ sở ra quyết định Thường được đưa ra trong phiên họp Quốc hội và được các đại biểu thống nhất thông qua. Người đề nghị đặc xá phải đáp ứng được điều kiện quy định và có đơn đề nghị đặc xá gửi đến Chủ tịch nước. Hậu quả pháp lý Người phạm tội đang ở giai đoạn điều tra, truy tố hay xét xử đều được miễn trách nhiệm hình sự - Nếu đã bị tuyên hình phạt, đang chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại và được xóa án tích - Nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định khác của Tòa án thì được xóa án tích Người được đặc xá được miễn chấp hành hình phạt còn lại nhưng không được xóa án tích ngay như người được quyết định đại xá và vẫn có tiền án trong lý lịch tư pháp. Như vậy, ân xá là đặc ân của nhà nước nhằm thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội. Ân xá được thể hiện qua hai hình thức là đặc xá và đại xá. Tha tù trước thời hạn có điều kiện có phải là đặc xá không? Như đã phân tích tại phần trên. Đặc xá là việc tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Để được đặc xá, người phạm nhân cũng phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Tuy nhiên, tha tù trước thời hạn có điều kiện và đặc xá là hai hình thức khác nhau. Theo Điều 1 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP, tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ. Đồng thời, theo Điều 5, Điều 7 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC, cơ quan có thẩm quyền quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù. Như vậy, đặc xá và tha tù trước thời hạn có điều kiện là hai hình thức khác nhau. Mặc dù kết quả là các đối tượng đều sẽ được tha tù trước thời hạn nhưng đối tượng của đặc xá là người phạm tội trong giai đoạn đã hoặc chưa bị truy tố, xét xử, thi hành án, còn đối tượng của tha tù trước thời hạn có điều kiện là người đang chấp hành án phạt tù. Xem thêm: 1 năm có mấy lần đặc xá? Điều kiện để được đặc xá năm 2024 Năm 2024, ngày nào sẽ công bố Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn của Chủ tịch nước ?
Bị cáo ăn năn hối cải, cải thiện tốt, có được nhà nước khoan hồng?
Tiếp tục phiên tòa xét xử vụ án của ngân hàng SCB, một số bị cáo như ông H (cựu quyền Tổng giám đốc) hay ông D (cựu Chủ tịch HĐQT) đều có biểu hiện tốt, ăn năn hối cải và mong muốn được nhà nước giảm tội. Vậy những trường hợp như trên, các bị cáo có cải thiện tốt, ăn năn hối cải, có được nhà nước khoan hồng? 1. Các chính sách khoan hồng của pháp luật Khoan hồng là chính sách nhân đạo của Nhà nước và Đảng dành cho những đối tượng là những người phạm tội biết ăn năn hối lỗi và có thể hòa nhập cộng đồng sau những lỗi lầm của bản thân. Điều này thể hiện được bản chất tốt đẹp nhân đạo, tha thứ của nhà nước, từ đó làm giàu giá trị của pháp luật nước ta. Tham khảo bài viết: Phó Chủ tịch nước có quyền đặc xá không? Căn cứ Bộ luật hình sự 2015 , quy định các chính sách khoan hồng sau: Điều luật Nội dung Án treo Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP - Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. - Điều kiện : - Bị xử phạt tù không quá 03 năm. - Có nhân thân tốt. - Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên - Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Xem chi tiết tại: Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP Cải tạo không giam giữ Điều 36 Bộ luật hình sự 2015 - Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. - Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Xem chi tiết tại: Bộ luật hình sự 2015 Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù Điều 67 Bộ luật hình sự 2015 - Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây: + Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục; + Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; + Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; + Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm. - Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015. Miễn chấp hành hình phạt Điều 62 Bộ luật hình sự 2015 - Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. - Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Sau khi bị kết án đã lập công; + Mắc bệnh hiểm nghèo; + Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Xem chi tiết tại: Bộ luật hình sự 2015 Giảm hình phạt đã tuyên Điều 105 Bộ luật hình sự 2015 - Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên. - Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. - Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại. Tha tù trước thời hạn có điều kiện Điều 66 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP - Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ. Điều kiện: + Đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. + Phạm tội lần đầu. Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Trước đó chưa phạm tội lần nào; + Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; + Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; + Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. - Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự Xem chi tiết tại: Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP 2. Các bị cáo ăn năn hối cải, cải thiện tốt, có được nhà nước khoan hồng? Căn cứ Điều 3 Bộ luật hình sự 2015, quy định về khoan hồng như sau: - Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra; Ngoài ra, căn cứ Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 về các tình tiết giảm nhẹ: - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả - Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Như vậy, xét các quy định trên, những bị cáo ăn năn hối cải, cải thiện tốt đều là những căn cứ để nhà nước xem xét giảm nhẹ tội và đều có thể được hưởng khoan hồng của pháp luật. Chung quy lại, chính sách khoan hồng được dựa trên truyền thống nhân đạo của nước ta “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Việc làm này cho thấy được sự công minh và tầm nhìn sâu rộng trong vấn đề quản lý của nhà nước. Đối với các bị cáo, dẫu đã “nhúng chàm”, nhưng chưa bao giờ quá trễ để làm việc đúng đắn. Nếu họ thành tâm ăn năn hối cải, cải thiện tốt, chắc chắn họ sẽ được nhà nước khoan hồng. Tham khảo bài viết: Phó Chủ tịch nước có quyền đặc xá không?
Tù treo hay án treo là hình thức miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo Điều 65 Bộ luật Hình sự, người được hưởng án treo phải có đủ các điều kiện là phạm tội ít nguy hiểm và bị xử phạt tù không quá 3 năm; có nhân thân tốt; có các tình tiết giảm nhẹ và Tòa án xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù. Như vậy, người chấp hành án treo không phải ngồi tù mà được hòa nhập với cộng đồng, tuy nhiên là phải có điều kiện đi kèm. Đây là quy định thể hiện tính khoan hồng của nhà nước. Khác với hình phạt tù, án treo cho phép người được tái hòa nhập với cộng đồng và thực hiện các nghĩa vụ, tuy nhiên ngoài thời gian chấp hành án treo thì người phạm tội còn phải chấp hành thêm một khoảng thời gian thử thách. Theo quy định pháp luật thì thời gian thử thách sẽ gấp đôi thời gian chấp hành án treo (tối thiếu là 1 năm và tối đa là 5 năm), trong khoảng thời gian này, nếu vi phạm một tội mới thì người đó sẽ dừng chấp hành án treo mà phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước đó cộng với mức án của tội mới. Tóm lại, người phạm tội được hưởng án treo sẽ phải đánh đổi giữa một bên là chấp hành hình phạt tù trong một khoảng thời gian rồi kết thúc và một bên là hưởng án treo cũng với khoảng thời gian đó nhưng cộng thêm một khoảng thời gian thử thách gấp đôi khoảng thời gian chấp hành án treo.